Tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) của Nhà nước là một hình thức tín dụng đặc biệt,
trong đó Nhà nước thực hiện tín dụng không vì mục đích lợi nhuận mà hướng tới hiệu quả
và công bằng của nền kinh tế quốc gia. ở Việt Nam, cùng với quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng từng
bước được cải cách. Một trong các hướng cải cách đó là thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển
(Quỹ HTPT) và sau đó là Ngân hàng phát triển (NHPT) Việt Nam. Trong hơn 8 năm hoạt
động, tổ chức này đã đóng góp tích cực vào triển khai các dự án phát triển kinh tế thuộc
các lĩnh vực, các ngành, các vùng mà Nhà nước ưu tiên. Thực tiễn hoạt động của NHPT
Việt Nam đã khẳng định tín dụng ĐTPT của Nhà nước là công cụ quan trọng của Chính
phủ không chỉ trong chỉ đạo, điều hành và triển khai các dự án lớn, các chương trình trọng
điểm, mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo, thực hiện mục
tiêu CNH, HĐH đất nước. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước vừa thực hiện mục tiêu tăng
trưởng kinh tế, vừa thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.
Trong bối cảnh nước ta đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu đổi mới
chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước càng đặt ra cấp thiết hơn. Đồng thời, yêu cầu CNH,
HĐH, phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác các tiềm năng của các vùng, miền khó khăn, đặc biệt
khó khăn của đất nước cũng đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tín dụng ĐTPT của Nhà nước theo
hướng hiệu quả hơn.
Hơn nữa, hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống NHPT nói chung,
Chi nhánh NHPT Thanh Hoá nói riêng, bên cạnh những kết quả đạt được, đã bộc lộ những
hạn chế. Thực tế đó đòi hỏi phải có những giải pháp để đổi mới hoạt động tín dụng ĐTPT
của Nhà nước trong hệ thống NHPT nói chung và Chi nhánh NHPT Thanh Hoá nói riêng.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài: “Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá” được chọn làm
đối tượng nghiên cứu trong luận văn.
130 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2098 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước tại Chi nhánh Ngân
hàng Phát triển Thanh Hoá
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) của Nhà nước là một hình thức tín dụng đặc biệt,
trong đó Nhà nước thực hiện tín dụng không vì mục đích lợi nhuận mà hướng tới hiệu quả
và công bằng của nền kinh tế quốc gia. ở Việt Nam, cùng với quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng từng
bước được cải cách. Một trong các hướng cải cách đó là thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển
(Quỹ HTPT) và sau đó là Ngân hàng phát triển (NHPT) Việt Nam. Trong hơn 8 năm hoạt
động, tổ chức này đã đóng góp tích cực vào triển khai các dự án phát triển kinh tế thuộc
các lĩnh vực, các ngành, các vùng mà Nhà nước ưu tiên. Thực tiễn hoạt động của NHPT
Việt Nam đã khẳng định tín dụng ĐTPT của Nhà nước là công cụ quan trọng của Chính
phủ không chỉ trong chỉ đạo, điều hành và triển khai các dự án lớn, các chương trình trọng
điểm, mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo, thực hiện mục
tiêu CNH, HĐH đất nước. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước vừa thực hiện mục tiêu tăng
trưởng kinh tế, vừa thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.
Trong bối cảnh nước ta đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu đổi mới
chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước càng đặt ra cấp thiết hơn. Đồng thời, yêu cầu CNH,
HĐH, phát triển cơ sở hạ tầng, khai thác các tiềm năng của các vùng, miền khó khăn, đặc biệt
khó khăn của đất nước cũng đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tín dụng ĐTPT của Nhà nước theo
hướng hiệu quả hơn.
