Đông Nam Bộ hiện nay là một trong những vùng kinh tế phát triển nhất của
nước ta, khu vực này nằm như gần trọn trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam,
trên hành lang kinh tế Đông – Tây, nối với Campuchia và các nước Đông Nam
Á, khá thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và giao lưu quốc tế. Khu
vực này có 5 tỉnh và 1 thành phố gồm: “Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh,
Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu” [144]. Đây là vùng có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm “GDP đạt hơn 10% mỗi
năm, đóng góp khoảng 40% sản lượng công nghiệp, hơn 30 % GDP và hơn 30
% ngân sách cả nước” [14, tr.8], đời sống vật chất và tinh thần của người dân
không ngừng được nâng cao.
178 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2925 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đông Nam Bộ trong tiến trình mở đất phương Nam (thế kỉ XVII – XVIII), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Ngọc Chúc
ĐÔNG NAM BỘ TRONG TIẾN TRÌNH
MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM
(THẾ KỈ XVII – XVIII)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Ngọc Chúc
ĐÔNG NAM BỘ TRONG TIẾN TRÌNH
MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM
(THẾ KỈ XVII – XVIII)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60 22 03 13
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ HUỲNH HOA
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là của riêng tôi do TS. Lê Huỳnh Hoa hướng
dẫn. Những tư liệu, trích dẫn trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc.
TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng 9 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Ngọc Chúc
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cám ơn Ban Giám Hiệu, Ban Chủ Nhiệm
Khoa Lịch Sử, phòng Sau Đại Học và quý Thầy, Cô trong khoa Lịch
Sử của trường Đại Học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ
và dạy dỗ em trong suốt quá trình học tập ở trường.
Để hoàn thành luận văn này em xin bày tỏ sự tri ân và lòng biết
ơn sâu sắc tới TS. Lê Huỳnh Hoa, người đã tận tình hướng dẫn cho em
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới thư viện trường ĐHSP TP.
HCM, Thư viện Khoa Học Xã Hội, thư viện tỉnh Bình Dương, thư viện
tỉnh Đồng Nai đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm kiếm tư liệu để phục
vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, những người
thân quen, bạn hữu, đồng nghiệp đã dành tình cảm, động viên và giúp
đỡ tôi trong những ngày học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn
này.
Với khả năng hiểu biết còn có hạn, chắc chắn nội dung của luận
văn khó tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết, kính mong nhận
được sự hướng dẫn, góp ý từ quý Thầy, Cô.
Xin trân trọng cảm ơn !
Nguyễn Ngọc Chúc
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ “ĐẤT VÀ NGƯỜI” ĐÔNG NAM BỘ
CHO ĐẾN THẾ KỈ XVII ............................................................. 13
1.1. Về địa danh và điều kiện địa lý – tự nhiên ................................................... 13
1.1.1. Về địa danh “Đông Nam Bộ” ......................................................... 13
1.1.2. Về điều kiện địa lý, tự nhiên ........................................................... 17
1.2. Về lịch sử - dân cư ....................................................................................... 21
1.2.1. Đông Nam Bộ trước công nguyên .................................................. 21
1.2.2. Đông Nam Bộ từ công nguyên đến trước thế kỉ XVII ................... 29
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 42
Chương 2. QUÁ TRÌNH MỞ ĐẤT ĐÔNG NAM BỘ TRONG THẾ
KỈ XVII - XVIII ............................................................................ 44
2.1. Bối cảnh lịch sử ............................................................................................ 44
2.1.1.Tình hình trong nước ....................................................................... 44
2.1.2. Tình hình khu vực ........................................................................... 56
2.2. Quá trình khai mở vùng đất Đông Nam Bộ ................................................. 65
