Hệ thống các ngân hàng thương mại là một bộ phận của ngân hàng trung gian, chiếm
một vị trí quan trọng nhất về qui mô tài sản và về thành phần các nghiệp vụ. Bởi lẽ nằm
trong hệ thống ngân hàng trung gian cho nên Ngân hàng Thương mại cũng có hoạt động thu
gom nguồn tích luỹ nhỏ từ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, cá nhân để tạo thành vốn
kinh doanh của nó rồi tiến hành cho vay. Cứ như vậy tạo nên dòng luân chuyển vốn trong
nền kinh tế. Điều đó một mặt đáp ứng nhu cầu về vốn của những người đi vay để phát triển
sản xuất, mặt khác lại làm gia tăng những khoản vốn nhàn rỗi, đồng thời cũng đem lại lợi
nhuận cho ngân hàng. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại bao gồm 3 lĩnh vực: nghiệp
vụ nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay kinh doanh) và nghiệp vụ môi giới trung gian
( dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn , thông tin ). Trong ba lĩnh vực này thì nghiệp vụ cho
vay là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận trực tiếp cho Ngân hàng Thương mại, đồng thời cũng là
nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro. Nghiệp vụ này luôn được đặt trong mối quan tâm hàng
đầu của Chính phủ và bản thân các Ngân hàng Thương mại bởi nó ảnh hưởng lớn đến sự tồn
tại và phát triển của Ngân hàng Thương mại cũng như đảm bảo cung ứng vốn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, việc bảo đảm an toàn cho nó đang là
vấn đề hết sức bức bối tại hầu hết các Ngân hàng Thương mại trên thế giới nói chung và tại
Việt Nam nói riêng. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên em muốn đi sâu nghiên cứu đề tài
về cho vay để có thể tìm hiêủ thêm về bản chất và hoạt động của một nghiệp vụ chứa đầy
những yếu tố rủi ro bất ngờ này
33 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2055 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mạI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp mở rộng hoạt động cho
vay của Ngân hàng Thương mạI
Lời mở đầu
Hệ thống các ngân hàng thương mại là một bộ phận của ngân hàng trung gian, chiếm
một vị trí quan trọng nhất về qui mô tài sản và về thành phần các nghiệp vụ. Bởi lẽ nằm
trong hệ thống ngân hàng trung gian cho nên Ngân hàng Thương mại cũng có hoạt động thu
gom nguồn tích luỹ nhỏ từ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, cá nhân để tạo thành vốn
kinh doanh của nó rồi tiến hành cho vay. Cứ như vậy tạo nên dòng luân chuyển vốn trong
nền kinh tế. Điều đó một mặt đáp ứng nhu cầu về vốn của những người đi vay để phát triển
sản xuất, mặt khác lại làm gia tăng những khoản vốn nhàn rỗi, đồng thời cũng đem lại lợi
nhuận cho ngân hàng. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại bao gồm 3 lĩnh vực: nghiệp
vụ nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay kinh doanh) và nghiệp vụ môi giới trung gian
( dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn , thông tin…). Trong ba lĩnh vực này thì nghiệp vụ cho
vay là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận trực tiếp cho Ngân hàng Thương mại, đồng thời cũng là
nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro. Nghiệp vụ này luôn được đặt trong mối quan tâm hàng
đầu của Chính phủ và bản thân các Ngân hàng Thương mại bởi nó ảnh hưởng lớn đến sự tồn
tại và phát triển của Ngân hàng Thương mại cũng như đảm bảo cung ứng vốn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, việc bảo đảm an toàn cho nó đang là
vấn đề hết sức bức bối tại hầu hết các Ngân hàng Thương mại trên thế giới nói chung và tại
Việt Nam nói riêng. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên em muốn đi sâu nghiên cứu đề tài
về cho vay để có thể tìm hiêủ thêm về bản chất và hoạt động của một nghiệp vụ chứa đầy
những yếu tố rủi ro bất ngờ này.
