Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng - để tài trợ cho chi tiêu
của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Hoạt động cho vay của ngân
hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục
vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền
kinh tế.
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng
số và tạo ra từ 1/2 đến 1/3 nguồn thu nhập của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro trong hoạt
động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay.
Do nước ta đi lên từ một đất nước thuần nông nên sản xuất nhỏ với quy mô hộ
là rất phổ biến. Theo chủ trương chính sách của đảng về phát triển kinh tế thì kinh tế hộ
sản xuất giữ một vai trò quan trọng, đặc biệt là các hộ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
Tiên Lãng là một huyện ngoại thành thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố
khoảng 20 km về phía Tây Nam, chung quanh sông biển bao bọc, dân số gần 15 vạn
người, kinh tế chủ yếu là cây lúa, đời sống nhân dân còn khó khăn. Từ sau khi thực hiện
Nghị định 10 của bộ chính trị về nông nghiệp, nông thôn và nông dân, theo đó các hộ sản
xuất nông nghiệp được trao quyền sử dụng đất lâu dài để tự chủ sản xuất, thì kinh tế hộ tại
Tiên Lãng càng phát triển. Bên cạnh sự phát triển đó thì nhu cầu vốn đầu tư của hộ sản
xuất cũng phát triển. Do đó, họ đã huy động vốn bằng nhiều cách khác nhau nhưng hoạt
động vốn thông qua tín dụng ngân hàng vẫn là chủ yếu.
Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng,
vận dụng những lí thuyết vào thực tế em thấy rằng Ngân hàng đã tiếp cận và cố gắng đáp
ứng nhu cầu vốn của hộ sản xuất, coi họ là khách hàng quan trọng của mình. Trong những
năm gần đây, Ngân hàng đã mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất. Tuy nhiên mở rộng và
nâng cao chất lượng tín dụng phải đi liền với nhau, có thể ví như một bàn cân. Nếu như
quá mở rộng tín dụng mà không chú ý nâng cao chất lượng tín dụng phòng ngừa rủi ro thì
hiệu quả cho vay thấp, nợ quá hạn gia tăng, thu lãi không đạt kế hoạch, dẫn đến nợ đọng
ngày càng cao, nguy cơ mất vốn lớn. Do vậy vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để nâng cao
hiệu quả hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất. Đây là một vấn đề cần được xem xét và
bàn bạc. Do vậy em đã chọn đề tài :
“ Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân
hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng ” .
57 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2269 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Lãng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với
hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng
No&PTNT huyện Tiên Lãng
Lời mở đầu
Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng - để tài trợ cho chi tiêu
của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Hoạt động cho vay của ngân
hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục
vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền
kinh tế.
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng
số và tạo ra từ 1/2 đến 1/3 nguồn thu nhập của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro trong hoạt
động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay.
Do nước ta đi lên từ một đất nước thuần nông nên sản xuất nhỏ với quy mô hộ
là rất phổ biến. Theo chủ trương chính sách của đảng về phát triển kinh tế thì kinh tế hộ
sản xuất giữ một vai trò quan trọng, đặc biệt là các hộ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
Tiên Lãng là một huyện ngoại thành thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố
khoảng 20 km về phía Tây Nam, chung quanh sông biển bao bọc, dân số gần 15 vạn
người, kinh tế chủ yếu là cây lúa, đời sống nhân dân còn khó khăn. Từ sau khi thực hiện
Nghị định 10 của bộ chính trị về nông nghiệp, nông thôn và nông dân, theo đó các hộ sản
xuất nông nghiệp được trao quyền sử dụng đất lâu dài để tự chủ sản xuất, thì kinh tế hộ tại
Tiên Lãng càng phát triển. Bên cạnh sự phát triển đó thì nhu cầu vốn đầu tư của hộ sản
xuất cũng phát triển. Do đó, họ đã huy động vốn bằng nhiều cách khác nhau nhưng hoạt
động vốn thông qua tín dụng ngân hàng vẫn là chủ yếu.
Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng,
vận dụng những lí thuyết vào thực tế em thấy rằng Ngân hàng đã tiếp cận và cố gắng đáp
ứng nhu cầu vốn của hộ sản xuất, coi họ là khách hàng quan trọng của mình. Trong những
năm gần đây, Ngân hàng đã mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất. Tuy nhiên mở rộng và
nâng cao chất lượng tín dụng phải đi liền với nhau, có thể ví như một bàn cân. Nếu như
quá mở rộng tín dụng mà không chú ý nâng cao chất lượng tín dụng phòng ngừa rủi ro thì
hiệu quả cho vay thấp, nợ quá hạn gia tăng, thu lãi không đạt kế hoạch, dẫn đến nợ đọng
ngày càng cao, nguy cơ mất vốn lớn. Do vậy vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để nâng cao
hiệu quả hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất. Đây là một vấn đề cần được xem xét và
bàn bạc. Do vậy em đã chọn đề tài :
“ Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân
hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng ” .
Bằng các biện pháp nghiên cứu như duy vật biện chứng, thống kê tổng hợp, phân
tích, đánh giá, tổng kết em xin đưa ra một số ý kiến về hiệu quả hoạt động cho vay đối với
hộ sản suất tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng. Trong chuyên đề thực
tập này, em chỉ đề cập đến hoạt động cho vay của ngân hàng đối với hộ sản xuất trên địa
bàn huyện Tiên Lãng.
Bố cục của chuyên đề được chia làm 3 chương với những nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng
No&PTNT huyện Tiên Lãng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất tại Chi
nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng.
Chương 1
Khái quát hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại.
1.1/ Khái niệm và đặc điểm hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại.
1.1.1/ Khái niệm cho vay
Theo điều 3 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc
NHNN, “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tính chất tín dụng giao cho khách
hàng dùng một khoản tiền để dùng vào mục đích và thời gian quyết định theo thoả thuận
với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.”
Như vậy, ta có thể hiểu cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam
kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Có nghĩa là,
khi hoạt động cho vay phát sinh, hai bên sẽ cam kết với nhau như sau:
+ Ngân hàng sẽ trao cho người vay một khoản tiền.
+ Còn phía người vay phải cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tiền vay trong một
thời gian quyết định và theo một số điều kiện nhất định nào đó.
1.1.2/ Đặc điểm cho vay:
+ Cho vay là hoạt động có kiểm soát của ngân hàng, không có một ngân hàng nào sau khi
cho vay lại chờ cho đến khi hoạt động tín dụng kết thúc. Mỗi ngân hàng phải có một chính
sách kiểm soát nhất định đối với khách hàng của mình về quá trình kinh doanh và sử dụng
vốn.
+ Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng, thường được định lượng theo 2 chỉ
tiêu, đó là doanh số cho vay và dư nợ.
- Doanh số cho vay trong kì là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong kỳ.
- Dư nợ cuối kỳ: là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ.
+ Đối tượng cho vay của các ngân hàng thương mại bao gồm: giá trị vật tư, hàng hoá, máy
móc thiết bị và các khoản chi phí để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh
doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư phục vụ đời sống đã được tổ chức tín dụng thẩm định và
chấp nhận cho vay.
+ Thời hạn cho vay: là khoảng thời gian kể từ khi người vay nhận tiền vay đến khi người
vay thanh quyết toán hết nợ vay với ngân hàng. Đây là khoảng thời gian chính thức xác
lập và tồn tại quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, đồng thời cũng là căn cứ để
xác định nghĩa vụ của người vay đối với ngân hàng khi tính lãi tiền vay, cũng như khi
kiểm tra tính mục đích trong quá trình sử dụng vốn vay của người vay.
+ Cho vay là hoạt động mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng nhưng cũng chịu rủi ro
nhất.
+Tiền cho vay là một món nợ đối với người vay nhưng nó lại là một tài sản có giá trị đối
với ngân hàng vì nó mang lại thu nhập cho ngân hàng.
+ Tiền cho vay kém lỏng hơn so với các tài sản khác vì chúng không thể chuyển thành tiền
mặt trước khi khoản vay đó mãn hạn. Đồng thời tiền cho vay cũng có xác suất vỡ nợ cao
hơn.
+ Cho vay được ngân hàng cung cấp trên phạm vi rộng, đối với mọi thành phần kinh tế xã
hội.
1.2/ Vai trò và nguyên tắc cho vay của Ngân hàng Thương mại
1.2.1/ Vai trò của hoạt động cho vay
1.2.1.1/Đối với ngân hàng thương mại:
+ Cho vay là một nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động sử dụng vốn của các ngân hàng
thương mại, là loại tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng do đó cũng là loại tài sản
chiếm quy mô lớn trong khoản mục tài sản của ngân hàng thương mại. Với quy mô lớn
như vậy, cho vay ảnh hưởng tới rất nhiều chiến lược hoạt động của ngân hàng như dự trữ,
vay, đầu tư.
+ Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các ngân hàng thương mại để tạo ra lợi
nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ hoạt động cho vay mới bù đắp
nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, nộp thuế và các loại phí
trong kinh doanh, bù đắp những tổn thất về rủi ro, có thể nói cho vay mang lại thu nhập
lớn nhất cho các ngân hàng thương mại.
1.2.1.2/ Đối với nền kinh tế:
+ Cho vay đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tín dụng... của các chủ thể kinh
tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
+ Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các
doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả 3 giai đoạn: dự trữ- sản xuất- lưu thông. Từ đó
xảy ra hoạt động thừa vốn và thiếu vốn tạm thời của các doanh nghiệp, tức là tại một thời
điểm quyết định có những đơn vị kinh tế có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi và có những đơn
vị tạm thời thiếu vốn. Đây là hoạt động xảy ra thường xuyên và phổ biến trong bất kỳ nền
kinh tế nước nào. Hoạt động cho vay đã góp phần phân phối lại vốn tiền tệ, điều hoà cung
và cầu vốn trong các doanh nghiệp, điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn.
+ Hoạt động cho vay vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn thời gian tích luỹ vốn nhanh
chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ
vốn cho nền kinh tế. Bởi vì để mở rộng sản xuất, đối với từng doanh nghiệp yêu cầu về
vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Các doanh nghiệp không thể
chỉ dựa vào vốn tự có mà còn phải biết dựa vào nhiều nguồn khác nhau trong xã hội, trong
đó nguồn đi vay là rất cần thiết và quan trọng.
1.2.2/ Nguyên tắc cho vay của NHTM
1.2.2.1/Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và
có hiệu quả kinh tế .
Với nguyên tắc này, khi vay vốn người vay phải trình bày phương án, kế hoạch tín
dụng, đồng thời phải xác định rõ mục đích, đối tượng sử dụng vốn và cam kết sẽ sử dụng
vốn đúng mục đích, đối tượng đó nếu được tổ chức tín dụng chấp thuận. Trong quá trình
sử dụng vốn, nếu sai cam kết người vay sẽ chịu trách nhiệm trước ngân hàng theo luật định
và theo hợp đồng.
Thực tế đã chứng minh khi đồng vốn được sử dụng đúng mục đích, đối tượng thì có
thể hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro không đáng có đối với tiền vốn của ngân hàng.
1.2.2.2/ Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả vốn gốc và lãi vay theo đúng thời hạn đã
cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Đây là một nguyên tắc quan trọng bắt nguồn từ nguyên tắc tự chủ về tài chính trong
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, từ đặc điểm luân chuyển vốn trong các doanh
nghiệp và đồng thời cũng là đặc trưng của tín dụng là “có vay, có trả”.
Hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh như tất cả
các lĩnh vực khác. Bởi vậy, khi ngân hàng cấp vốn cho người vay là thời điểm chính thức
bắt đầu một chu kỳ kinh doanh, vốn được đầu tư vào các hoạt động kinh tế của doanh
nghiệp. Khi người vay hoàn trả nợ vay, chu kỳ kinh doanh của ngân hàng kết thúc. Với ý
nghĩa đó, người vay phải hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi thì khả năng tái kinh doanh của
ngân hàng mới có thể thực hiện được.
Biểu hiện trong thực tế của nguyên tắc này:
- Khi vay vốn người vay phải cam kết hoàn trả gốc và lãi cho ngân hàng bằng một điều
khoản trong hợp đồng tín dụng hoặc khế ước nhận nợ.
- Đến kỳ hạn hoàn trả theo cam kết nếu người vay thiếu hoặc mất khả năng thanh toán và
không được ngân hàng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ thì ngân hàng được quyền
áp dụng các điều khoản trong thể lệ tín dụng hiện hành để xử phạt người vay ( chuyển nợ
quá hạn, phát mại tài sản thế chấp, phong toả tài sản của người vay hoặc khởi kiện trước
pháp luật ) .