Hơn nữa, hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống NHPT nói chung,
Chi nhánh NHPT Thanh Hoá nói riêng, bên cạnh những kết quả đạt được, đã bộc lộ những
hạn chế. Thực tế đó đòi hỏi phải có những giải pháp để đổi mới hoạt động tín dụng ĐTPT
của Nhà nước trong hệ thống NHPT nói chung và Chi nhánh NHPT Thanh Hoá nói riêng.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài: “Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá” được chọn làm
đối tượng nghiên cứu trong luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
NHPT là một loại hình ngân hàng đặc thù, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận,
tỷ lệ dự trữ bắt buộc 0%, được Chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán, mới được thành
lập hơn hai năm (trên cơ sở tổ chức lại hệ thống Quỹ HTPT), do đó chưa có nhiều công
trình nghiên cứu chuyên sâu về tín dụng của loại hình ngân hàng này. Cho đến nay mới có
một số công trình nghiên cứu tín dụng ĐTPT và NHPT dưới một số góc độ khác nhau. Có
thể kể ra một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn:
- Trần Công Hoà, “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc", Luận
án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2007.
- Đặng Tố Loan,“Mở rộng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Quỹ Hỗ trợ
phát triển - Chi nhánh Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc
dân, năm 2003.
- Nguyễn Gia Thế“Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng
ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển”, Luận văn thạc sĩ kinh tế,
Tr−ờng Đại học Th−ơng mại, năm 2004.
- Lê Thị Định Hương,“Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT tại Quỹ Hỗ trợ
phát triển TP.HCM”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, năm
2004.
- Trần Thị Mỹ Hạnh (2003), Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng nhà nước qua Quỹ
Hỗ trợ phát triển, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Ngân hàng.
Các công trình nghiên cứu trên có đề cập đến quản lý, nâng cao hiệu quả, chất
lượng tín dụng trong hoạt động của hệ thống Quỹ HTPT/NHPT; đã tiếp cận và giải quyết
nhiều nội dung về hiệu quả tín dụng, chất lượng tín dụng của NHPT. Tuy nhiên, trên địa
bàn tỉnh Thanh Hoá và ở Chi nhánh NHPT Thanh Hoá chưa có đề tài nào nghiên cứu về
vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt
động tín dụng ĐTPT của Nhà nước, tìm và đề xuất giải pháp đổi mới hoạt động này ở Chi
nhánh NHPT Thanh Hoá trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng ĐTPT của
Nhà nước.
- Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng ĐTPT của Chi nhánh NHPT Thanh Hoá
qua hơn 2 năm từ khi thành lập và 6 năm hoạt động của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển
Thanh Hoá (tiền thân của Chi nhánh NHPT Thanh Hoá), qua đó chỉ ra những kết quả đạt
được, những hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm đổi mới hoạt động tín dụng ĐTPT
của Nhà nước tại Chi nhánh NHPT Thanh Hoá trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước thuộc thẩm quyền
triển khai của Chi nhánh NHPT Thanh Hoá, giới hạn trong khuôn khổ sử dụng nguồn vốn
trong nước với các hình thức: cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ sau đầu
tư. Thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến nay. Các giải pháp định hướng cho giai đoạn
đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội truyền
thống như duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm hệ thống... Các phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, diễn giải, khảo sát... được sử dụng kết hợp để luận
giải các vấn đề lý luận và thực tiễn. Luận văn coi quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà
nước, các Quy chế, Quy trình, Quy định của NHPT Việt Nam là tiền đề để nghiên cứu
thực tiễn tại Chi nhánh NHPT Thanh Hoá.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Khắc hoạ rõ nét bức tranh về hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước ở Chi nhánh
NHPT Thanh Hoá.
- Đề xuất các giải pháp tổng thể nhằm đổi mới hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà
nước ở Chi nhánh NHPT Thanh Hoá.
- Đưa ra những kiến nghị đối với NHPT Việt Nam, các cấp Chính quyền, các ngành
có liên quan tại địa phương về chính sách, quy định và thực hiện các giải pháp bổ trợ cho
việc đổi mới hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại Chi nhánh NHPT Thanh Hoá.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương, 10 tiết và 15 bảng biểu, sơ đồ.
Chương 1
Những vấn đề cơ bản
về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
1.1. khái niệm, đặc điểm, vai trò Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
a. Khái niệm đầu tư
Đầu tư là việc đưa một lượng vốn nhất định vào quá trình hoạt động kinh tế nhằm
thu lại một lượng giá trị lớn hơn sau một khoảng thời gian xác định. Đầu tư có hai đặc
trưng cơ bản là tính sinh lợi và thời gian kéo dài. Tính sinh lợi là đặc trưng hàng đầu của
đầu tư. Không thể coi là đầu tư nếu việc sử dụng tiền vốn không nhằm mục đích thu lại
một khoản tiền có giá trị lớn hơn khoản tiền đã bỏ ra ban đầu. Đặc trưng thứ hai của đầu tư
là chỉ có thể thu hồi giá trị ứng ra sau thời gian khá dài nên thường gánh chịu nhiều rủi ro.
