Thanh niên là một lực lượng xã hội đặc thù, đóng vai trò quan trọng trong sự vận
động và phát triển của xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng sự thành - bại,
thịnh - suy của mỗi dân tộc phần lớn đều phụ thuộc vào thanh niên. Chính vì vậy việc
giáo dục, đào tạo bồi dưỡng thế hệ thanh niên là một việc làm thường xuyên và cần
thiết.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo đã và đang mang lại những kết quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Với những thành tựu đó đã tạo điều kiện cho thanh niên học tập, giao
lưu với các nước, đặc biệt là các nước có nền khoa học - công nghệ tiên tiến. Từ đó giúp
cho thanh niên tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu, có cơ hội tiếp thu những tinh
hoa văn hoá của nhân loại. Ngoài ra, chính sự năng động của cơ chế thị trường đã tôi
luyện cho thanh niên có được bản lĩnh đáng quý: nhạy bén, quyết đoán, thích khám phá
cái mới, vươn lên để tự khẳng định mình. Thế nhưng bên cạnh những thành tựu đạt
được đã nảy sinh những hạn chế nhất định do cơ chế thị trường mang lại, đó là sự xuất
hiện đến mức báo động các hiện tượng phản đạo đức, phi nhân tính trong đời sống xã
hội. Chính lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, thói ích kỷ, buông thả, phai mờ lý
tưởng, bất chấp đạo lý đang từng ngày, từng giờ làm xói mòn, băng hoại những nét
đẹp văn hoá, đặc biệt là những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Mặc dù Đảng ta
có nhiều quan điểm, đường lối nhằm kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền
thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho mọi tầng lớp nhân dân nói chung, cho thanh
niên nói riêng, thế nhưng việc cụ thể hoá các quan điểm, đường lối ấy của đảng ở một
số nơi làm chưa tốt.
84 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3178 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giáo dục đạo đức mới cho thanh niên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giáo dục đạo đức mới cho thanh niên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là một lực lượng xã hội đặc thù, đóng vai trò quan trọng trong sự vận
động và phát triển của xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng sự thành - bại,
thịnh - suy của mỗi dân tộc phần lớn đều phụ thuộc vào thanh niên. Chính vì vậy việc
giáo dục, đào tạo bồi dưỡng thế hệ thanh niên là một việc làm thường xuyên và cần
thiết.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo đã và đang mang lại những kết quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Với những thành tựu đó đã tạo điều kiện cho thanh niên học tập, giao
lưu với các nước, đặc biệt là các nước có nền khoa học - công nghệ tiên tiến. Từ đó giúp
cho thanh niên tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu, có cơ hội tiếp thu những tinh
hoa văn hoá của nhân loại. Ngoài ra, chính sự năng động của cơ chế thị trường đã tôi
luyện cho thanh niên có được bản lĩnh đáng quý: nhạy bén, quyết đoán, thích khám phá
cái mới, vươn lên để tự khẳng định mình. Thế nhưng bên cạnh những thành tựu đạt
được đã nảy sinh những hạn chế nhất định do cơ chế thị trường mang lại, đó là sự xuất
hiện đến mức báo động các hiện tượng phản đạo đức, phi nhân tính trong đời sống xã
hội. Chính lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, thói ích kỷ, buông thả, phai mờ lý
tưởng, bất chấp đạo lý … đang từng ngày, từng giờ làm xói mòn, băng hoại những nét
đẹp văn hoá, đặc biệt là những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Mặc dù Đảng ta
có nhiều quan điểm, đường lối nhằm kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền
thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho mọi tầng lớp nhân dân nói chung, cho thanh
niên nói riêng, thế nhưng việc cụ thể hoá các quan điểm, đường lối ấy của đảng ở một
số nơi làm chưa tốt.
Ở Bạc Liêu, mặc dù các chủ thể giáo dục đã có nhiều cố gắng trong quá trình
giáo dục các giá trị đạo đức cho thanh niên, thế nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau
đã làm cho hiệu quả giáo dục chưa cao, thậm chí ở một số nơi cấp ủy Đảng, chính
quyền và tổ chức Đoàn còn xem nhẹ hoặc chưa thấy rõ tầm quan trọng của việc giáo
dục đạo đức cho thanh niên.