1.2.2.3/ Vốn vay phải được đảm bảo bằng tài sản:
Đây là nguyên tắc đảm bảo cho sự sống còn của các ngân hàng thương mại, giúp ngân
hàng ngăn ngừa, giảm thiểu rủi ro đến mức thấp nhất, kể cả các trường hợp con nợ hoàn
toàn mất khả năng thanh toán. Đảm bảo tiền vay được coi như một cơ sở vật chất vững
chắc để đảm bảo sự an toàn tiền vốn của các ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường.
Về mặt lý thuyết cũng như trong thực tệ, đảm bảo tiền vay có thể được thực hiện đồi với
các hình thức sau:
- Người vay thế chấp tài sản.
- Người vay phải được bảo lãnh bởi người thứ ba.
- Người vay thế chấp nợ vay bằng chính tài sản được hình thành từ nguồn vốn vay của
ngân hàng.
Việc áp dụng hình thức đảm bảo nào hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cuả
người vay và cơ chế tín dụng hiện hành.
.2.2.4/ Cho vay phải đề phòng và có biện pháp tránh rủi ro
Đây là một nguyên tắc hết sức quan trọng để thực hiện việc thu hồi vốn đầy đủ,
tránh mất mát dẫn đến sự phá sản của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, sự phá sản
của các doanh nghiệp dẫn đến việc tổn thất trong việc cấp tín dụng của ngân hàng là có thể
xảy ra nên ngân hàng không tập trung vốn vay cho một số tổ chức kinh tế.
1.3/ Phân loại cho vay:
Có nhiều cách phân loại cho vay khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục
đích quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu:
1.3.1/ Phân loại theo thời gian:
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên
quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của ngân hàng cũng như khả năng hoàn trả của
khách hàng.
Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, cho vay được phân thành:
+ Cho vay ngắn hạn : đến 12 tháng.
+ Cho vay trung hạn : trên 12 tháng đến 60 tháng.
+ Cho vay dài hạn : trên 60 tháng.
Các ngân hàng thường cho vay ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động của khách
hàng. Tại các ngân hàng thương mại thường thì tỷ trọng cho vay ngắn hạn cao hơn cho vay
trung dài hạn.
Cho vay trung hạn nhằm tài trợ cho tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây
trồng vật nuôi....có yêu cầu tài trợ từ trên 1 năm đến 5 năm.
Cho vay dài hạn nhằm tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà, sân bay, máy móc
thiết bị....có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu, có yêu cầu tài trợ trên 5 năm.
Tỷ trọng giữa cho vay ngắn hạn và cho vay trung- dài hạn bị ảnh hưởng bởi nhiều
nhân tố như kỳ hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của ngân
hàng, định hướng kinh doanh của ngân hàng, khả năng dự báo rủi ro của ngân hàng....
1.3.2/ Phân loại theo tài sản đảm bảo :
Theo Điều 4 mục 1 tại Nghị định 178/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính Phủ quy
định rõ “ việc cho vay có đảm bảo bằng tài sản, cho vay không có đảm bảo theo quy định
của Nghị định này và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp tổ chức tín
dụng Nhà nước cho vay không có đảm bảo bằng tài sản theo chỉ định của Chính Phủ, thì
tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản vay này được Chính Phủ xử lý”.
Do đó, căn cứ năng lực, uy tín và phương án kinh doanh của từng khách hàng, ngân
hàng sẽ quyết định cho vay có tài sản đảm sản hay không có tài sản đảm bảo.
+ Cho vay có tài sản đảm bảo là hình thức cho vay mà khoản cho vay đó có sự đảm bảo
bằng thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba, tức là ngân hàng sẽ có nguồn thu
nợ thứ hai khi ngân hàng thu nợ thứ nhất không thực hiện được.
+ Cho vay không có tài sản đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc bảo lãnh của người thứ 3, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng như: làm
ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra nợ nần, có quan hệ lâu dài
với ngân hàng ... hoặc cho vay theo chỉ thị của Chính phủ.
1.3.3/ Một số cách phân loại khác.
+ Phân theo ngành kinh tế ( công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng.....)
+ Theo mục đích ( sản xuất, tiêu dùng...).
+ Theo đối tượng khách hàng ( doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
hợp tác xã nông nghiệp, cá nhân, hộ gia đình... )
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong hoạt động
cho vay của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ
vốn song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế.
1.4/ Hình thức cho vay
1.4.1/ Cho vay trực tiếp
Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng
không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi.
Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở
rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chr tham gia vào một số
giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn
vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho
vay. Thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món
vay được tách biệt nhau thành hồ sơ ( khế ước nhận nợ ) khác nhau.
1.4.2/ Cho vay gián tiếp
Đây là hình thức ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng
cho vay thông qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội cựu chiến
binh, Hội phụ nữ.... Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo một mục đích
riêng song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy việc
phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo luôn được các tổ chức trung gian rất quan
tâm.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức
trung gian như nợ, phát tiền vay.... Tổ chức trung gian có thể đứng ra tín chấp cho các
thành viên vay hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh xho một thành viên vay. Điều này
rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Để bù đắp một phần
chi phí của trung gian, ngân hàng để lại một phần thu nhâp cho trung gian.
Khi các ngân hàng tham gia vào việc tài trợ gián tiếp và để lại một khoản dự trữ cho
vay để bảo vệ các tổ chức trung gian cũng như ngân hàng tránh khỏi những thiệt hại phát
sinh, đồng thời tiết kiệm cho ngân hàng lượng thời gian và chi phi không nhỏ.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ,
người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian
có thể tiết kiệm chi phí cho vay ( phân tích, giám sát, thu nợ) . Cho vay qua trung
gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng.
Tuy nhiên, nếu ngân hàng không kiểm soát tốt, nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế
của mình sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho
riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt
cho người vay vốn.
1.5/ Phương thức cho vay
1.5.1/ Cho vay từng lần ( cho vay theo món)
Phương thức này sử dụng tài khoản cho vay đơn giản, được thực hiện trên cở từng
phương án, từng thương vụ theo yêu cầu của mỗi bên vay, áp dụng cho các đơn vị tổ chức
kinh tế có đủ điều kiện vay vốn nhưng không đủ điều kiện để vay theo tài khoản luân
chuyển, hay doanh nghiệp không có nhu cầu vay vốn thường xuyên. Mỗi lần vay doanh
nghiệp phải làm đơn xin vay có giải trình cụ thể về mục đích vay vốn, số lượng cần vay, số
vốn doanh nghiệp có khả năng trả nợ vốn vay. Đây là phương thức cho vay áp dụng phổ
biến ở Việt Nam. Mỗi kế hoạch sản xuất quý, mỗi phương án, mỗi thương vụ, mỗi nhu cầu
vay vốn, đó là một món vay.
Trong cho vay từng lần thì vốn tín dụng chỉ tham gia vào một giai đoạn hay một quy
trình nhất định trong chu kỳ sản xuất kinh doanh, chu kỳ luân chuyển vốn của đơn vị hoặc
tham gia vào toàn bộ quá trình đó nhưng không thường xuyên liên tục. Về phía ngân hàng
thì việc cho vay và thu nợ được xử lý theo từng món vay.
Nếu đến kỳ hạn trả nơ mà bên vay không có đủ tiền để trả thì họ cần phải làm đơn
xin gia hạn. Thời gian gia hạn sẽ vượt quá thời hạn trước cho vay trước đây hoặc không
vượt quá một chu kỳ sản xuất kinh doanh của đơn vị. Nếu không có lý do chính đáng thì
ngân hàng sẽ thực hiện chuyển nợ quá hạn và thông báo cho bên vay biết. Trường hợp cuối
cùng vì lý do đặc biệt mà bên vay không trả được nợ thì một mặt đơn vị vay vốn phải làm
đơn xin gia hạn và mặt khác ngân hàng gửi hồ sơ trình cấp trên xin được khoanh nợ. Sau
khi được Chính phủ cho phép khoanh nợ thì đơn vị vay vốn sẽ được tiếp tục vay vốn ngân
hàng. Nếu đến kỳ hạn trả nợ mà người đi vay không đủ tiền để trả thì ngân hàng sẽ thu lãi
trước còn bao nhiêu sẽ trừ vào nợ gốc hoặc thu tương ứng gốc và lãi.
Cho vay theo món rất thuận tiện cho khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một
lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh
toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Nêú doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ (
hàng hoá tồn đọng ) thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của
khoản vay không được quy định rõ ràng.
1.5.2/ Cho vay thấu chi
Phương thức xho vay này cho phép người vay được phép chi trội ( chi vươt ) trên số
dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác
định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Hạn mức thấu chi được xác định dựa trên
cơ sở số dư bình quân t