Đối với bất kì một quốc gia nào, nhu cầu về vốn nói chung và vốn trung, dài hạn
nói riêng cho đầu tư phát triển kinh tế là rất cần thiết. Vì vậy trong nền kinh tế tín dụng
trung, dài hạn có vai trò đặc biệt quan trọng như: đối với doanh nghiệp, tín dụng trung, dài
hạn đáp ứng nhu cầu về vốn để cải tiến công nghệ, kỹ thuật, mở rộng sản xuất - kinh
doanh, trên giác độ toàn bộ nền kinh tế tín dụng trung, dài hạn là công cụ thực hiện công
nghiệp hoá - hiện đại hoá thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Và trong hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) thì hoạt động tín dụng nói chung hay hoạt
động tín dụng trung, dài hạn là một trong những hoạt động mang lại thu nhập lớn cho ngân
hàng. Tuy vậy, hoạt động tín dụng trung, dài hạn là một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, khi
xảy ra rủi ro thì tổn thất là rất lớn (do các khoản tín dụng trung, dài hạn thường có thời hạn
dài, giá trị lớn), thực tế trong những năm vừa qua đã có những vụ đổ bể tín dụng làm thất
thoát hàng nghìn tỷ đồng. Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng đặc biệt là chất lượng tín
dụng trung, dài hạn trở thành mối quan tâm hàng đầu của các NHTM.
Do vậy, việc tìm ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Qua thời gian đi thực tập tại Chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, , nhận thức tầm quan trọng của vấn đề này,
tôi chọn đề tài:
“GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI”.
87 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1786 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại chi nhánh ng6an hàng đầu tư và phát triển thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng trung dài hạn tại chi nhánh
ng6an hàng đầu tư và phát triển
thành phố hà nội
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Đối với bất kì một quốc gia nào, nhu cầu về vốn nói chung và vốn trung, dài hạn
nói riêng cho đầu tư phát triển kinh tế là rất cần thiết. Vì vậy trong nền kinh tế tín dụng
trung, dài hạn có vai trò đặc biệt quan trọng như: đối với doanh nghiệp, tín dụng trung, dài
hạn đáp ứng nhu cầu về vốn để cải tiến công nghệ, kỹ thuật, mở rộng sản xuất - kinh
doanh, trên giác độ toàn bộ nền kinh tế tín dụng trung, dài hạn là công cụ thực hiện công
nghiệp hoá - hiện đại hoá thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Và trong hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) thì hoạt động tín dụng nói chung hay hoạt
động tín dụng trung, dài hạn là một trong những hoạt động mang lại thu nhập lớn cho ngân
hàng. Tuy vậy, hoạt động tín dụng trung, dài hạn là một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, khi
xảy ra rủi ro thì tổn thất là rất lớn (do các khoản tín dụng trung, dài hạn thường có thời hạn
dài, giá trị lớn), thực tế trong những năm vừa qua đã có những vụ đổ bể tín dụng làm thất
thoát hàng nghìn tỷ đồng. Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng đặc biệt là chất lượng tín
dụng trung, dài hạn trở thành mối quan tâm hàng đầu của các NHTM.
Do vậy, việc tìm ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Qua thời gian đi thực tập tại Chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, , nhận thức tầm quan trọng của vấn đề này,
tôi chọn đề tài:
“GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI”.
2. Mục tiêu, phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng trung, dài hạn của NHTM
trong đó đi sâu vào cho vay trung, dài hạn của NHTM.
