1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt từ 7- 8%; đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, chính trị được giữ vững và ổn định. Lĩnh vực XĐGN cũng đạt được nhiều thành tích nổi bật và được Liên hợp quốc đánh giá cao. Tuy vậy, mặt trái của sự phát triển cũng ngày càng bức xúc, như khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng; sự tụt hậu ngày càng lớn giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng; tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng; tình trạng ô nhiễm môi trường và lãng phí tài nguyên đất nước.v.v. Hàng triệu hộ nghèo hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt là hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa không được hưởng những thành quả của sự phát triển. Họ đang bơ vơ, lạc lõng trước sự hội nhập toàn cầu và ánh sáng của thế giới văn minh. Những yếu kém trên là nguyên nhân mất ổn định về xã hội- chính trị, là nỗi đau của một xã hội đang phấn đấu vì lý tưởng dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng- dân chủ- văn minh.
Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta cũng đã quan tâm đến nhiệm vụ XĐGN; Đại hội VIII của Đảng đã xác định rõ XĐGN là một trong những chương trình phát triển kinh tế, xã hội vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài và nhấn mạnh “phải thực hiện tốt chương trình XĐGN, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc. Xây dựng và phát triển quỹ XĐGN bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả”. Chính phủ đã phê duyệt và triển khai chương trình, mục tiêu quốc gia XĐGN, giai đoạn 1998- 2000 và giai đoạn 2001-2010, như hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo; hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn; định canh, định cư, di dân, kinh tế mới; hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và khuyến nông- lâm- ngư; hỗ trợ tín dụng cho người nghèo; hỗ trợ người nghèo về y tế; hỗ trợ người nghèo về giáo dục; hỗ trợ sản xuất, phát triển ngành nghề; đào tạo cán bộ làm công tác XĐGN, cán bộ các xã nghèo, chương trình phát triển kinh tế, xã hội các xã đặc biệt khó khăn (QĐ số 135/1998/QĐ-TTg), chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm.v.v
Trong lĩnh vực tín dụng cho người nghèo, năm 1996 đã thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo và đến năm 2003 được tách ra thành Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH), với mục tiêu chủ yếu là cho vay ưu đãi hộ nghèo. Sau hơn 5 năm hoạt động, NHCSXH đã cho vay hàng chục ngàn tỷ đồng, cho hàng chục triệu lượt hộ nghèo và đã góp phần to lớn trong công cuộc XĐGN cho đất nước.
Tuy nhiên, sự nghiệp XĐGN vẫn đang còn ở phía trước, với nhiệm vụ ngày càng khó khăn, phức tạp; trong đó, lĩnh vực tín dụng cho hộ nghèo nhiều vấn đề vẫn đang bức xúc như: Quy mô tín dụng chưa lớn, hiệu quả XĐGN còn chưa cao, hoạt động của NHCSXH chưa thực sự bền vững.v.v Những vấn đề trên là phức tạp, nhưng chưa có mô hình thực tiễn và chưa được nghiên cứu đầy đủ. Để giải quyết tốt vấn đề nghèo đói ở Việt Nam nói chung và tín dụng cho hộ nghèo nói riêng, đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách có hệ thống, khách quan và khoa học, phải có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước cũng như toàn xã hội.
Với những lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Nhằm hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về đói nghèo, tín dụng đối với hộ nghèo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và hiệu quả cho vay hộ nghèo tại NHCSXH tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng hộ nghèo tại NHCSXH tỉnh Nghệ An.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu cho vay hộ nghèo tại chi nhánh NHCSXH tỉnh Nghệ An từ năm 2003 đến 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp quan sát khoa học, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp tổng hợp, thống kê, chứng minh, diễn giải, sơ đồ, biểu mẩu và đồ thị trong trình bày luận văn.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An (2003-2007).
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An.
89 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2891 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt từ 7- 8%; đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, chính trị được giữ vững và ổn định. Lĩnh vực XĐGN cũng đạt được nhiều thành tích nổi bật và được Liên hợp quốc đánh giá cao. Tuy vậy, mặt trái của sự phát triển cũng ngày càng bức xúc, như khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng; sự tụt hậu ngày càng lớn giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng; tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng; tình trạng ô nhiễm môi trường và lãng phí tài nguyên đất nước.v.v.. Hàng triệu hộ nghèo hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt là hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa không được hưởng những thành quả của sự phát triển. Họ đang bơ vơ, lạc lõng trước sự hội nhập toàn cầu và ánh sáng của thế giới văn minh. Những yếu kém trên là nguyên nhân mất ổn định về xã hội- chính trị, là nỗi đau của một xã hội đang phấn đấu vì lý tưởng dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng- dân chủ- văn minh.
Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta cũng đã quan tâm đến nhiệm vụ XĐGN; Đại hội VIII của Đảng đã xác định rõ XĐGN là một trong những chương trình phát triển kinh tế, xã hội vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài và nhấn mạnh “phải thực hiện tốt chương trình XĐGN, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc. Xây dựng và phát triển quỹ XĐGN bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả”. Chính phủ đã phê duyệt và triển khai chương trình, mục tiêu quốc gia XĐGN, giai đoạn 1998- 2000 và giai đoạn 2001-2010, như hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo; hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn; định canh, định cư, di dân, kinh tế mới; hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và khuyến nông- lâm- ngư; hỗ trợ tín dụng cho người nghèo; hỗ trợ người nghèo về y tế; hỗ trợ người nghèo về giáo dục; hỗ trợ sản xuất, phát triển ngành nghề; đào tạo cán bộ làm công tác XĐGN, cán bộ các xã nghèo, chương trình phát triển kinh tế, xã hội các xã đặc biệt khó khăn (QĐ số 135/1998/QĐ-TTg), chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm.v.v…
Trong lĩnh vực tín dụng cho người nghèo, năm 1996 đã thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo và đến năm 2003 được tách ra thành Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH), với mục tiêu chủ yếu là cho vay ưu đãi hộ nghèo. Sau hơn 5 năm hoạt động, NHCSXH đã cho vay hàng chục ngàn tỷ đồng, cho hàng chục triệu lượt hộ nghèo và đã góp phần to lớn trong công cuộc XĐGN cho đất nước.
Tuy nhiên, sự nghiệp XĐGN vẫn đang còn ở phía trước, với nhiệm vụ ngày càng khó khăn, phức tạp; trong đó, lĩnh vực tín dụng cho hộ nghèo nhiều vấn đề vẫn đang bức xúc như: Quy mô tín dụng chưa lớn, hiệu quả XĐGN còn chưa cao, hoạt động của NHCSXH chưa thực sự bền vững.v.v… Những vấn đề trên là phức tạp, nhưng chưa có mô hình thực tiễn và chưa được nghiên cứu đầy đủ. Để giải quyết tốt vấn đề nghèo đói ở Việt Nam nói chung và tín dụng cho hộ nghèo nói riêng, đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách có hệ thống, khách quan và khoa học, phải có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước cũng như toàn xã hội.
Với những lý do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Nhằm hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về đói nghèo, tín dụng đối với hộ nghèo.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và hiệu quả cho vay hộ nghèo tại NHCSXH tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng hộ nghèo tại NHCSXH tỉnh Nghệ An.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu cho vay hộ nghèo tại chi nhánh NHCSXH tỉnh Nghệ An từ năm 2003 đến 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp quan sát khoa học, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp tổng hợp, thống kê, chứng minh, diễn giải, sơ đồ, biểu mẩu và đồ thị trong trình bày luận văn.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An (2003-2007).
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Nghệ An.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐÓI NGHÈO
Khái niệm về đói nghèo
Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về cấp độ và số lượng, thay đổi theo thời gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy, để nhìn nhận và đánh giá được tình trạng đói nghèo của một quốc gia, một vùng và nhận dạng được hộ đói nghèo, để từ đó có giải pháp phù hợp để XĐGN, đòi hỏi chúng ta phải có sự thống nhất về khái niệm và các tiêu chí để đánh giá đói nghèo tại từng thời điểm.
Ở nước ta trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh sự tăng thu nhập và nâng cao đời sống của số đông dân chúng, vẫn còn tồn tại một bộ phận dân chúng sống nghèo khổ, đặc biệt là những hộ nông dân nghèo sống tập trung ở các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa…Chính vì vậy, trong xã hội sự phân hoá giàu nghèo đang diễn ra ngày một sâu sắc, khoảng cách giàu, nghèo ngày càng rộng. Đây là một thách thức lớn đặt ra đòi hỏi phải có những chính sách và giải pháp phù hợp, đi đôi với phát triển kinh tế - xã hội phải thực hiện thành công chương trình, mục tiêu quốc gia về XĐGN. Muốn XĐGN bền vững, thì điều đầu tiên là phải trả lời được câu hỏi: Quan niệm thế nào là nghèo, người nghèo là ai và vì sao họ nghèo? Để trả lời được các câu hỏi này chính xác, phải hiểu rõ được bản chất và nội dung của đói nghèo.