Chương I
Tổng quan về nghiệp vụ cho vay
trong Ngân Hàng thương Mại
1- vai trò của nghiệp vụ cho vay đối với Ngân hàng thương mại
NHTM huy động tiền từ các cá nhân, các doanh nghiệp và các hình thức tín dụng
khác và đương nhiên ứng với mỗi loại tiền gửi do các ngân hàng phải chi trả cho một khoản
lãi nhất định. Để đảm bảo khả năng chi trả, ngân hàng sẽ phải sử dụng phần lớn khoản tiền
huy động đưa vào các hoạt động kinh doanh như cho vay, đầu tư … . Trong đó cho vay là
hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM tạo ra lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng. Sở dĩ
cho vay được coi là một trong những loại hình quan trọng nhất không thể thiếu được của các
ngân hàng bởi lẽ chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù đắp mọi chi phí mà các ngân
hàng phải bỏ ra như: Chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh, quản lý, thuế và
các chi phí rủi ro đầu tư…
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của tầng lớp dân cư các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế ngày càng lớn. Do vậy
lượng cho vay của các NHTM càng tăng và kèm theo nó thì các loại hình cho vay ngày càng
được mở rộng và phát triển hết sức đa dạng. ở các nước phát triển hàng đầu thế giới thì nhu
cầu vay dài hạn đã dần thay thế cho nhu cầu ngắn hạn. Trong khi đó thì ở các nước đang
phát triển, hầu hết cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỉ lệ lớn so với cho vay trung và dài hạn.
Điều đó cũng có lẽ bởi các nước này vẫn chưa tìm được biện pháp khắc phục, hạn chế sự
thiếu an toàn cho các khoản vay dài hạn. Họ e sợ cùng với nền kinh tế đất nước còn yếu
kém, lạc hậu mà rủi ro của các khoản vay dài hạn đó xảy ra đồng thời sẽ dấn đến sự sụp đổ,
nợ nần của các NHTM ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tăng trưởng kinh tế.
Nói đến cho vay tức là nói đến rủi ro cao. Đa phần rủi ro tín dụng xẩy ra đều bắt
nguồn từ những khoản cho vay của NHTM. Đối với những khoản cho vay càng lớn thì độ
rủi ro càng cao. Mỗi một khoản rủi ro lớn xẩy ra nó tác động mạnh mẽ đến hoạt động của
ngân hàng. Có thể nói nghiệp vụ cho vay là một nghiệp vụ phức tạp, độ an toàn thấp,rủi ro
cao nhưng lại là hoạt động không thể thiếu được, quyết định và ảnh hưởng rất lớn đến sự
tồn tại và phát triển của NHTM. Nó chiếm một tỷ lệ lớn trong cơ cấu tổng tài sản của ngân
hàng (trên , dưới 70%).
2. Phân loại Ngân hàng cho vay
Nghiệp vụ cho vay có rất nhiều căn cứ để phân loại, như: Căn cứ vào mục đích, căn
cứ vào thời hạn cho vay, căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, căn cứ vào hình
thái giá trị của tín dụng …. Ta có thể xem xét một số hình thức phân loại sau:
2.1-Phân loại dựa vào thời hạn cho vay.
- Cho vay ngắn hạn
Loại cho vay này có thời hạn dưới một năm, được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu
động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Tại các NHTM
Việt Nam hiện nay thì tín dụng ngắn hạn vẫn chiếm tỉ trọng cao nhất.
- Cho vay trung hạn
Loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 3 hoặc 5 năm , được sử dụng chủ yếu để đầu tư
mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh
doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong công
nghiệp thì chủ yếu là cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng: máy cày , bơm nước,
xây dựng các vườn cà phê, điều ..
- Cho vay dài hạn
Đây là loại vay có thời hạn trên 3 hoặc 5 năm, là loại tín dụng cung cấp để đáp ứng
các nhu cầu dài hạn như xây nhà ở, xây dựng các xí nghiệp mới, mua sắm các thiết bị,
phương tiện vận tải với quy mô lớn.Hiện nay các NHTM đang cố gắng nâng cao tỷ trọng
cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng. Mặc dù độ rủi ro gặp phải là
rất lớn nhưng bù lại lãi suất cho vay rất cao, có khả năng đem lại lợi nhuận lớn cho ngân
hàng.
2.2 Phân loại dựa trên mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
- Cho vay không có đảm bảo:
Là loại hình cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hay sự bảo lãnh của người
thứ ba mà việc cho vay được thực hiện chỉ dựa trên uy tín của bản thân khách hàng. Đối với
khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu
quả thì ngân hàng có thể tin tưởng sẵn sàng cấp tín dụng mà không cần một nguồn thu nợ
thứ hai bổ sung. Hình thức cho vay này sẽ đem lại rủi ro rất lớn cho ngân hàng nếu như có
sự nhầm lẫn, sơ ý trong việc đánh giá, phân tích, thẩm định hồ sơ khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm
Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải đi kèm
theo tài sản thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng thực sự
thiếu tin tưởng đối với khách hàng nên sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có
thêm một nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất nếu như xảy ra một sự cố
nào đó trong hoạt động kinh doanh của khách hàng.