Có nhiều hình thức đầu tư như đầu tư phát triển, đầu tư chuyển dịch; đầu tư ngắn hạn,
đầu tư trung và dài hạn; đầu tư vào lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá…Chủ đầu tư có thể
đầu tư bằng nguồn vốn chủ sở hữu hoặc bằng nguồn vốn đi vay.
b. Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là loại đầu t− nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng
năng lực sản xuất kinh doanh và năng lực hoạt động của xã hội. ĐTPT là điều kiện chủ
yếu để tạo việc làm, cải thiện chất lượng sống của ng−ời dân trong xã hội. ĐTPT thường
thể hiện dưới các hình thức bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ
tầng, mua sắm lắp đặt trang thiết bị, bồi d−ỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi
phí th−ờng xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì năng lực hoạt
động và tạo năng lực mới cho nền kinh tế.
ĐTPT khác biệt với các loại hình đầu t− khác ở chỗ:
- Đòi hỏi một số vốn lớn, khó thu hồi do mục tiêu chủ yếu là đầu t− vào tài sản cố
định (TSCĐ).
- Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu t− từ khi bắt đầu đến khi các thành quả
của nó phát huy tác dụng th−ờng kéo dài nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. Do
đó, hoạt động ĐTPT không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu
tố không ổn định về tự nhiên (địa lý, địa chất, môi tr−ờng khí hậu...), về xã hội, chính trị,
kinh tế...
- Các thành quả của hoạt động ĐTPT có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi
hàng trăm, hàng ngàn năm, gắn liền với địa danh xây dựng.
- Để đảm bảo cho công cuộc đầu t− đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao phải làm tốt
công tác chuẩn bị.
Cũng chính vì những đặc điểm nêu trên nên hoạt động ĐTPT đòi hỏi phải đ−ợc tổ
chức thực hiện một cách chu đáo, bài bản d−ới hình thức các dự án đầu t−, còn gọi là dự
án ĐTPT hay dự án phát triển.
c. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước
Tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc là sự hỗ trợ của Nhà n−ớc thông qua các hình thức
tín dụng cho các dự án phát triển thuộc lĩnh vực đ−ợc Nhà n−ớc khuyến khích. Về mặt
hình thức, tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng dựa trên các quan hệ vay mượn có hoàn trả
cả gốc lẫn lãi. Nhưng về nội dung, tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc không phải là hoạt động
kinh doanh về tiền tệ của Nhà nước mà là kênh hỗ trợ các nhà đầu tư huy động được vốn
cho ĐTPT. Ngày nay, ngoài đầu tư trực tiếp, Chính phủ các n−ớc th−ờng sử dụng tín dụng
ĐTPT của Nhà n−ớc nh− một công cụ khuyến khích đầu tư.
Trên thực tế, tín dụng ĐTPT của Nhà nước ra đời đã đáp ứng được mục đích của Nhà
nước chuyển từ bao cấp vốn sang hỗ trợ dưới dạng cho vay có hoàn trả. Ưu điểm của hoạt
động tín dụng ĐTPT của Nhà nước là các hoạt động đầu tư được sử dụng nguồn vốn Nhà
nước để tạo ra nguồn thu có khả năng hoàn trả khoản vốn đã sử dụng. Nhờ đó tín dụng
ĐTPT của Nhà nước không chỉ góp phần tập trung được các nguồn vốn cần thiết cho
ĐTPT mà còn có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn và phát triển được nguồn
vốn của Nhà nước. Thông qua tín dụng ĐTPT, Nhà nước có thể mở rộng và chủ động
trong việc giải quyết các mục tiêu dài hạn.
Do tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một hình thức tín dụng đặc biệt, ở đó thước đo
hiệu quả không phải là lợi nhuận cá biệt, mà là hiệu quả xã hội, chính trị, quân sự. Thông
thường khi xem xét hiệu quả kinh tế của tín dụng ĐTPT của Nhà nước người ta phải trả lời
các câu hỏi sau:
- Tính vĩ mô: tín dụng ĐTPT của Nhà nước ảnh hưởng như thế nào đến các lĩnh vực then
chốt, đến ngành, vùng, hay khu vực… của nền kinh tế quốc gia?