Phải khẳng định rằng không có định nghĩa duy nhất về đói, nghèo. Đói nghèo là tình trạng kiệt quệ bao gồm nhiều khía cạnh, từ thu nhập hạn chế đến tính dễ bị tổn thương khi gặp phải những tai ương bất ngờ và ít có khả năng tham gia vào quá trình ra quyết định chung. Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc - Thái Lan tháng 9/1993: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoã mãn các nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong tục, tập quán của địa phương’’[5, trang 122]
Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
Đói nghèo là tổng hợp khái niệm đói và khái niệm nghèo: Đói và nghèo thường gắn chặt với nhau, nhưng mức độ gay gắt khác nhau. Đói có mức độ gay gắt cao hơn, cần thiết phải xoá và có khả năng xoá. Còn nghèo, mức độ thấp hơn và khó xoá hơn, chỉ có thể xoá dần nghèo tuyệt đối, còn nghèo tương đối chỉ có thể giảm dần. Vì vậy, để giải quyết vấn đề đói nghèo, ta thường dùng cụm từ "Xoá đói giảm nghèo".
Cụ thể hơn các khái niệm đói nghèo ta có thể thấy: Dù ở dạng nào, thì đói cũng đi liền với thiếu chất dinh dưỡng, suy dinh dưỡng. Có thể hình dung các biểu hiện của tình trạng thiếu đói như sau:
- Thất thường về lượng: Bữa đói, bữa no, ăn không đủ bữa .
- Về mặt năng lượng: Nếu trong một ngày con người chỉ được thoả mãn mức 1.500 calo/ngày, thì đó là thiếu đói (thiếu ăn); dưới mức đó là gay gắt.
Nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu. Trong hoàn cảnh nào thì hộ nghèo, người nghèo cũng chỉ vật lộn với những mưu sinh hàng ngày về kinh tế, biểu hiện trực tiếp nhất là bữa ăn. Họ không thể vươn tới các nhu cầu về văn hoá, tinh thần, hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm tới mức tối thiểu nhất, gần như không có. Biểu hiện rõ nhất ở các hộ nghèo là hiện tượng trẻ em bỏ học, thất học, không có điều kiện để chữa bệnh khi ốm đau. Nhìn chung ở hộ nghèo, người nghèo thu nhập thực tế của họ hầu như chỉ dành chi toàn bộ cho ăn; thậm chí không đủ chi ăn, phần tích luỹ hầu như không có.
1.1.2. Tiêu chí về đói nghèo
Theo Ngân hàng Thế giới, biện pháp áp dụng thông dụng nhất để đo lường đói nghèo là dựa trên mức thu nhập hoặc mức chi tiêu. Một người được coi là nghèo, nếu mức độ chi tiêu hoặc thu nhập của anh ta xuống dưới mức tối thiểu cần thiết để đáp ứng cho các nhu cầu căn bản. Mức tối thiếu này được gọi là “ngưỡng đói nghèo”. Các yếu tố đáp ứng nhu cầu căn bản thay đổi theo thời gian và xã hội. Do đó, ngưỡng đói nghèo khác nhau theo thời gian và địa điểm và mỗi quốc gia sử dụng các ngưỡng thích hợp với mức độ phát triển, chuẩn mực và giá trị xã hội của mình. Để tổng hợp và so sánh toàn cầu, Ngân hàng thế giới sử dụng ngưỡng tham chiếu $1 và $2/ngày trong thuật ngữ “sức mua tương đương” (PPP) 1993 (PPP đo lường sức mua tương đối của đồng tiền các quốc gia).
Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình XĐGN ở Việt Nam, WB đã đưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt Nam:
Thứ nhất, là số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng 2.100 calo/người/ngày, gọi là chuẩn nghèo về lương thực, thực phẩm;
Thứ hai, là số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực, thực phẩm và chi tiêu cho các nhu cầu cần thiết khác, gọi là chuẩn nghèo chung.
Tại Việt Nam hiện nay đang sử dụng một loạt các chỉ tiêu đánh giá về nghèo đói và phát triển xã hội: Bộ LĐ- TB&XH (cơ quan thường trực của Chính phủ trong tổ chức, triển khai, thực hiện XĐGN) dùng phương pháp dựa trên thu nhập của hộ gia đình tuỳ theo từng thời gian. Các hộ được xếp vào diện nghèo, nếu thu nhập đầu người của họ ở dưới mức chuẩn được xác định. Mức này khác nhau giữa thành thị, nông thôn và miền núi. Tỷ lệ nghèo được xác định bằng tỷ lệ giữa dân số có thu nhập dưới ngưỡng nghèo so với tổng dân số trong cùng một thời điểm.