3- Quy Trình cho vay.
3.1-Hợp đồng cho vay.
3.1.1-Khái niệm hợp đồng cho vay.
Hợp đồng cho vay là cơ sở pháp lý để xác lập mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng
và khác hàng đồng thời cũng là công cụ để quản lý tiền cho vay và những rủi ro có thể xẩy
ra.
Hợp đồng cho vay thường được viên cố vấn pháp lý của ngân hàng chuẩn bị và được
luật sư của người vay duyệt lại. Các điều khoản trong mỗi hợp đồng sẽ được điều chỉnh thay
đổi ứng với từng tình huống riêng biệt. Hợp đồng cho vay được coi như công cụ pháp lý
quản trị tín dụng. Do vậy, nếu cấu trúc của một hợp đồng cho vay vừa bao quát vừa, vừa chi
tiết và chặt chẽ sẽ có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ lợi ích cho chính ngân hàng. Tuy
nhiên trên thực tế, trong hầu hết hợp đồng cho vay hiện nay thiếu những nội dung mà cho
phép ngân hàng giám sát các khoán cho vay tốt hơn, để kịp thời ra tay thực hiện những biện
pháp cần thiết cứu nguy cho các khoản vay có dấu hiệu cảnh báo có thể đưa đến chỗ rủi ro.
3.1.2- Các yếu tố cấu thành hợp đồng cho vay.
Một hợp đồng cho vay thường chứa đựng các thành phần căn bản sau:
- Lời mở đầu:
Đôi khi nêu tên của các bên và đưa ra lời tuyên bố rằng đang thực hiện hợp đồng.
Tuy nhiên cũng có khi nêu lên mục đích của khoản cho vay.
- Số lượng và kỳ hạn của khoản vay.
Trong phần này sẽ nêu lên khối lượng của khoản cho vay, cách thức người vay rút tiền,
lãi suất cho vay, ngày đáo hạn, số chi phí (nếu có) và các điều khoản liên quan đến các
khoản chi trả trước. Ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro trong phần này bằng cách tổ chức
các khoản vay theo phương thức trả dần hoặc áp đặt một số dư đặt cọc. Các ngân hàng nói
chung thường không phạt trong trường hợp trả trước khoản trả góp hoặc trả hết toàn bộ
khoản vay trước hạn nếu như nguồn vốn có được từ các vụ hoạt động sản xuất kinh doanh
của khách hàng, từ việc thu nợ, hay bán các tích sản. Tuy nhiên nếu như việc hoàn trả sớm
khoản vay được thực hiện do khách hàng đi vay của ngân hàng khác thì một mức phạt đối
với hành vi đó sẽ được áp dụng.
- Xin vay và bảo đảm.
ở phần này người vay sẽ trình bày và cam kết là các báo cáo tài chính mà kế hoạch
đã nộp cho ngân hàng nhằm hình thành các quyết định tín dụng là đúng và thực sự phản ánh
được tình hình tài chính hiện tại của người vay.
- Các điều kiện cho vay.
ở phần này cũng liên quan đến sự đảm bảo của khách hàng đó là tính hợp pháp của
các điều kiện phải tồn tại. Các tài liệu giấy tờ cần thiết về khách hàng phải được giao cho
người vay trước khi khoản vay được thực hiện. Đương nhiên, để suất bất cứ khoản tiền nào
cho vay thì những tài liệu đó phải đáp ứng được nhu cầu mong muốn của cố vấn pháp lý
cho ngân hàng về khách hàng cần vay vốn. Nếu như trong hợp đồng yêu cầu cung cấp một
khoản tín dụng tuần hoàn theo sau khoản vay định kỳ thì nhân viên yêu cầu người vay phải
cung cấp thêm thông tin trước mỗi lần xuất tiền để ngân hàng có thể xác định rằng những gì
đã trình bày có bảo đảm trước đây vẫn chính xác, không có dấu hiệu nào cho thấy là khách
hàng sẽ không trả được cho họ theo như thoả thuận.