- Tính vi mô: tín dụng ĐTPT của Nhà nước giúp các chủ thể kinh tế, các nhóm dân
cư cải thiện chất lượng hoạt động như thế nào? Tính vi mô còn thể hiện ở hiệu quả hoạt
động của các tổ chức quản lý và thực thi tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
- Tính xã hội: tín dụng ĐTPT của Nhà nước hỗ trợ như thế nào các lĩnh vực mà tín
dụng thương mại với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận có thể không giải quyết được (do hiệu
quả trực tiếp của nhà đầu tư không được đảm bảo, hoặc qui mô nguồn vốn quá lớn, hay
thời gian thu hồi vốn đầu tư quá dài) nhưng có vai trò quan trọng đối với xã hội và đất
nước như giải quyết việc làm cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, điều chỉnh cơ cấu
kinh tế, phát triển kinh tế vùng,...
- Tính chính trị: tín dụng ĐTPT của Nhà nước hỗ trợ thực thi các chương trình của
Nhà nước như thế nào và đặc biệt là góp phần ra sao trong củng cố sức mạnh xã hội, củng
cố lòng tin của dân chúng vào Đảng và Nhà nước...
Ngoài ra, ở các n−ớc đang phát triển, khi thị tr−ờng vốn còn ch−a hoàn thiện, việc
huy động đ−ợc đủ vốn dài hạn để tài trợ cho các dự án phát triển là điều không hề đơn
giản. Do vậy, tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc còn phải hỗ trợ thị trường thông qua bảo lãnh
cho các chủ thể vay vốn. Quy mô tín dụng ĐTPT của Nhà nước phụ thuộc vào sức mạnh
tài chính nhà nước. Đối với các Nhà nước đang chịu gánh nặng thâm hụt ngân sách thì quy
mô tín dụng ĐTPT của Nhà nước khá hạn hẹp.
1.1.2. Các hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc bao gồm các hình thức: cho vay đầu t−, bảo lãnh tín
dụng đầu t− và hỗ trợ sau đầu t− [19].
a. Cho vay đầu t−
Cho vay đầu tư là việc tổ chức được giao nhiệm vụ cung ứng tín dụng ĐTPT của Nhà
n−ớc cho các chủ đầu t− vay vốn theo chính sách của Nhà nước để họ thực hiện các dự án
đầu t− phát triển. Cho vay đầu tư với tư cách tín dụng ĐTPT của Nhà nước có các tính
chất sau:
- Việc cho vay đầu t− đ−ợc thực hiện theo trình tự các b−ớc gồm: tiếp nhận và thẩm
định (bao gồm thẩm định năng lực chủ đầu t− và thẩm định dự án) -> Quyết định cho vay -
> Giải ngân và giám sát tín dụng -> Thu hồi nợ/xử lý rủi ro.
- Nguồn vốn để cho vay đầu t− bao gồm:
+ Nguồn vốn do NSNN cấp cho tổ chức thực hiện nhiệm vụ tín dụng ĐTPT của Nhà
n−ớc.
+ Nguồn vốn huy động: phát hành trái phiếu, huy động tiền gửi, vốn vay các tổ
chức...
+ Các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật: nguồn góp vốn ban đầu của các
tổ chức, nguồn tài trợ từ thiện.
- Lãi suất cho vay đ−ợc xác định trên cơ sở mức rủi ro của dự án và mức độ −u tiên
của Chính phủ đối với ngành nghề/lĩnh vực mà dự án đầu t−. Lãi suất cho vay th−ờng thấp
hơn lãi suất thị tr−ờng. Lãi suất cho vay có thể đ−ợc cố định hoặc thả nổi tuỳ theo đặc
điểm của dự án và khả năng quản lý rủi ro của tổ chức cho vay.
- Phù hợp với đặc điểm của ĐTPT, thời hạn cho vay th−ờng dài và số vốn cho vay lớn.