Năm 1997, chuẩn nghèo đói thuộc phạm vi của chương trình quốc gia (chuẩn nghèo cũ) để áp dụng cho thời kỳ từ năm 1996 - 2000 như sau:
Hộ đói là hộ có thu nhập dưới 13 kg gạo/người/tháng (tương đương 45.000 đồng cho tất cả các vùng).
Hộ nghèo là hộ có thu nhập tuỳ theo từng vùng ở các mức tương ứng như nhau:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo dưới 15 kg gạo/người/tháng (tương đương 55.000 đồng).
- Vùng nông thôn đồng bằng, trung du dưới 20 kg gạo/người/tháng (tương đương 70.000 đồng).
- Vùng thành thị dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng). Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ đói nghèo từ 40% trở lên, thiếu một trong các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sinh hoạt, thuỷ lợi nhỏ và chợ).
Trước những thành tích của công cuộc XĐGN, cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức sống. Cuối năm 2000 mức sống của dân cư tăng lên 1,5 lần, thu nhập GDP đầu người tăng lên 1,47 lần so với năm 1996, chuẩn hộ nghèo đã được điều chỉnh cho phù hợp với chuẩn quốc tế. Theo chuẩn mực phân loại hộ nghèo do Bộ LĐ- TB&XH quy định tại văn bản số 1143 ngày 01/11/2000 đã công bố mức chuẩn nghèo mới áp dụng cho thời kỳ 2001- 2005, thì hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người hàng tháng như sau:
- 80.000 đồng/người/tháng ở các vùng hải đảo và vùng miền núi nông thôn.
- 100.000 đồng/người/tháng ở các vùng đồng bằng nông thôn.
- 150.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
- Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm từ 25% trở lên, thiếu 3 trong số các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, điện thắp sáng, trường học, trạm y tế, nước sạch sinh hoạt, chợ).
- Vùng nghèo có thể là một số xã liền kề (hoặc một vùng dân cư) nằm ở vị trí khó khăn, hiểm trở, giao thông không thuận lợi. Các cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, không có điều kiện phát triển sản xuất và đảm bảo đời sống, là vùng có tỷ lệ hộ nghèo, xã nghèo cao.
Theo tiêu chí đánh giá này, thì thời điểm đầu năm 2001 cả nước có khoảng 2,7 triệu hộ nghèo, tỷ lệ 17,3%. Theo quyết định số 170/2005/QĐ-TTg, ngày 08 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng trong giai đoạn 2006 - 2010:
- Đối với khu vực thành thị: Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người 1 tháng dưới 260.000 đồng.
- Đối với khu vực nông thôn: Hộ nghèo là những hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người 1 tháng dưới 200.000 đồng.
Theo tiêu chí cũ về hộ nghèo, thì đến năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam còn 7%, còn theo tiêu chí mới tỷ lệ hộ nghèo tới 22%.
Phương pháp xác định đói nghèo do Bộ LĐ- TB&XH nêu trên có những ưu điểm nhất định: Dễ hiểu, dễ tính toán, dễ điều tra.
Việc đưa ra giới hạn đói nghèo của Bộ LĐ- TB&XH là phù hợp với điều kiện của Việt Nam, tiện lợi cho việc Nhà nước có một bức tranh tổng quát về đói nghèo, đặc biệt là vùng nông thôn và miền núi để có thể đưa ra các giải pháp XĐGN trong cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc bình xét hộ nghèo tại một số địa phương (xóm, bản, xã, phường) đã không thực hiện đúng theo hướng dẫn của Bộ LĐ- TB&XH về các tiêu chí đánh giá hộ nghèo, cho nên đã dẫn đến tình trạng số hộ nghèo thực tế lớn hơn số hộ nghèo được cấp thẻ (hộ nghèo trong danh sách) tại từng thời điểm (vấn đề này chúng tôi sẽ đề cập cụ thể ở phần sau).
Tổng cục Thống kê thì dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người để tính tỷ lệ nghèo. Tổng cục Thống kê xác định ngưỡng nghèo dựa trên chi phí cho một giỏ tiêu dùng, bao gồm lương thực và phi lương thực; trong đó, chi tiêu cho lương thực phải đủ đảm bảo 2.100 calo mỗi ngày cho 1 người. Các hộ được coi là thuộc diện nghèo, nếu mức thu nhập và chi tiêu không đảm bảo giỏ tiêu dùng này.