Qua phân tích thực trạng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Thành phố Hà Nội tìm ra những tồn tại, những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng trung, dài hạn.Từ đó tìm ra những biện pháp khả thi để nâng cao hơn nữa
chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Thu thập những số liệu về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tập trung
ở hoạt động cho vay trung, dài hạn qua đó sử dụng những phương pháp thống kê, so sánh
để có nhận xét và đánh giá về chất lượng cho vay trung, dài hạn của ngân hàng. Trên cơ sở
đó sẽ tham khảo thêm ý kiến của các cán bộ ở trong ngân hàng, ý kiến đóng góp của giáo
viên hướng dẫn và qua các tài liệu sách báo để có những giải pháp và kiến nghị để nâng
cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
4. Kết cấu của đề tài:
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung, dài hạn của
Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng trung, dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà
Nội.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân
hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống
tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại (NHTM) thường chiếm tỷ trọng lớn
nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của tình hình kinh tế thế giới và tình hình kinh tế trong nước, hệ thống NHTM ngày
càng chiếm vị trí quan trọng và trở thành bộ phận không thể thiếu đối với nền kinh tế của
bất cứ một quốc gia nào.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Ngân hàng thương mại thường có các hoạt động cơ bản sau:
- Hoạt động huy động vốn:
Huy động vốn – là hoạt động quan trọng của các NHTM, trên cơ sở nguồn vốn huy
động được thì ngân hàng mới có kế hoạch triển khai tình hình kinh doanh của mình, ảnh
hưởng rất nhiều tới chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn huy động của
NHTM bao gồm nội tệ, ngoại tệ được hình thành chủ yếu từ: nhận tiền gửi, huy động vốn
thông qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, vay của NHNN, vay của các tổ chức tín dụng
khác ở trong và ngoài nước… Đồng thời, ngân hàng có thể tự lập nguồn vốn của mình
bằng cách phát hành cổ phiếu (đối với các ngân hàng cổ phần), lập các quĩ từ lãi thu được.
Với số tiền có được từ huy động vốn, ngân hàng sẽ tiến hành hoạt động tín dụng
(trong đó hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng cao) và đầu tư để đem lại thu nhập cho ngân
hàng.
- Hoạt động tín dụng và đầu tư
+ Hoạt động tín dụng (chủ yếu là hoạt động cho vay): là hoạt động chủ yếu của các
NHTM trong việc sử dụng vốn của ngân hàng để tiến hành cho vay với các thành phần
kinh tế với các thời hạn khác nhau nhằm các mục đích khác nhau như: bổ sung vốn lưu
động hoặc là để đáp ứng nhu cầu mua sắm tài sản cố định… đáp ứng các nhu cầu của sản
xuất kinh doanh hay chỉ là nhu cầu tiêu dùng của cá nhân.
+ Hoạt động đầu tư: ngân hàng sẽ sử dụng nguồn vốn của mình để thực hiện đầu tư
trực tiếp, kinh doanh chứng khoán…
Đây là nguồn mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các NHTM nhưng hoạt động này
luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Các hoạt động nhằm cung cấp dịch vụ cho khách hàng:
Một số dịch vụ như:
+ Ngân hàng là trung gian thanh toán cho khách hàng với các khách hàng như: uỷ
nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, chuyển tiền, séc, L/C…
+ Bảo quản tài sản hộ khách hàng: các vật có giá như vàng bạc, đá quí, giấy tờ có
giá…
+ Cung cấp các dịch vụ uỷ thác, tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các
ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về lĩnh vực tài chính. Vì vậy nhiều cá nhân và doanh
nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ
thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu
tư… Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính trên các
lĩnh vực như: đầu tư và quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sát nhập các doanh nghiệp.
+ Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, môi giới đầu tư chứng khoán: nhiều ngân hàng
đang phấn đấu cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi
nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng triển khai dịch vụ bảo
hiểm, môi giới đầu tư chứng khoán.
1.1.2 Đặc trưng của tín dụng ngân hàng
Tín dụng là quan hệ giao dịch giữa hai bên, họ cam kết với nhau như sau:
- Một bên thì trao ngay một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ.
- Còn bên kia thì cam kết sẽ hoàn lại lượng giá trị đó sau một thời gian nhất định
và theo một số điều kiện nhất định nào đó (như lượng giá trị hoàn lại phải lớn hơn lượng
giá trị ban đầu).
Như vậy, tín dụng là quan hệ vay mượn gồm cả đi vay và cho vay, tuy nhiên khi
gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng (trung gian tài chính khác) – tín dụng
ngân hàng thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay.
Hoạt động tín dụng bao gồm cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, bảo lãnh và
một số hoạt động khác. Việc mua trái phiếu của khách hàng cũng là một hình thức tài trợ
cho khách hàng, tuy vậy ở nội dung bài viết này tín dụng chỉ bao gồm việc tài trợ trực tiếp,
còn việc nắm giữ trái phiếu được xếp vào đầu tư chứng khoán. Trong các hoạt động tín
dụng của NHTM thì hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng tài sản và đây cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM vì
lẽ đó nên nhiều khi nhắc đến tín dụng ngân hàng thì được hiểu là hoạt động cho vay.
Quan hệ tín dụng ngân hàng có những đặc trưng sau:
- Tín dụng ngân hàng là quan hệ giao dịch giữa một bên là ngân hàng và một bên là
các thành phần còn lại của nền kinh tế bao gồm: Nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội, cá
nhân… Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng bao gồm 2 hình thức cho vay (bằng tiền),
cho thuê (máy móc, thiết bị, bất động sản…).