Việc trả nợ của dự án thực hiện trong nhiều kỳ và kéo dài trong nhiều năm. Vốn tín dụng
ĐTPT của Nhà n−ớc th−ờng chiếm tỷ lệ cao trong tổng các nguồn vốn tham gia đầu t− nh−ng
không đáp ứng 100% nhu cầu vốn đầu t−. Các chủ đầu t− phải huy động thêm vốn từ các
nguồn khác để đầu t− dự án.
- Điều kiện về đảm bảo tiền vay th−ờng đơn giản và “dễ chịu” hơn so với tín dụng
th−ơng mại. Tuỳ thuộc nhu cầu vốn đầu t−, đồng tiền cho vay có thể là nội tệ hoặc ngoại tệ
(th−ờng để nhập máy móc, thiết bị... từ n−ớc ngoài).
b. Bảo lãnh tín dụng đầu t−
Bảo lãnh tín dụng đầu tư là việc tổ chức thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc (tổ
chức bảo lãnh) cam kết với tổ chức tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn
của bên đi vay. Trong tr−ờng hợp bên đi vay không trả đ−ợc nợ hoặc trả không đủ nợ khi
đến hạn, tổ chức bảo lãnh sẽ trả nợ thay cho bên đi vay. Bảo lãnh tín dụng đầu tư phải đáp
ứng các yêu cầu:
- Thời hạn bảo lãnh, số vốn bảo lãnh và điều kiện bảo lãnh đ−ợc xác định t−ơng tự
nh− đối với cho vay đầu t− trên cơ sở thoả thuận của các bên. Tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro
của dự án, bên đi vay (chủ đầu t−) có thể phải có tài sản bảo đảm cho bảo lãnh.
- Chủ đầu t− phải trả phí bảo lãnh cho tổ chức bảo lãnh.
- Tr−ờng hợp tổ chức bảo lãnh phải trả nợ thay cho bên đi vay thì sau khi trả nợ thay,
tổ chức bảo lãnh đ−ợc quyền tiếp nhận khoản tín dụng đó và bên đi vay phải nhận nợ với
tổ chức bảo lãnh, tổ chức bảo lãnh khi đó đ−ợc quyền thực hiện các biện pháp để thu hồi
vốn theo thoả thuận ban đầu đã ký và quy định của pháp luật.
c. Hỗ trợ sau đầu tư
Hỗ trợ sau đầu tư là việc tổ chức thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc hỗ trợ một
phần lãi suất cho chủ đầu t− vay vốn của các tổ chức tín dụng để đầu t− dự án, sau khi dự
án đã hoàn thành đ−a vào sử dụng và trả đ−ợc nợ vay. Đây là hình thức trợ cấp bằng tiền
cho các doanh nghiệp, không có ràng buộc về trách nhiệm giữa doanh nghiệp và tổ chức
thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc.
Nguồn vốn thực hiện cấp hỗ trợ sau đầu tư đ−ợc NSNN cấp. Tổ chức thực thi chịu trách
nhiệm thẩm tra hồ sơ dự án đảm bảo đúng quy định, đã hoàn thành đ−a vào khai thác sử dụng
và đã trả đ−ợc nợ vay cho các tổ chức đã cho vay.