Phương pháp đo lường đói nghèo bằng chi tiêu tỏ ra là một phương pháp tốt. Tuy nhiên, một trong những hạn chế của phương pháp này là nó đòi hỏi rất nhiều số liệu, chi phí điều tra cao, thời gian dài.
1.1.3. Nguyên nhân đói nghèo
Đói nghèo là hậu quả đan xen của nhiều nguyên nhân nằm trong các nhóm nguyên nhân. Nhóm nguyên nhân khách quan, do môi trường tự nhiên (vị trí, khí hậu, đất đai); kinh tế - xã hội (trình độ dân trí thấp, yếu tố tập quán của từng dân tộc, từng vùng miền, chính sách của Nhà nước) và nhóm nguyên nhân do bản thân người nghèo; đi vào phân tích các nguyên nhân như sau:
1.1.3.1. Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên; kinh tế - xã hội
- Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động sâu sắc đến SXKD của các hộ gia đình, đặc biệt là các hộ nghèo.
Đói nghèo tập trung khu vực nông thôn: Nghèo có đặc thù rõ rệt về mặt địa lý. Ở Việt Nam, với 80% dân số và 90% số người nghèo sống ở nông thôn “Những đặc trưng của người nghèo vẫn giống như trước đây - đói nghèo vẫn là hiện tượng phổ biến ở nông thôn và đối với các dân tộc thiểu số, thì mức độ đói nghèo cao và nghiêm trọng hơn so với đa số người Kinh. Các đặc trưng khác của đói nghèo, là rủi ro cao về thu nhập, do thường xuyên bị thiên tai và tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng ở nông thôn” [16, trang 1].
Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực và thực phẩm ở nông thôn là 15,9% đa số người nghèo là nông thôn (trên 80%), trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ…), thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn, những người nông dân nghèo thường không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin, khó có khả năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp. Phụ nữ nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là phụ nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm nghèo dễ bị tổn thương nhất, phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn, nhưng thu nhập thấp hơn, họ có ít quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng, do đó có ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang lại.
Điều kiện vị trí không thuận lợi đã hạn chế nhiều đến sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và sinh hoạt của các hộ gia đình. Người nghèo tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn; đa số người nghèo sinh sống ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn hoặc ở các vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền trung; do sự biến động của thời tiết (bão, lụt, hạn hán…) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn, đặc biệt sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác. “Năm 2000, khoảng 20- 30% trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước sạch; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% số xã chưa đủ công trình thủy lợi nhỏ; 20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã. Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người dân thuộc diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1- 1,5 triệu người. Hàng năm số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo còn lớn” [4, trang 19].
Đói nghèo trong khu vực thành thị: Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh. Một số lao động mất việc làm do chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước, dẫn đến điều kiện sống của họ càng khó khăn, một số người thất nghiệp. Các hộ nghèo thường có ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên tại một số nơi. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo, cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất để hướng tới sản xuất các loại cây trồng với giá trị cao.
- Điều kiện kinh tế - xã hội
Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy, không có đủ điều kiện nâng cao trình độ của mình trong tương lai, để thoát khỏi cảnh đói nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái… Những ảnh hưởng này tác động không những đối với thế hệ hiện tại, mà cả đối với các thế hệ tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đến trường của con em các gia đình nghèo nhất và sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục, trở nên khó khăn hơn. Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy, khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; Trung học cơ sở chiếm 37%. Chi phí cho giáo dục đối với người nghèo còn rất lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo tiếp cận được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên; 80% số người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Trình độ học vấn thấp, hạn chế khả năng kiếm việc làm trong các khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp và những công việc mang lại thu nhập cao và ổn định hơn. Do trình độ dân trí thấp, nên việc bất bình đẳng giới thường xảy ra. Bất bình đẳng giới còn sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân người phụ nữ và trẻ em gái phải chịu đựng do bất bình đẳng giới, thì còn có những tác động bất lợi khác đối với gia đình. Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ lệ cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành nông nghiệp. Mặc dù vậy, nhưng phụ nữ chỉ chiếm 25% thành viên các khóa khuyến nông về chăn nuôi và 10% các khóa khuyến nông về trồng trọt. Phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo; họ thường xuyên gặp khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định trong hộ gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một loại công việc. Phụ nữ có học vấn th