2.2.1. Sự có mặt của người Việt trên vùng đất Nam Bộ ........................... 65
2.2.2. Công cuộc mở đất Đông Nam Bộ ................................................... 78
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 96
Chương 3. VAI TRÒ CỦA ĐÔNG NAM BỘ TRONG TIẾN TRÌNH
MỞ ĐẤT PHƯƠNG NAM ........................................................... 99
3.1. Đông Nam Bộ là nơi dừng chân đầu tiên của lưu dân, di dân người Việt ....... 99
3.2. Đông Nam Bộ là nơi trung chuyển di dân trên con đường khai phá
vùng đất Nam Bộ ...................................................................................... 106
3.3. Đông Nam Bộ, là điểm xuất phát của việc xác lập chủ quyền lãnh thổ
và lãnh hải của Đại Việt trên vùng đất phương Nam ................................ 108
3.4. Đông Nam Bộ là cửa ngõ thông thương của Đàng Trong với nước ngoài ...... 125
3.5. Đông Nam Bộ là nơi hội nhập của cộng đồng các dân tộc trên vùng
đất phương Nam ........................................................................................ 136
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 141
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 151
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đông Nam Bộ hiện nay là một trong những vùng kinh tế phát triển nhất của
nước ta, khu vực này nằm như gần trọn trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam,
trên hành lang kinh tế Đông – Tây, nối với Campuchia và các nước Đông Nam
Á, khá thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và giao lưu quốc tế. Khu
vực này có 5 tỉnh và 1 thành phố gồm: “Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh,
Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu” [144]. Đây là vùng có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm “GDP đạt hơn 10% mỗi
năm, đóng góp khoảng 40% sản lượng công nghiệp, hơn 30 % GDP và hơn 30
% ngân sách cả nước” [14, tr.8], đời sống vật chất và tinh thần của người dân
không ngừng được nâng cao.
Nói cách khác, Đông Nam Bộ hiện nay có vai trò hết sức quan trọng đối
với sự phát triển của đất nước. Còn trong quá khứ, đặc biệt trong buổi đầu khai
phá, mở cõi vùng đất phương Nam, khu vực Đông Nam Bộ đã giữ vai trò gì,
biểu hiện cụ thể ra sao?
Là một người được sinh ra và lớn lên ở Bình Dương, một trong sáu tỉnh
thành của Đông Nam Bộ, hiện tại là một giáo viên dạy Lịch Sử ở tỉnh nhà và là
một học viên cao học ngành Lịch Sử Việt Nam; tôi luôn muốn tìm lời giải cho
câu hỏi nêu trên của mình. Vì khi có câu trả lời, tôi có thể giảng những bài lịch
sử địa phương cũng như những bài có liên quan đến lịch sử Đông Nam Bộ cho
học sinh của mình một cách mạch lạc hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, giúp học
sinh hứng thú hơn khi học Lịch Sử, từ đó góp phần nâng cao chất lượng bộ môn
Lịch Sử ở nhà trường THPT.
Nghiên cứu Đông Nam Bộ trong tiến trình mở đất phương Nam vào các
thế kỷ XVII – XVIII, không chỉ nhằm phục dựng bức tranh của quá khứ mà còn
mở rộng hiểu biết, tạo cơ sở lịch sử để hiểu và lý giải những vấn đề của hiện tại
ở Đông Nam Bộ.
2
Ngoài ra, nghiên cứu lịch sử từng miền, từng khu vực, từng địa phương
còn có vai trò hết sức quan trọng, góp phần bổ sung sử liệu cho việc xây dựng
lịch sử của từng địa phương, từng khu vực và của cả miền Nam.
Chính vì những lí do trên nên tôi đã chọn đề tài “Đông Nam Bộ trong tiến
trình mở đất phương Nam (thế kỉ XVII – XVIII)” làm đề tài luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến chủ đề nghiên cứu của đề tài đã có các công trình sau đã
được công bố:
-Tác phẩm “Phủ Biên tạp lục” của Lê Quý Đôn là nguồn thư tịch viết vào
năm 1776. Thời điểm này rất gần cuộc khai khẩn, mở rộng vùng đất phía Nam
nên đã cung cấp những sử liệu quý về cảnh quan, môi trường thiên nhiên, về
diện tích canh tác, về thuế khóacủa xứ Đàng Trong, trong đó có vùng Đông
Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung.
- Tác phẩm “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức (1765 –
1825), được viết vào đầu thế kỉ XIX dưới triều Gia Long với những ghi chép tỉ
mỉ về quá trình khai phá, mở mang vùng đất cực nam của đất nước. Đây là
nguồn tư liệu quý đề cập nhiều đến quá trình mở đất phương Nam trong đó có
Đông Nam Bộ.