1.1.3. Đặc điểm tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Là một loại hình tín dụng trong hệ thống tín dụng của nền kinh tế quốc dân, tín dụng
ĐTPT của Nhà nước cũng mang những đặc điểm vốn có của tín dụng nói chung (quan hệ
ba bên trong đó tổ chức tín dụng đóng vai trò trung gian giữa người có tiền tạm thời nhàn
dỗi và người có nhu cầu sử dụng tiền; quan hệ tài chính dựa trên sự tín nhiệm; quan hệ
nhượng quyền sử dụng tiền trong một thời gian nhất định; lãi suất là giá của quyền sử dụng
tiền theo thời gian…). Tuy nhiên, do được tổ chức thực hiện bởi các cơ quan được Nhà
nước uỷ quyền nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu của Nhà nước, đồng thời lại
hướng đến đối tượng phục vụ là hoạt động ĐTPT, nên tín dụng ĐTPT nhà nước mang
những đặc trưng riêng, phản ánh sự đan xen giữa đặc điểm của tín dụng và đặc điểm của
sử dụng NSNN. Những đặc trưng này là:
- Nhà nước can thiệp vào các quyết định tín dụng
Nếu trong tín dụng thương mại, tổ chức tín dụng có toàn quyền quyết định huy động
vốn ở đâu, cho ai vay, lãi suất như thế nào, thì trong tín dụng ĐTPT của Nhà nước, Nhà
nước can thiệp sâu vào các quyết định tín dụng trên nhiều phương diện như cung cấp
nguồn vốn với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh hoặc tổ chức phát hành trái phiếu chính phủ huy
động vốn để cho vay đầu tư, quy định ai được vay, vay với lãi suất như thế nào…. Ngoài
ra, tín dụng ĐTPT của Nhà nước thường được thực hiện với sự tham gia của một cơ quan
nhà nước đặc thù (tổ chức được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện). Cơ quan nhà nước có
thể đóng vai trò là người đi vay hoặc là người cho vay, nhưng trong mọi trường hợp, cơ
quan nhà nước đều là người chủ động tổ chức quan hệ tín dụng. Cơ quan nhà nước thực
hiện tín dụng ĐTPT theo chính sách của Nhà nước, nhằm hướng tới các mục tiêu mà Nhà
nước theo đuổi. Nói cách khác, tổ chức thực thi tín dụng ĐTPT của Nhà nước có rất ít
quyền tự chủ.
- Tính hiệu quả kinh tế đan xen hiệu quả chính trị, xã hội
Khác với mục đích của các loại hình tín dụng khác trong nền kinh tế thị trường là tìm
kiếm lợi nhuận, mục đích của tín dụng ĐTPT của Nhà nước là hỗ trợ các dự án ĐTPT
thuộc đối tượng mà Nhà nước muốn khuyến khích phát triển. Do đó hoạt động tín dụng
ĐTPT của Nhà nước không vì mục đích lợi nhuận, không đặt mục đích lợi nhuận do khoản
tín dụng đó đem lại lên hàng đầu, mà nhấn mạnh hiệu quả kinh tế - chính trị - xã hội.
Chính vì yêu cầu về hiệu quả tổng hợp như vậy nên lãi suất cho vay của tín dụng ĐTPT
của Nhà nước thường thấp hơn lãi suất thị trường và được NSNN cấp bù đắp khoản thâm
hụt (nếu có) do phải huy động vốn với lãi suất cao hơn.
- Tính kế hoạch - chỉ định
Hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước mang tính kế hoạch - chỉ định rõ ràng. Kế
hoạch tín dụng ĐTPT hàng năm là một bộ phận của kế hoạch ĐTPT của Nhà nước nhằm
thực hiện những mục tiêu chiến lược về phát triển KT-XH trong từng thời kỳ và được Nhà
nước thông báo hàng năm. Việc cho vay ĐTPT đối với các dự án được thực hiện theo kế
hoạch hàng năm do Nhà nước giao. Việc huy động vốn được thực hiện căn cứ trên nhu cầu
giải ngân cho các dự án đã đăng ký theo kế hoạch. Lãi suất huy động vốn và lãi suất cho
vay ĐTPT cũng được Nhà nước quyết định và thông báo trong từng thời kỳ.
Do thực hiện chính sách phát triển kinh tế theo mục tiêu của Chính phủ nên hoạt
động tín dụng ĐTPT của Nhà nước được Chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ về nguồn vốn thông
qua việc cấp vốn trực tiếp hoặc hỗ trợ trong huy động vốn. Đây là một đặc điểm hết sức
quan trọng và khác biệt so với tín dụng của các NHTM. Sự hậu thuẫn này có tác dụng
nâng cao vị thế của tổ chức thực thi tín dụng ĐTPT của Nhà nước và tạo điều kiện tiếp cận
thuận lợi các nguồn vốn với lãi suất thấp.
- Ưu đãi về khối lượng, thời hạn và lãi suất
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước hàm chứa sự ưu đãi của Nhà nước đối với các đối
tượng thụ hưởng. Sự ưu đãi của Nhà nước có thể được thể hiện trên phương diện khối
lượng, thời hạn và lãi suất cho vay. Cụ thể:
+ Về khối lượng: Các dự án ĐTPT thuộc đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT có thể
được Nhà nước cho vay một số lượng vốn rất lớn theo ý chí của Nhà nước, không bị ràng
buộc bởi các giới hạn v