- Mô tả vật thế chấp:
Các khoản vay ngân hàng có thể được đảm bảo hoặc không được đảm bảo. Nếu như
trong trường hợp khoản vay phải có bảo đảm thì hợp đồng phải mô tả chi tiết vật thế chấp
cũng như phải được xử lý như thế nào. Trong nhiều trường hợp thì vật thế chấp được coi
như phòng tuyến cuối cùng bảo vệ lợi ích của ngân hàng. Do vậy trong hợp đồng cần có
điều khoản minh bạch, rõ ràng khi nào, bằng cách nào ngân hàng có thể chấp hữu tài sản thế
chấp để thu hồi khoản vay nếu như khách hàng có nguy cơ không trả được và khi thẩm định
tài sản thế chấp cần chú ý quan tâm đến các đặc điểm sau:
+ Có tính thanh khoản tốt.
+ Không bị mất giá bởi bất cứ nguyên nhân nào.
+Có giá trị cao hơn giá trị khoản vay càng lớn càng tốt.
+ Có quyền sở hữu rõ ràng, hợp pháp.
+ Chưa bị đem sử dụng để đảm bảo cho một khoản vay khác.
- Các cam kết của người vay:
Phần này xác định những cam kết nào đó mà người vay phải thực hiện hoặc không
được thực hiện sau khi đã thoả thuận với ngân hàng. Đây là phần rất quan trọng của hợp
đồng cho vay. Số lượng và chi tiết của các điều cam kết nhiều hay ít tỷ lệ nghịch với sức
mạnh tài chính của người đi vay và chất lượng quản lý của họ. Xét về góc độ quản lý tín
dụng và rủi ro liên quan thì đây là phần tập trung thể hiện sự giám sát của ngân hàng đối với
người vay trong suốt quá trình khoản vay còn hiệu lực, đảm bảo được tính hiệu quả trong
việc sử dụng vốn vay cũng như trả nợ của khách hàng đồng thời căn cứ vào cam kết này
ngân hàng có thể can thiệp cần thiết khi một phần hay toàn bộ các thoả thuận không được
tôn trọng làm ảnh hưởng đến lợi ích của ngân hàng. Có hai loại cam kết.
*Cam kết thực hiện là những giao ước áp dụng đối với quản lý, yêu cầu người vay phải thực
hiện một số hành động nào đó, như: Cung cấp các báo cáo tài chính trong phạm vi 60 ngày
sau khi kết thúc năm tài chính, Ngân hàng được phép thanh tra tồn kho, các khoản thu và tài
sản khác nếu thấy cần thiết theo định kỳ, người vay phải thông báo cho ngân hàng bất cứ
tranh chấp pháp lý hoặc sai quyền nào làm ảnh hưởng đến sự thực hiện nghĩa vụ của mình
đối với ngân hàng….
*Cam kết không thực hiện là những hành động mà người vay đồng ý không thực hiện trong
suốt thời hạn của khoản vay trừ phi được sự đồng ý của ngân hàng cho vay. Mục tiêu của
cam kết nhằm ngăn ngừa sự phung phí các tài sản làm suy yếu sức mạnh tài chính của ngân
hàng, có thể làm suy yếu khả năng chi trả của người vay.
- Các điều khoản hạn chế.
Các điều khoàn này cho phép các hành động nhất định nhưng giới hạn phạm vi của
chúng. Để đảm bảo nâng cao năng lực tài chính trong kinh doang, các doang nghiệp vay sẽ
giữ lại một phần lợi tức, các giới hạn thường được đặt trên số cổ tức có thể được chi trả.
Nếu như ngân hàng nhận tháy doanh nghiệp vay cần vốn ngắn hạn để thoả mãn nhu cầu
theo thời vụ thì những khoản vay như thế được cho phép nhưng thông thường một giới hạn
được áp dụng đối với tổng số tiền vay cả dài hạn lẫn ngắn hạn. Nếu người vay mắc nợ các
người khác những khoản nợ dài hạn , sự giới hạn cũng được áp dụng đối với số lượng được
dùng để chi trả hàng năm. Mục đích của nó là ngăn ngừa tình trạng đặt ngân hàng vào vị trí
người cuối cùng được chi trả cũng như là việc doanh nghiệp sử dụng vốn của ngân hàng để
trả hết cho một người cho vay khác.
- Trường hợp không trả được nợ.
Tất cả các khoản cho vay định kỳ có các điều khoản về việc không trả được nợ khiến
cho toàn bộ khoản cho vay lập tức hết hạn và có thể được trả dưới các địa chỉ nhất định.