Trước thực trạng ấy, việc giáo dục đạo đức mới cho thanh niên nói chung, cho
thanh niên Bạc Liêu hiện nay nói riêng trên cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc như tinh thần đại hội lần thứ X của Đảng xác định:
Xây dựng và hoàn thiện các giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo
vệ và phát huy những bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá
hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong
thanh niên học sinh đặc biệt là lý tưởng sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản
lĩnh văn hoá con người Việt Nam [9, tr.106].
đang là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng đạo
đức mới nói chung, cho thanh niên nói riêng đã được Đảng ta và nhiều nhà khoa học
bàn đến. Đề cương văn hoá Việt Nam (1943) Đảng ta đã đề cập đến vấn đề kế thừa giá
trị văn hoá truyền thống dân tộc để xây dựng nền văn hoá Việt Nam với nội dung “dân
tộc - khoa học - đại chúng”; Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam (1980)
của Giáo sư Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xã hội,); Về giá trị tinh thần truyền thống
(1993) Nxb thông tin lý luận, Hà Nội; Văn hoá dân tộc trong quá trình mở cửa ở nước
ta hiện nay. (Khoa Văn hoá Xã hội chủ nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh,
Nxb CTQG, Hà Nội năm 1995; “Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá
trị” chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX 07 - 04, Hà Nội năm 1995;
“Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay” của
Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Triết học, số 6,1996); Nghị quyết Trung ương 5 Ban chấp
hành trung ương khoá VIII (1998) với nội dung: “Xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”; “Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức
sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc” của tác giả Nguyễn Văn Huyên
(Tạp chí Triết học, số 4, 1998); “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục,
rèn luyện trong nền kinh tế thị trường” của Hoàng Trung (Tạp chí Triết học 5, 1998)…
Một số chuyên khảo tiêu biểu đi sâu nghiên cứu nhằm xác định các giá trị đạo
đức truyền thống làm cơ sở cho việc xây dựng đời sống văn hoá đặc biệt là đời sống văn
hoá và con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới: “Giáo dục đạo đức với sự hình thành
và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Trần Sĩ Phán
(luận án Tiến sĩ, 1999); “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới
cho thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Quế (luận văn thạc sĩ, 2000);
“Giá trị đạo đức và biểu hiện của nó trong đời sống xã hội”của Mai Xuân Lợi, (tạp chí
Triết học số 3, 2001); “Vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam
hiện nay”của Doãn Thị Chín (luận văn thạc sĩ, 2004); “Đạo đức mới - đạo đức cách
mạng từ các cách tiếp cận khác nhau” của Trịnh Duy Huy (tạp chí triết học số 1,2006);
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về thế hệ trẻ và giáo dục thế hệ trẻ” của Thái Thanh Thuỷ
(thông tin công tác Trường chính trị, số 1, 2006); “Toàn cầu hoá “nguy cơ tha hoá” và
vấn đề định hướng giá trị văn hoá tinh thần” của Đặng Hữu Toàn (tạp chí triết học, số 5,
2006); “Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta
hiện nay”của Nguyễn Văn Phúc (tạp chí triết học, số 11, 2006); “Nhân ái - một truyền
thống cần kế thừa và phát huy trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay” của Võ
Văn Thắng (tạp chí triết học, số 7, 2007); “Một số giá trị đạo đức Việt Nam từ truyền
thống đến Hồ Chí Minh” (Sách học tập đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 2007); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của thanh niên đối với sự
nghiệp cách mạng” của Đào Thị Tùng (thông tin công tác Trường chính trị, số 2, 2007)...
Nghiên cứu tác động của đạo đức trong việc rèn luyện và phát triển nhân cách
nói chung, thanh niên nói riêng, trên các tạp chí đã có một số tác giả đề cập: “Về tính
quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới”của Nguyễn Văn Phúc
(tạp chí Triết học, số 3, 2007); “Tác động của toàn cầu hoá đến truyền thống cần cù,
tiết kiệm của dân tộc Việt Nam” của tác giả Mai Thị Quý (Tạp chí Triết học, số 5,
2007); …
Như vậy việc kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng
đạo đức mới ở nước ta hiện nay đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Tuy nhiên, vấn đề phát huy giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng đạo đức mới nói
chung, đạo đức mới cho thanh niên nói riêng là vấn đề đang có biến đổi phức tạp, vì thế
cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
Vì vậy tác giả chọn đề tài: “Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo
đức mới cho Thanh niên Bạc Liêu hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Qua thực tế tỉnh Bạc Liêu, phân tích thực trạng phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên, từ đó đề ra phương
hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong
việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên ở Bạc Liêu hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn tập trung:
- Làm rõ vai trò của giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức
mới cho thanh niên Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng việc phát huy những giá trị đạo đức truyền thống trong
việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên Bạc Liêu trong giai đoạn hiện nay và những
vấn đề đang đặt ra.
- Đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy các giá trị
đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên Bạc Liêu hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đạo đức của thanh niên và việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh
niên Bạc Liêu hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm cả mặt tích cực và hạn chế,
trong luận văn này tác giả tập trung nhiều hơn đến mặt tích cực cần được kế thừa và
phát huy trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên Bạc Liêu hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn này dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo đức và đạo đức
thanh niên, đồng thời kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các công trình nghiên
cứu khoa học có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp giữa phương pháp lịch sử và logic, phân tích
và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, thống kê...để
thực hiện mục đích mà đề tài nghiên cứu.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích và làm rõ thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây
dựng đạo đức mới cho thanh niên ở Bạc Liêu hiện nay.
- Đề ra phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo đức
truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên ở Bạc Liêu hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 5 tiết.
Chương 1
GIÁ TRị ĐạO ĐứC TRUYềN THốNG
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CHO
THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
CỦA THANH NIÊN
1.1.1 . Giá trị, giá trị đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống
“Giá trị” là một trong những phạm trù cơ bản có liên quan đến đời sống con
người, đến thực tiễn xã hội: “Giá trị là phạm trù người. Chỉ trong con người xã hội mới
có cái gọi là giá trị. Trong quá trình “chiếm hữu” để trưởng thành và để tự vượt lên
mình giữa con người với ngoại giới, giữa con người với con người, trong xã hội xuất
hiện khái niệm giá trị” [14, tr.8 - 11]. Giá trị được đề cập và nghiên cứu trong rất nhiều
lĩnh vực khoa học: đạo đức học, tâm lý học, xã hội học, chính trị học, kinh tế học, triết
học… Tuy nhiên trong mỗi lĩnh vực khác nhau, khái niệm về giá trị có thể mang những
nội dung khác nhau.
Ngay từ thời cổ đại, gắn liền với triết học, con người đã có những hiểu biết ban
đầu sơ khai về “giá trị”, “giá trị học”. Mãi đến cuối thế kỷ XIX giá trị học mới tách
riêng thành một lĩnh vực khoa học độc lập và từ đó thuật ngữ giá trị được dùng để chỉ
một khái niệm khoa học.
Trong lĩnh vực kinh tế học, phạm trù giá trị gắn liền giá trị hàng hoá, giá cả và
sản xuất hàng hoá và phía sau nó là sức lao động, giá trị lao động của người làm ra hàng
hoá. Theo quan điểm kinh tế, giá trị kinh tế là sức mạnh của sản phẩm này khống chế
những sản phẩm khác thông qua trao đổi, giá trị của một vật phẩm thể hiện ở tính có ích
của nó, nghĩa là vật phẩm đó có khả năng đáp ứng thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người. Do vậy trong phân tích kinh tế thì giá trị là vị trí tương đối của hàng hoá trong
trật tự ưu tiên, vị trí của nó càng cao thì giá trị của nó càng lớn .
Trong lĩnh vực triết học, khi đề cập đến phạm trù giá trị có nhiều quan điểm khác
nhau. Những người theo chủ nghĩa tiên nghiệm (duy tâm khách quan) như Kant,
M.SheLer, N.Gartman … coi giá trị là sự tồn tại của những bản chất tiên nghiệm, những
chuẩn mực lý tưởng tồn tại bên ngoài sự vật không phụ thuôc vào nhu cầu và ham muốn
của con người. Trái lại, chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi giá trị là hiện tượng của ý thức,
là biểu tượng của thái độ chủ quan của con người đối với khách thể mà người đó đang
đánh giá. Những người theo thuyết tự nhiên chủ nghĩa lại coi giá trị là biểu hiện những
nhu cầu tự nhiên của con người, từ đó làm nảy sinh các quan điểm xã hội, kinh tế và
thực dụng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử, tính nhận
thức được và tính thực tiễn của giá trị và coi giá trị xã hội là những hiện tượng xã hội
đặc thù, giá trị không phải là những cái tiên nghiệm, thần bí, có từ hư vô mà mọi giá trị
đều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của quần chúng và khi nói đến giá trị bao giờ
cũng nói đến mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể. Con người có khả năng nhận thức
được giá trị và thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm giá trị. Hay nói cách khác, thực tiễn
là tiêu chuẩn khách quan của giá trị.
Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về phạm trù giá trị, thế nhưng có thể khái
quát lại rằng giá trị có một số đặc điểm sau:
Một là, mỗi vật thể hay tư tưởng đều có những giá trị, nếu nó được con người
thừa nhận hoặc đặt cho nó một vị trí quan trọng trong đời sống của họ.
Hai là, giữa bản chất và quy luật của bản thân sự vật, hiện tượng có sự khác nhau
rất cơ bản với giá trị của sự vật, hiện tượng. Bản chất và quy luật của sự vật hiện tượng
tồn tại không phụ thuộc vào nhu cầu của con người, còn giá trị chỉ tồn tại trong mối liên
hệ với nhu cầu của con người. Vì vậy, tuỳ theo việc con người có hay không có nhu cầu
nào đó mà một sự vật hay hiện tượng đối với con người là có hay không có giá trị .
Ba là, giá trị luôn mang tính khách quan. Điều đó có nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại
hay mất đi một nhu cầu nào đó của con người không phải do ý thức mà do yêu cầu của
hoạt động, của thực tiễn trong đó con người sống và hoạt động.
Bốn là, trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của
chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự lựa chọn và
đánh giá của chủ thể .
Tóm lại, “nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện,
nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp;
là nói đến khả năng thôi thúc con người ta hành động và nỗ lực vươn tới” [3, tr.16 - 19].
Để phân loại giá trị, tuỳ theo mục đích tiếp cận mà các tác giả nêu lên những căn
cứ phân loại khác nhau về giá trị. Thế nhưng thông thường cách phân loại khá phổ biến
là chia giá trị thành hai loại: giá trị vật chất và giá trị tinh thần (cách phân chia này căn
cứ vào sự thoả mãn nhu cầu vật chất hay tinh thần của con người). Giá trị vật chất thể
hiện rõ nhất trong đời sống kinh tế - nơi gắn bó trực tiếp với tồn tại xã hội, quyết định
sự tồn tại của xã hội loài người, vì vậy giá trị vật chất cũng liên quan mật thiết với các
lĩnh vực chính trị, pháp quyền, thiết chế xã hội… còn giá trị tinh thần “vượt thoát” hiện
thực nhưng không phải xa rời hiện thực mà là nhằm vươn tới một xã hội nhân văn, xã
hội mà nhân loại tiến bộ đang mong tới.
Trong các giá trị vật chất, người ta thường đề cập đến giá trị sử dụng và giá trị
kinh tế.
Trong các giá trị tinh thần, người ta thường đề cập đến các loại giá trị như: giá trị
khoa học (giá trị nhận thức, cái chân lý), giá trị chính trị (cái chính nghĩa, cái cách
mạng), giá trị tôn giáo (sự thiêng liêng, sự thánh thiện, giá trị đạo đức (cái thiện, cái
ác)… tuy nhiên sự phân chia này chỉ mang tính tương đối. Trong phạm vi luận văn này
tác giả xin góp phần làm rõ thế nào là“giá trị đạo đức”?
Trong hệ thống các giá trị tinh thần của đời sống xã hội thì giá trị đạo đức là một
yếu tố vô cùng quan trọng, nó là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những
quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hoá hành vi của con người trên cơ sở tự
nguyện, tự giác .Vì vậy giá trị đạo đức được đánh giá là: “có ý nghĩa tích cực đối với
đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình, dư luận biểu dương. Giá trị đạo đức vì thế
có ý nghĩa thiết yếu đối với đời sống xã hội” [17, tr.51]. Theo Giáo sư Huỳnh Khái
Vinh: “giá trị đạo đức biểu hiện ở những chuẩn mực quy định mối quan hệ người -
người với giới tự nhiên và xã hội (gia đình, cộng đồng …) trên tinh thần yêu thương hay
thù hận, tôn trọng hay không tôn trọng, sự phát triển hay kìm hãm tài năng, tự do và
hạnh phúc” [63, tr.60].