- Tác phẩm “Đại Nam thực lục” của quốc sử quán triều Nguyễn được
biên soạn vào năm 1821 dưới triều Minh Mạng. Sách ghi chép các sự kiện từ khi
Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa (1558) đến đời vua Khải Định
(1925). Phần đầu của Đại Nam thực lục gọi là Tiền biên (Đại Nam thực lục Tiền
biên), ghi chép các sự kiện lịch sử của 9 chúa Nguyễn ở Đàng Trong từ chúa
Nguyễn Hoàng đến chúa Nguyễn Phúc Thuần. Đại Nam thực lục chính biên là
phần thứ hai viết về triều đại của các vua Nguyễn, từ khi Nguyễn Ánh làm chúa
(1778) đến đời Đồng Khánh (1887) và sau này được viết thêm đến đời vua Khải
3
Định. Nội dung của sách, đặc biệt là phần tiền biên đã cung cấp nhiều tư liệu về
lịch sử khai phá vùng Đông Nam Bộ ngày nay.
- “Đại Nam nhất thống chí” là bộ sách địa lý - lịch sử được biên soạn vào
năm 1875, thời Tự Đức. Đây là bộ sách trình bày về vị trí địa lý, lịch sử, hành
chính, kinh tế, núi sông, thành trì, văn hóacủa nhiều tỉnh thành trong cả nước
trong đó có 2 tỉnh Biên Hòa, Gia Định xưa (nay thuộc Đông Nam Bộ)
- Tác giả Phan Khoang với công trình “Việt sử xứ Đàng Trong”, là một
công trình nghiên cứu lịch sử được xuất bản năm 1967, có tính chất là một bản
“lược đồ” vẽ lại đường đi của tiền nhân trong khoảng hơn 400 năm trước trong
công cuộc khẩn hoang lập ấp ở miền đất mới Đàng Trong. Tác giả đã dành khá
nhiều nội dung cho quá trình “Nam tiến của dân tộc”; đặc biệt đã đề cập đến
công cuộc mở đất ở vùng Biên Hòa, việc lập dinh Trấn Biên (Biên Hòa) và dinh
Phiên Trấn, thuộc phủ Gia Định nay là khu vực Đông Nam Bộ.
- Tác phẩm “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” của tác giả Sơn Nam đã
nghiên cứu tiến trình lịch sử của miền Nam trong việc mở mang đất đai canh
tác, củng cố chính quyền, xác định biên giới, xây dựng các cơ sở vật chất...Tác
giả đã cung cấp cho người đọc một cách khái quát quá trình thiên di, sinh cơ lập
nghiệp của lưu dân Việt trên vùng đất mới phía Nam gần ba thế kỷ qua trong đó
có vùng Đông Nam Bộ ngày nay, tác giả cũng đã khẳng định vùng Cù Lao Phố
là “nòng cốt” của Biên Hòa và Bến Nghé là “nòng cốt” của Gia Định.
- Tác phẩm “Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ” do phó giáo sư Huỳnh
Lứa chủ biên, Nhà xuất bản (Nxb) Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, đã trình
bày một cách công phu quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ trong các thế kỉ
XVII, XVIII, XIX. Năm 2000, Phó giáo sư tiếp tục công bố tập hợp các bài viết
của mình trong quyển: “Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ trong thế kỉ XVII,
XVIII, XIX”. Tác phẩm đã bổ sung một số tư liệu như: chính sách thúc đẩy
khẩn hoang của Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn ở vùng Đồng Nai – Gia
Định từ cuối thế kỉ XVII đến giữa thế kỉ XIX; sự ra đời của các đô thị ở Nam
4
Bộ; sự hình thành làng xã và vai trò của thôn ấp trong cuộc khẩn hoang, công
cuộc khai phá ở một số địa phương cụ thể như Bình Dương, Hà TiênNgoài ra,
tác phẩm đã đưa ra nhận thức về vai trò của nhà nước và nhân dân trong công
cuộc khai phá Nam Bộ trong đó có vùng Đông Nam Bộ.
- Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền có công trình “Lễ Thành Hầu Nguyễn
Hữu Cảnh với công cuộc khai sáng miền nam nước Việt cuối thế kỉ XVII” đã
trình bày việc kinh lược và thiết lập tổ chức hành chính ở xứ Đồng Nai, lập ra
dinh Phiên Trấn và dinh Trấn Biên tương đương khu vực Đông Nam Bộ ngày
nay.
- Tác phẩm “Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam” do GS. TSKH Vũ
Minh Giang chủ biên, Nxb Thế Giới ấn hành vào năm 2008 đã trình bày khái
quát lịch sử phát triển của vùng đất Nam Bộ. Tác phẩm không chỉ trình bày các
mốc quan trọng trong việc xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn trên vùng đất
Nam Bộ (trong đó có vùng Đông Nam Bộ) mà còn dành một phần thích đáng
trình bày về cuộc sống cộng đồng dân cư Nam Bộ, về mối quan hệ đoàn kết,
giao thoa văn hóa mật thiết giữa các dân tộc Việt, Khơme, Hoa, Chăm, Mạ
- Năm 2013, Tiến sĩ Đỗ Quỳnh Nga công bố luận văn tiến sĩ “Công cuộc
mở đất Tây Nam Bộ thời Chúa Nguyễn” do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia
phát hành. Luận án đã dành 8 trang nói về công cuộc mở đất Đông Nam Bộ.
Trước đó, tác giả cũng có bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử tháng 5
năm 2012 với tựa đề “Chúa Nguyễn với công cuộc mở đất Đông Nam Bộ thế kỉ
XVII” đề cập việc mở đất Đông Nam Bộ trong thế kỉ XVII.
- Trong kỷ yếu hội thảo khoa học “Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam
Bộ đến cuối thế kỉ XIX”, tại thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết về lịch
sử, về kinh tế, về văn hóa của Nam Bộ (trong đó có vùng Đông Nam Bộ),
điển hình như:
+ Bài “Kinh tế hàng hóa và đô thị ở Nam Bộ (từ thế kỉ XVII đến thế kỉ
XIX)” của PGS. Lê Xuân Diệm. Tác giả trình bày những biểu hiện được coi là
5
đặc thù của nền kinh tế hàng hóa ở Nam Bộ, hoạt động thương mại ở vùng này
chủ yếu gắn với sản phẩm nông nghiệp do nông dân làm ra. Tác giả đã khẳng
định Nam Bộ có 4 đô thị nổi tiếng, trong đó Đông Nam Bộ có 2 đó là Nông Nại
Đại Phố và Bến Nghé – Sài Gòn.
+ PGS.TS Đỗ Bang có bài “Chính quyền Đàng Trong với công cuộc mở
mang lãnh thổ và phát triển kinh tế ở Nam Bộ thế kỉ XVII – XVIII”, tác giả đã
trình bày một số sự kiện chính của quá trình mở rộng lãnh thổ ở Nam Bộ và có
kết luận về vai trò của Đông Nam Bộ như sau: “Đông Nam Bộ trở thành một
trung tâm kinh tế nông nghiệp và thương nghiệp của xứ Đàng Trong. Một miền
đất hấp dẫn không những đối với nông dân vùng Thuận Quảng mà cả đối với
người Hoa và nhiều thương khách nước ngoài khác” [42, tr.251].
Hoặc như bài “Các bước phát triển của công cuộc khai phá vùng đất
Nam Bộ từ thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX” của PGS.TS Trần Đức Cường đã
khẳng định với việc hoạch định vùng đất Sài Gòn – Gia Định thành các đơn vị
hành chính của Thống suất chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào năm 1698 thì
chính quyền chúa Nguyễn đã xác định vai trò quản lý mang tính nhà nước đối
với vùng đất này.
- Trong hội thảo “Từ xứ Mô Xoài xưa tới Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay”,
tác giả Đỗ Bang với bài “Mô Xoài trong tiến trình mở đất Đông Nam Bộ thời
chúa Nguyễn, những khoảng trống lịch sử cần được khám phá và những vấn đề
cần được xác minh” đã cung cấp những tư liệu làm rõ vị trí quan trọng của Mô
Xoài trong tiến trình lịch sử di dân, khẩn hoang của nhiều thế hệ lao động Việt
Nam, đây là điểm đầu mở đất Nam Bộ của chúa Nguyễn, có tác dụng to lớn
trong việc hình thành vùng đất (Đàng Trong) trù phú, giàu mạnh.