- Quan hệ tín dụng xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, người đi vay chỉ được sử dụng
trong một thời gian nhất định, sau khi hết hạn sử dụng người đi vay phải hoàn trả cho
người vay, do đó khi ngân hàng xem xét việc cho vay thì yếu tố quan trọng nhất trong
quản lý tín dụng đó là xem xét khả năng trả nợ của khách hàng vay (dựa trên uy tín của
khách hàng, tình hình tài chính của người vay, dự án đầu tư có hiệu quả của khách hàng,
tài sản đảm bảo…).
- Nguyên tắc trong quan hệ tín dụng là giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn
giá trị lúc cho vay, tức là người đi vay phải trả thêm một phần lãi ngoài phần gốc có trách
nhiệm hoàn trả. Phần lãi này được ngân hàng xác định dựa trên lãi suất cho vay, thông
thường ngân hàng phải xác định một mức lãi suất danh nghĩa cao hơn tỉ lệ lạm phát để
đảm bảo có được mức lãi suất thực dương.
1.1.3 Phân loại tín dụng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất (thường chiếm khoản 70%) ở phần
lớn các NHTM và là hoạt động cơ bản của NHTM. Đối với loại tài sản này có thể được
phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
- Phân chia theo thời gian: tín dụng được chia thành tín dụng ngắn hạn, trung hạn,
dài hạn. Đây là một trong những cách phân chia phổ biến vì thời gian nó có liên quan mật
thiết tới tính an toàn, sinh lợi của ngân hàng và khả năng hoàn trả của khách hàng.
+ Tín dụng ngắn hạn: nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn
ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất (thời gian từ 12 tháng trở xuống). Ngân
hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn
mức, có hoặc không có đảm bảo.
+ Tín dụng trung hạn: thông thường qui định là từ trên 1 năm – 5 năm (có ngân
hàng qui định là từ trên 1 năm – 7 năm), thường tài trợ cho các tài sản cố định như máy
móc thiết bi vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn.
+ Tín dụng dài hạn: có thời gian trên 5 năm thường được tài trợ cho các công trình
xây dựng, máy móc thiết bị có giá trị lớn và thường có thời gian sử dụng lâu.
Tuy vậy, việc xác định trên không hoàn toàn cứng nhắc, việc xác định thời hạn
nhiều khi cũng chỉ mang tính chất tương đối.Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng
thương mại thường cao hơn tín dụng trung, dài hạn, các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài
sản lưu động cho khách hàng, vì các khoản tín dụng trung, dài hạn thì ngân hàng thương
mại sẽ phải huy động nguồn vốn trung, dài hạn với chi phí đắt hơn, và các khoản vay
trung, dài hạn có nhiều rủi ro hơn.
- Phân chia theo hình thức tài trợ tín dụng: chiết khấu thương phiếu, cho vay, cho
thuê, bảo lãnh…
+ Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng khi
khách hàng cầm thương phiếu chưa đến hạn (hay giấy nợ) đến ngân hàng xin chiết khấu,
khoản tiền ứng trước được xác định dựa trên giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập
của ngân hàng (có tính đến các yếu tố rủi ro).
+ Cho vay: là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với sự cam kết hoàn trả của
khách hàng sau một thời gian xác định sẽ trả cả gốc và lãi. Cho vay là tài sản lớn nhất
trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định lượng theo 2 chỉ tiêu: doanh số cho
vay trong kì (tổng số tiền ngân hàng đã cho vay trong kì), dư nợ cuối kì (tổng số tiền còn
cho vay tại thời điểm cuối kì). Khi lập các báo cáo tài chính thời điểm, cho vay được ghi
dưới hình thức dư nợ.
+ Cho thuê: hoạt động của ngân hàng chủ yếu là cho khách hàng vay bằng tiền để
mua tài sản, tuy nhiên trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ điều kiện để vay (ví
dụ như đối với các doanh nghiệp mới thành lập), theo nhu cầu của khách hàng và trước
yêu cầu mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng sẽ đứng ra mua tài sản theo yêu cầu của
khách hàng rồi cho khách hàng thuê lại. Tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng,
do đó khi khách hàng không trả được nợ (tiền thuê), ngân hàng có thể thu hồi để cho thuê
lại hoặc đem bán điều này cũng góp phần giảm bớt rủi ro cho ngân hàng.