Xét theo thời gian, giá trị đạo đức có thể phân thành giá trị đạo đức truyền thống
và giá trị đạo đức hiện đại. Giá trị đạo đức truyền thống có thể được hiểu là những
chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử được hình thành trong
cuộc sống và có ý nghĩa tích cực, được lặp đi, lặp lại nhiều lần trong lịch sử, nhằm điều
chỉnh và chuẩn hoá hành vi của con người.
Mỗi dân tộc đều có những giá trị đạo đức truyền thống của mình. Là một bộ phận
trong hệ giá trị tinh thần của của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền thống liên tục
nảy sinh, phát triển trong suốt chiều dài của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc,
nó được lưu truyền, chắt lọc, kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác và chiếm vị trí cốt
lõi trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc ta.
Sớm xác định được vai trò quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc đối với sự phát triển đất nước, nên nhân dân ta luôn giữ gìn và tôn trọng những giá
trị quý báu ấy và xem chúng như là những tiêu điểm để mọi người hướng tới, làm theo.
Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết:
Giá trị đạo đức truyền thống là những cái gì sừng sững, vững chắc, cao
vọi, tôn nghiêm như những ngọn núi, đời qua đời làm tiêu điểm để các tầng
lớp đồng bào theo đó mà gióng hướng mà không đi lạc, mà phân biệt chính
tà, phải trái, nên chăng, tốt xấu để mọi người xác định thái độ, hành tung của
mình [10, tr. 93].
1.1.2. Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội, cho nên những giá trị tinh thần và đạo đức, nhân cách của
người Việt Nam có nguồn gốc sâu xa là bắt nguồn từ những hoàn cảnh địa lý, môi
trường tự nhiên, lịch sử xã hội .
Việt Nam là một nước có nền sản xuất nông nghiệp lâu đời, đời sống người nông
dân quanh năm gặp nhiều khó khăn, vất vả, phần lớn phụ thuộc vào thiên nhiên. Mặt
khác, do nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Bắc và Đông Nam nên điều kiện tự
nhiên tương đối khắc nghiệt, mưa nắng thất thường, điều đó đã gây ra nhiều thiên tai,
hạn hán, dẫn đến mất mùa. Chính trong điều kiện khó khăn đó đã hình thành ở con
người Việt Nam những giá trị quý báu: sự gắn bó cộng đồng chặt chẽ, yêu thương đùm
bọc, giúp đỡ nhau … từ đó hình thành thói quen cần cù, tiết kiệm.
Việt Nam là đất nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên quý báu “rừng vàng, biển
bạc, đất phì nhiêu”; mặt khác, lại nằm ở đầu mối giao thông quốc tế, cho nên Việt Nam
thường xuyên là mục tiêu của các thế lực ngoại xâm và trong điều kiện thiên nhiên khắc
nghiệt, sự de doạ của ngoại xâm, để tồn tại và phát triển, người Việt Nam phải “chung
lưng đấu cật”, “sát cánh bên nhau” trong sản xuất và chiến đấu. Việc gắn đời sống của
cá nhân với cộng đồng cũng là để bảo vệ cuộc sống của mình. Do đó trong nấc thang
giá trị xã hội thì giá trị cộng đồng là được đánh giá cao, hay nói cách khác đề cao các
giá trị đạo đức là đặc điểm nổi bật trong đời sống của dân tộc Việt Nam.
Trong các chủ trương, đường lối của Đảng ta và nhiều công trình nghiên cứu của
các nhà khoa học Việt Nam đã thể hiện quan điểm của mình về các giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc. Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, giá trị đạo đức của dân tộc Việt
Nam bao gồm: “lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo, tinh
thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người” [17, tr.74], còn theo Giáo sư
Trần Văn Giàu, thì giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm: “yêu
nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa” [10, tr.94]. Trong
các văn kiện của Đảng ta, đặc biệt là Nghị quyết của bộ chính trị về một số định hướng
lớn trong công tác tư tưởng đã xác định: “Những giá trị văn hoá truyền thống bền vững c