+ Tác giả Nguyễn Đình Thống với bài “Xứ Mô Xoài và hành trình khai
phá vùng đất Nam Bộ” đã trình bày về vị trí địa lý của Mô Xoài, về một số tên
gọi xưa ở vùng đất Mô Xoài cũng như việc bảo tồn các tên gọi này trong giai
đoạn hiện nay, tham luận cũng đưa ra nhận định về vai trò của Mô Xoài trong
6
quá trình mở đất phương Nam.
+ Tác giả Nguyễn Bạch Long với tham luận “Lý do người Việt chọn xứ
Mô Xoài làm nơi dừng chân đầu tiên trong tiến trình mở cõi phương Nam” đã
cho biết nguyên nhân lưu dân Việt chọn Mô Xoài làm điểm định cư đầu tiên là
vì nơi đây xưa kia vốn là vùng tranh chấp giữa Chân Lạp và Champa và cả hai
đều không kiểm soát được nên trở thành vùng đệm. Chính vì thế, vùng này trở
thành nơi lý tưởng cho những người dân đang muốn thoát khỏi sự kiểm soát,
ràng buộc của các chúa Nguyễn. Ngoài ra, do vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ở
đây có những nét tương đồng với miền Trung nên họ quyết định chọn Mô Xoài
làm điểm dừng chân đầu tiên của mình.
Tác giả Nguyễn Hữu Hiếu với bài “Từ cuộc hôn nhân Ngọc Vạn – Chey
Chetta II đến sự kiện Mô Xoài” đã trình bày và phân tích cuộc hôn nhân mang
màu sắc chính trị giữa Ngọc Vạn – Chey Chetta II, từ đó tác giả khẳng định
công lao to lớn của chúa Nguyễn Phúc Nguyên và công chúa Ngọc Vạn trong
tiến trình khai phá vùng đất mới Nam Bộ.
Nhìn chung, 83 tham luận trong hội thảo đã thể hiện trên 4 nội dung: Mô
Xoài là vùng đất địa đầu của Nam Bộ; Mô Xoài những vấn đề hình thành, phát
triển dân cư, quân sự, kinh tế, văn hóa; Mô Xoài nguồn gốc địa danh, nhân vật
lịch sử; Mô Xoài những dấu tích khảo cổ, kiến trúc, di tích lịch sử văn hóa. Như
vậy, có thể nói, các tham luận trong kỷ yếu hội thảo đã thể hiện được một bức
tranh khá trọn vẹn về toàn cảnh vùng đất Mô Xoài gần 400 năm, giúp người đọc
biết được nguồn gốc điạ danh, nhân vật lịch sử của Mô Xoài, cũng như thấy
được vị trí, vai trò của vùng đất này trong tiến trình mở đất phương Nam.
- Ngoài ra, với 9 tập Nam Bộ Đất và Người, do PGS.TS Võ Văn Sen chủ
biên đã cung cấp những tư liệu quý giá về điều kiện tự nhiên, về lịch sử hình
thành và phát triển của vùng đất Nam Bộ chung cũng như Đông Nam Bộ nói
riêng. Các bài viết của nhiều tác giả đã cung cấp cho người đọc những hiểu biết
về lịch sử - dân cư của vùng; về thời gian, về nguyên nhân người Việt có mặt
7
trên vùng đất này theo cách nhìn mới; về tiểu sử, vai trò của một số cá nhân có
công lớn trong công cuộc mở đất Đông Nam Bộ như công chúa Ngọc Vạn, Trần
Thượng Xuyên, Nguyễn Hữu Cảnh; về sự có mặt của người Hoa và vai trò
của họ trong việc mở mang và phát triển kinh tế của vùng
- Hiện nay hầu hết các tỉnh Đông Nam Bộ đều đã tiến hành biên soạn điạ
chí cho tỉnh mình như:
+ Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh do cố giáo sư Trần Văn Giàu
chủ biên, xuất bản năm 1987 tại Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh.