+ Bảo lãnh: là hoạt động cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Bảo lãnh thường có 3 bên: bên bảo lãnh
(ngân hàng), bên được bảo lãnh (khách hàng của ngân hàng), bên hưởng bảo lãnh (bên thứ
ba).
- Phân loại theo mức độ tín nhiệm với khách hàng:
+ Cho vay không có bảo đảm: đây là hình thức cho vay tín chấp, thường áp dụng
với những khách hàng có uy tín, làm ăn hiệu quả, không xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa,
hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay hay các khoản cho vay theo chỉ thị
của Nhà nước không cần tài sản đảm bảo.
+ Cho vay có bảo đảm: đó là các khoản cho vay đối với các khách hàng có tài sản
cầm cố hoặc thế chấp, hay có bảo lãnh của người thứ ba.
Ngoài ra còn một số cách phân loại khác như: phân loại theo rủi ro, theo ngành kinh
tế, theo mục đích, theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định).
Với cách phân loại theo thời gian là phù hợp với nội dung nghiên cứu của đề tài,
sang phần sau đề tài sẽ tập trung nghiên cứu vào tín dụng trung, dài hạn và chất lượng tín
dụng trung, dài hạn.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái quát về tín dụng trung, dài hạn
1.2.1.1 Khái niệm, đặc trưng của tín dụng trung, dài hạn
Quan điểm tín dụng trung, dài hạn rất khác nhau ở các nước trên thế giới. Ở Việt
Nam, người ta quan niệm tín dụng trung, dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn trên
1 năm:
- Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định như
phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị (thường hao mòn nhanh).
- Tín dụng dài hạn: tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà, cầu, đường, sân
bay, máy móc thiết bi có giá trị lớn, hao mòn lâu.
Nguồn vốn trung, dài hạn là nguồn vốn quan trọng có thể đáp ứng các nhu cầu sau
của các chủ thể:
+ Đối với doanh nghiệp: đáp ứng nhu cầu mua sắm tài sản cố định của doanh
nghiệp, gồm cả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Đầu tư chiều rộng để xây dựng
những công trình xí nghiệp, nhà xưởng mới. Đầu tư chiều sâu để đổi mới máy móc thiết
bị. Đầu tư chiều sâu hiệu quả hơn hẳn đầu tư chiều rộng vì với cùng một diện tích nhà
xưởng nhưng năng lực sản xuất có thể tăng gấp 5 – 10 lần trước đó mà tiết kiệm vốn xây
dựng các công trình kiến trúc.
+ Đối với Nhà nước: Nhà nước vay trung, dài hạn để đầu tư phát triển, tăng trưởng
kinh tế.
+ Đối với cá nhân: ngân hàng cho vay với người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu
mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, xe cộ…
Tín dụng trung, dài hạn có 3 đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất, giá trị của các khoản tín dụng trung, dài hạn thường là có giá trị lớn. Nền
kinh tế thế giới nói chung hay kinh tế mỗi nước đang nằm trong xu thế phát triển. Các
doanh nghiệp ở mỗi nước đều phải tích cực đổi mới khoa học công nghệ để nâng cao năng
suất lao động, đổi mới mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm tạo nên vị thế cạnh tranh,
nếu không đổi mới công nghệ thì họ sẽ bị lạc hậu sản phẩm làm ra không bán được và từ
đó đi đến chỗ phá sản. Tuy vậy, để đổi mới công nghệ (đầu tư mua máy móc trang thiết bị)
là chuyện không đơn giản vì số vốn để đầu tư là rất lớn, lớn hơn rất nhiều so với vốn tích
luỹ của doanh nghiệp do đó doanh nghiệp sẽ tìm cách để huy động vốn hay vay vốn.
Doanh nghiệp có thể huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu và trái phiếu tuy
nhiên để được phép huy động thì doanh nghiệp phải hội đủ những điều kiện cho việc phát
hành hoặc khi phát hành nhưng lại không có đủ được số vốn cần thiết. Vì vậy, để có đủ
lượng vốn lớn để đầu tư các doanh nghiệp sẽ tìm đến NHTM để vay vốn trung, dài hạn và
ngân hàng sẽ cho vay dựa trên tình hình hoạt động của doanh nghiệp, bản thân dự án có
hiệu quả.