Nếu các địa chỉ nhất định không được đáp ứng thì toàn bộ khoản cho vay lập tức được coi là
đáo hạn. Việc này sẽ tiết kiệm ít phiền hà hơn là chờ cho đến khi mỗi khoản tích góp đáo
hạn mới áp dụng hành động pháp lý.
3.2- Lãi suất cho vay ở các Ngân hàng Thương mại.
3.2.1- Khái niệm lãi suất cho vay.
Lãi suất cho vay là tỉ lệ % giữa số tiền mà người đi vay phải trả thêm cho người cho
vay sau một thời hạn nhất định sử dụng số tiền vay đó. Lãi suất cho vay có thể được tính
theo tháng hoặc theo năm ( ở Việt Nam thường tính theo tháng còn hầu hết các nước khác
đều tính theo năm).
Lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi thông thường biến động cùng chiều: khi lãi suất
tiền gửi được nâng lên thì lãi suất cho vay nâng lên và ngược lại, làm sao dung hoà được hai
yêu cầu: nâng lãi suất huy động để thu hút được nguồn vốn và kiềm chế lạm phát. Hạ lãi
suất tiền gửi để hạ lãi suất cho vay, nâng đỡ sản suất.
Lãi suất cho vay trung bình phải cao hơn lãi suất huy động trung bình. Khoản chênh
lệch chính là “lãi gộp” của ngân hàng để bù đắp chi phí, thuế, phí dự trữ bắt buộc, đề phòng
rủi ro và có lãi. Có thế mới hạn chế được hiện tượng vay ồ ạt mang tính bao cấp do lãi suát
vay quá thấp, buộc người vay phải đảm bảo hài hoà 3 mặt lợi ích của người gửi, người vay
và bản thân ngân hàng.
3.2.2- Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất cho vay của Ngân hàng Thương mại.
Lãi suất cho vay được đàm phán giữa người vay và ngân hàng cho vay giữa các ngân
hàng khác nhau thì lãi suất cho vay cũng khác nhau. Chúng phản ánh cả dặc tính cá biệt của
khoản cho vay lẫn cung cầu về tín dụng trên thị trường tiênf tệ. Lãi suất cho vay chịu tác
động của nhiều yếu tồ. Nó thay đổi theo sự biến động cuă các yếu tố như: Lãi phải trả cho
người gửi, chi phí ngân hàng, rủi ro tín dụng, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng số dư tiền
gửi của người vay và các chứng khoán ….Lãi suất cho vay luôn luôn phải lớn hơn lãi suất
tiền gửi, có như vậy mới bảo đảm được hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng, mới
bù đắp được những chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra trước đó. Hay cạnh tranh giữa các ngân
hàng, đây cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lãi suất. Để đảm bảo thu hút được khách
hàng về phía mình các ngân hàng luôn luôn phải cân nhắc, giảm lãi suất cho vay đến một
mức độ nhất định hòng giành khách hàng với các ngân hàng khác. Nói chung khả năng cho
vay của ngân hàng tuỳ thuộc vào mức dự trữ thặng dư trong hệ thống Ngân hàng. Nếu nhu
cầu về tín dụng ngân hàng tương đối ổn định, các khoản dự trữ thặng dư gia tăng, lãi suất
cho vay sẽ giảm khi các ngân hàng tìm kiếm các tích sản sinh lợi. Tuy nhiên nếu có nhu
cầu mạnh được tín dụng ngân hàng và khoản dự trữ thặng dư tiếp tục ổn định hay phát triển
chậm hơn nhu cầu tin dụng, lãi suất sẽ tăng lên. Thái độ con người cũng ảnh hưởng đến lãi
suất. Nếu người ta có cái nhìn bi quan về kinh tế thì các giám đốc Ngân hàng không hạ mức
lãi suất mặc dù nguồn vốn cho vay có thể bảo đảm. Nếu lạc quan nghĩa là họ thấy rằng hệ
thống dự trữ sẽ cấp thêm vốn cần đến, lãi suất không bị tăng lên một cách rõ rệt, mặc dù dự
trữ thặng dư tương đối thấp lãi suất thị trường cũng chịu sự can thiệp của Ngân hàng Nhà
nước theo chính sách tiền tệ thắt chặt hay mở rộng. Nếu Ngân hàng Nhà nước muốn mở
rộng tiền tệ thì lãi suất thị trường giảm để thu hút người vay và ngược lại khi Ngân hàng
Nhà nước muốn thắt chặt tiền tệ thì lãi suất sẽ tăng lên để hạn chế tín dụng. Ngoài ra, lãi
suất còn chịu sự chi phối của kỳ hạn vay. Kỳ hạn càng dài thì rủi ro càng cao, thanh toán
khó khăn nên lãi suất cao để bù đắp những khó khăn có thể xảy ra.