+ Địa chí tỉnh Tây Ninh do Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh, Sở văn hóa
thông tin Tây Ninh và viện Khoa Học Xã Hội Nhân văn TP Hồ Chí Minh thực
hiện, xuất bản vào năm 2006 tại Nxb Tây Ninh.
+ Địa chí tỉnh Bình Dương xuất bản năm 2010, do Ủy ban nhân dân tỉnh
Bình Dương chịu trách nhiệm và xuất bản tại Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
+ Địa chí tỉnh Đồng Nai gồm 5 tập, do Ban Thường Vụ tỉnh Ủy tỉnh Đồng
Nai chịu trách nhiệm chính, với sự chủ biên của các tác giả: Huỳnh Ngọc Trảng
(tập 1), Nguyễn Yên Tri (tập 2), Đỗ Bá Nghiệp (tập 3), Thái Doãn Mười (tập 4),
Huỳnh Văn Tới (tập 5), nhà xuất bản Tổng Hợp Đồng Nai xuất bản.
+ Địa chí tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do Nxb Khoa Học Xã Hội Hà Nội xuất
bản vào năm 2005, Thạch Phương - Nguyễn Trọng Ninh làm chủ biên.
Khu vực này chỉ còn tỉnh Bình Phước là chưa biên soạn địa chí, tuy nhiên
trước đây vào năm 1991, Địa chí tỉnh Sông Bé đã được biên soạn với sự chủ
biên của Trần Bạch Đằng, Nxb Tổng Hợp Sông Bé xuất bản. Nội dung bao gồm
cả tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước. Nhìn chung, trên đây là những công
trình khảo cứu công phu cung cấp những hiểu biết rất quý về lịch sử, tự nhiên,
văn hóa và con người ở mỗi tỉnh thành cụ thể trong khu vực Đông Nam Bộ.
Ngoài ra còn nhiều bài viết về Đông Nam Bộ trong các kỷ yếu hội thảo về
Nam Bộ, trong các tạp chí như Tạp chí Xưa Và Nay, Tạp chí Nghiên Cứu Lịch
Sử. Ví dụ như:
8
+ Tạp chí Xưa và Nay số 52 năm 1998 có bài “Cù Lao Phố cảng biển đầu
tiên của Nam Bộ” của tác giả Sơn Nam. Bài viết đã trình bày khái quát về sự ra
đời, hoạt động cũng như nguyên nhân suy sụp của Cù Lao Phố; tác giả cũng
khẳng định: Cù Lao Phố là một cảng quan trọng và đầu tiên của Nam Bộ.
+ Tạp chí Xưa và Nay, số 473 năm 1998 có bài “Nguyễn Hữu Cảnh với
sự sắp đặt nền hành chính tại Đồng Nai - Gia Định” của Nguyễn Đình Tư.
Thông qua việc trình bày việc sắp đặt nền hành chính đầu tiên tại vùng đất Đồng
Nai – Gia Định của Nguyễn Hữu Cảnh, tác giả không những giúp người đọc biết
được vùng đất Đông Nam Bộ đã được chúa Nguyễn xác lập chủ quyền vào năm
1698, mà còn giúp cho hậu thế thấy được tài năng, đức độ, công lao của bậc khai
quốc công thần này.
+ Tác giả Trần Thị Bích Ngọc với bài “Vị trí chính trị - kinh tế của Sài
Gòn – Gia Định đối với Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới ở thế kỉ XVII –
XIX”, đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 6 năm 1985. Bài viết đã nêu lên
vị trí và vai trò về chính trị và kinh tế của Sài Gòn – Gia Định trong các thế kỉ kỉ
XVII – XIX.
Có thể nói, hầu hết các tác phẩm, các bài viết đều nói về quá trình khai
phá vùng đất Đông Nam Bộ, hoặc về lịch sử khai phá, hoặc về những nhân vật
có công trong quá trình khai phá, hoặc về vị trí, vai trò của một địa điểm nào đó
trong khu vực Đông Nam Bộ nhưng chưa có tác phẩm nào đề cập một c