Thứ hai, tín dụng trung, dài hạn có thời gian dài, thời gian hoàn vốn chậm: tín dụng
trung, dài hạn thường được sử dụng để tài trợ cho các dự án có thời gian dài: đầu tư vào
các tài sản cố định, các tài sản này tham gia vào nhiều chu kì sản xuất kinh doanh, hơn nữa
việc thực hiện dự án thường phải trải qua thời gian thi công, lắp đặt… chính vì vậy, các
doanh nghiệp vay vốn sẽ không có tiền trả nợ trong thời gian này (khi dự án chưa có thu
nhập). Nguồn trả nợ của tín dụng trung, dài hạn được lấy chủ yếu từ nguồn khấu hao và lợi
nhuận sinh ra từ tài sản đầu tư và có thể từ một số nguồn khác mà doanh nghiệp có (ví dụ
như nguồn khấu hao lấy từ các tài sản hiện có khác của doanh nghiệp) do vậy doanh
nghiệp không thể giả nợ ngân hàng trong một thời gian ngắn được.
Chính vì đặc trưng này đòi hỏi ngân hàng phải có sự thẩm định kỹ càng vì dự án
kéo dài lâu (thời gian hoàn vốn chậm), trong thời gian kéo dài như vậy khả năng gặp phải
các rủi ro là rất lớn.
Thứ ba, lãi suất tín dụng trung, dài hạn thường cao hơn so với lãi suất ngắn hạn.
Như chúng ta đã biết thì lãi suất của một khoản vay phụ thuộc vào mức lãi suất chung của
thị trường, rủi ro của khoản vay đó, chi phí của ngân hàng, thời hạn cho vay… trong khi
đó các hoạt động của doanh nghiệp và quá trình sử dụng vốn vay luôn bị chịu ảnh hưởng
của các nhân tố trực tiếp, gián tiếp như chính trị, kinh tế, xã hội, các yếu tố tự nhiên, ngay
cả những yếu tố xuất phát từ nội bộ doanh nghiệp. Do vậy khi thời gian cho vay bị kéo dài
thì việc tác động của các nhân tố trên tới tình hình của doanh nghiệp ngày càng nhiều và
nếu không có phương án dự phòng thì khả năng xảy ra rủi ro và tổn thất là rất lớn. Đồng
thời với khả năng xảy ra những rủi ro như vậy thì ngân hàng sẽ phải tốn nhiều nhân lực,
các nguồn lực vật chất khác để thẩm định dự án để tiến hành cho vay và ngân hàng sẽ phải
bỏ nhiều chi phí hơn cho việc kiểm tra, giám sát doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn vay
trong một thời gian dài của các khoản tín dụng trung, dài hạn. Vì lẽ đó lãi suất của tín dụng
trung, dài hạn thường cao. Tuy vậy ngân hàng cần có một lãi suất hợp lí để tạo điều kiện
cho doanh nghiệp có thể vay được vốn và ngân hàng cũng có lợi nếu mức lãi suất mà quá
cao thì sẽ ảnh hưởng đến chi phí của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ làm ăn không hiệu
quả do chi phí cao và doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng điều này sẽ gây ra tổn
thất lớn cho ngân hàng.
1.2.1.2 Vai trò của tín dụng trung, dài hạn trong nền kinh tế thị trường
Xem xét vai trò của tín dụng trung, dài hạn đối với khách hàng (chủ yếu là các
doanh nghiệp), ngân hàng, và trên giác độ toàn bộ nền kinh tế.
- Đối với khách hàng:
Đối tượng chính của tín dụng trung, dài hạn chủ yếu là các doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì đều cần có vốn để sản xuất, và hiện nay thì các
doanh nghiệp đều phải tự thân vận động để tìm vốn ngay cả các doanh nghiệp Nhà nước
cùng không thể trông chờ vào nguồn vốn ngân sách như trước. Kênh tín dụng ngân hàng là
một kênh cung cấp vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp bởi vì việc phát hành cổ
phiếu, trái phiếu để huy động vốn cũng gặp phải rất nhiều khó khăn và thị trường chứng
khoán của nước ta hiện nay đang ở trong tình trạng sơ khai. Hình thức cấp tín dụng của
ngân hàng cũng là một hình thức cung cấp vốn có hiệu quả bởi vì việc cho vay đối với các
doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến quyền lợi của ngân hàng vì vậy khi cho vay ngân hàng
sẽ phải thẩm định khách hàng vay kĩ lưỡng (năng lực tài chính, hiệu quả của dự án đầu tư,
nguồn trả nợ…) vì khi có rủi ro khách hàng không trả được nợ thì