3.3 Quy trình cho vay
Quy trình cho vay của các ngân hàng thông thường diễn ra qua 5 bước sau:
a) Hướng dẫn khách hàng làm thủ tục xin vay vốn
Nếu lần đầu xin vay thì khách hàng phải cung cấp cho ngân hàng những tài liệu
chứng minh tính pháp lý của mình. Gửi đơn xin vay, trong đó điền đầy đủ những thông tin
cần thiết . Ngoài ra, người xin vay phải nộp kế hoạch sản xuất kinh doanh để xác định nhu
cầu, cung cấp cho ngân hàng những hợp đồng kinh tế liên quan đến việc thực hiện kế hoạch,
dự án để xác định tính khả thi của dự án. Nộp báo cáo tài chính kinh doanh hiện tại của
khách hàng, kèm theo những tài liệu chứng minh về đảm bảo an toàn tiền vay như : giấy tờ
sở hữu, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh.
b)Ngân hàng tiến hành thu thập thông tin
Căn cứ vào các tài liệu trên thì ngân hàng tiến hành kiểm tra về tính pháp lý của các
tài liệu, uy tín của khách hàng, khả năng sinh lời của dự án, quyền sở hữu tài sản để xem
khách hàng có đảm bảo đủ độ tin cậy hay không . Ngân hàng có thể kiểm tra thông qua các
cách sau:
+Phỏng vấn người xin vay:
Qua phỏng vấn người xin vay, nhân viên tín dụng sẽ biết được lý do vay, biết được
yêu cầu xin vay có đáp ứng được các đòi hỏi khác nhau do các chính sách cho vay của
ngaan hàng ấn định không. Qua phỏng vấn, nhân viên tín dụng có mmột ý niệm nào đó về
tính thật thà và khả năng của người vay và coa thể có ý kiến xem có cần thiết phải có vật thế
chấp hay không. Những thông tin về lịch sử và sự phát triển của ngành kinh doanh, bản chất
của các sản phẩm dịch vụ, nguồn nhiên liệu, thế cạnh tranh và các kế hoạch trong tương lai
có thể có được qua phỏng vấn.
+Kiểm tra qua sổ sách của ngân hàng
Một ngân hàng có thể lưu trữ tập trung của cả người ký thác và người vay, từ đó có
thể nhận được thông tin về tín dụng. Thậm chí, nếu người xin vay chưa từng là khách hàng
của ngân hàng, hồ sơ tập trung cũng có một số thông tin nào đó.
+ Điều tra nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay
Người xin vay phải cho phép một nhân viên tín dụng đến tham quan nơi kinh doanh
của mình. Một nhân viên tín dụng có kinh nghiệm sẽ biết được một cách đáng kể về mức độ
phát triển hiện nay trong kinh doanh của người vay cũng như trình độ quản lý thông qua
tham quan các tiện nghi của nó.
+ ĐIều tra qua việc thẩm định các báo cáo tài chính
Việc đánh giá chính xác thông tin phản ánh trong những báo cáo tài chính là rất
quan trọng trong phân tích tín dụng. Ngân hàng dựa trên báo cáo tài chính để đánh giá các
khoản mục tài sản, tài sản và vốn tự có, đánh giá báo cáo lãi lỗ, những thay đổi tình hình tài
chính.
Nếu không chấp nhận thì gửi giấy báo từ chối trong vòng 10 ngày. Chấp nhận thì ra quyết
định cho vay.
c)Ra quyết định cho vay
Khi ra quyết định cho vay thì ngân hàng sẽ ấn định mức cho vay căn cứ vào nhu cầu
xin vay vốn của khách hàng và khả năng có thể đáp ứng được của ngân hàng, xác định thời
hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ và mức trả nợ của những kỳ hạn. Những đIều này thể hiện trên
hợp đồng cho vay được ký kết giữa ngân hàng với khách hàng.
d) Giải ngân
Việc tiến hành cho vay diễ