Luận văn Giáo dục môi trường thông qua dạy học hóa học lớp 10, 11 ở trường phổ thông

Ngày nay, chúng ta đang sống trong một xã hội năng động, con người được tiếp cận với tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Khoa học công nghệ cũng vì nhu cầu vô hạn của con người mà ngày càng phát triển nhanh chóng. Cuộc sống con người nhờ đó mà trở nên văn minh hơn, hiện đại hơn, tiện nghi hơn . Tuy nhiên, bên cạnh sự tiến bộ ấy, chúng ta phải đối diện với những vấn đề lớn có tầm ảnh hưởng vô hạn đến cuộc sống con người: vấn đề tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, vấn đề rác thải công nghiệp, vấn đề khí hậu toàn cầu Với tất cả những yếu tố đó, thiết nghĩ, việc đưa giáo dục môi trường vào học đường là việc làm tối cần thiết. Phải dạy cho những lớp người trẻ trung, năng động, là lực lượng đông đảo trong xã hội Việt Nam kiến thức về môi trường, từ đó hình thành ý thức bảo vệ môi trường cho mọi người trong xã hội nói chung. - Chúng ta đang sống trong một đất nước có nền kinh tế đang phát triển và ngày càng phát triển nhanh chóng. Bên cạnh đó, giáo dục cũng từng bước thay đổi để ngày càng hiện đại hơn, phù hợp hơn và đáp ứng được nhu cầu của xã hội đề ra về vấn đề đào tạo con người, đào tạo nguồn nhân lực. Sự thích nghi của nền giáo dục Việt Nam thể hiện ở việc từng bước thay đổi nội dung chương trình, phương thức đào tạo, dựa trên cơ sở là sự thay đổi mục tiêu và yêu cầu của nền giáo dục. Với chương trình phổ thông nói chung và chương trình giáo khoa bậc trung học nói riêng, yêu cầu đặt ra là phải gắn liền việc học tập trên ghế nhà trường với thực tiễn.

pdf127 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2353 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giáo dục môi trường thông qua dạy học hóa học lớp 10, 11 ở trường phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Hồng Châu GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG THÔNG QUA DẠY HỌC HÓA HỌC LỚP 10, 11 Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học Hóa học Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TIẾN CÔNG Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2010 LỜI CẢM ƠN Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Tiến Công, người thầy đã tận tình hướng dẫn, động viên và hỗ trợ tôi rất nhiều trong suốt thời gian thực hiện đề tài. Tôi cũng xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Phó giáo sư -tiến sĩ Trịnh Văn Biều, người thầy đã dành thời gian quý báu của mình để hướng dẫn, góp ý cũng như cung cấp nhiều tài liệu quý giá giúp tôi thuận lợi hơn trong quá trình thực hiện luận văn. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến tất cả quý thầy cô đã từng giảng dạy lớp Cao học khóa 17 chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học hóa học, nhờ đó mà tôi đã tích lũy được những kinh nghiệm nghiên cứu vô cùng quý báu. Xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô và cán bộ phòng Khoa học công nghệ & Sau đại học đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong suốt quá trình học. Đồng thời, tác giả cũng xin cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ từ các đồng nghiệp và các em học sinh trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu này. Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, nguồn động lực chính để tôi có sức mạnh vượt qua mọi khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn. Dù đã rất cố gắng hoàn thành luận văn bằng tất cả lòng nhiệt tình và tâm huyết, song chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả mong nhận được sự góp ý chân thành từ quý thầy cô và đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn. Tác giả. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐHSP : đại học sư phạm GD&ĐT : giáo dục và đào tạo GD : giáo dục GDMT : giáo dục môi trường GV : giáo viên HS : học sinh THPT : trung học phổ thông TN : thực nghiệm ĐC : đối chứng MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài - Ngày nay, chúng ta đang sống trong một xã hội năng động, con người được tiếp cận với tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Khoa học công nghệ cũng vì nhu cầu vô hạn của con người mà ngày càng phát triển nhanh chóng. Cuộc sống con người nhờ đó mà trở nên văn minh hơn, hiện đại hơn, tiện nghi hơn . Tuy nhiên, bên cạnh sự tiến bộ ấy, chúng ta phải đối diện với những vấn đề lớn có tầm ảnh hưởng vô hạn đến cuộc sống con người: vấn đề tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, vấn đề rác thải công nghiệp, vấn đề khí hậu toàn cầu Với tất cả những yếu tố đó, thiết nghĩ, việc đưa giáo dục môi trường vào học đường là việc làm tối cần thiết. Phải dạy cho những lớp người trẻ trung, năng động, là lực lượng đông đảo trong xã hội Việt Nam kiến thức về môi trường, từ đó hình thành ý thức bảo vệ môi trường cho mọi người trong xã hội nói chung. - Chúng ta đang sống trong một đất nước có nền kinh tế đang phát triển và ngày càng phát triển nhanh chóng. Bên cạnh đó, giáo dục cũng từng bước thay đổi để ngày càng hiện đại hơn, phù hợp hơn và đáp ứng được nhu cầu của xã hội đề ra về vấn đề đào tạo con người, đào tạo nguồn nhân lực. Sự thích nghi của nền giáo dục Việt Nam thể hiện ở việc từng bước thay đổi nội dung chương trình, phương thức đào tạo, dựa trên cơ sở là sự thay đổi mục tiêu và yêu cầu của nền giáo dục. Với chương trình phổ thông nói chung và chương trình giáo khoa bậc trung học nói riêng, yêu cầu đặt ra là phải gắn liền việc học tập trên ghế nhà trường với thực tiễn. Chỉ dạy những điều cần thiết nhất để học sinh dễ dàng tiếp cận xã hội, và dạy những gì bức thiết nhất trong xã hội mà học sinh sẽ sống, sẽ hòa nhập, hoạt động và phát triển. Vấn đề môi trường và những ảnh hưởng của môi trường đến cuộc sống loài người hiện đang là mối quan tâm lớn nhất của nhân loại. Đây là vấn đề đa dạng, ngày càng trầm trọng và rất khó giải quyết, một phần cũng do ý thức của con người chưa cao và hiểu biết của đa số người dân về vấn đề này còn hạn hẹp. Vì thế,việc đưa giáo dục môi trường vào trong giảng dạy hóa học ở trường phổ thông là cần thiết và đáp ứng được yêu cầu xã hội đặt ra cho giáo dục ngày nay. - Trong chương trình giáo khoa trung học phổ thông, có tất cả 11 môn, không kể môn năng khiếu và môn tự chọn. Theo nghiên cứu tài liệu và rút ra nhận xét của bản thân thì tôi nhận thấy môn Hóa là môn có rất nhiều cơ hội để lồng ghép nội dung giáo dục môi trường. Vì thế, sẽ rất thuận lợi cho việc giáo dục môi trường cho học sinh phổ thông khi kết hợp với môn hóa học. Từ tất cả những lý do tôi đã phân tích như trên, tôi quyết định chọn đề tài GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN HÓA HỌC LỚP 10, 11 Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này là đưa nội dung giáo dục môi trường vào bải giảng hóa học lớp 10, 11 Trung học phổ thông. Bằng cách này, bài giảng hóa học sẽ dễ dàng đạt được yêu cầu là có liên hệ thực tiễn, vừa giáo dục được ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh. Bên cạnh đó, bài giảng có kết hợp kiến thức giáo dục môi trường sẽ tăng hứng thú học tập cho học sinh, giúp tiết học bớt căng thẳng và học sinh sẽ yêu thích môn học hơn. 3. Nhiệm vụ của đề tài - Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục môi trường. - Nghiên cứu kiến thức cơ bản về môi trường và ô nhiễm môi trường - Điều tra thực trạng về việc giáo dục môi trường trong dạy học môn hóa học ở trường trung học phổ thông. - Nghiên cứu phương pháp và cách thức lồng nội dung giáo dục môi trường vào bài giảng hóa học. - Thiết kế giáo án hóa học lớp 10, 11 – chương trình nâng cao có lồng ghép nội dung giáo dục môi trường. - Thực nghiệm kiểm chứng việc giáo dục môi trường khi dạy học chương trình hóa học lớp 10, 11 – Nâng cao. - Rút ra những bài học kinh nghiệm, đề xuất và giải pháp. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: giáo dục môi trường thông qua dạy học hóa học lớp 10, 11ở trường trung học phổ thông. - Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học môn Hóa ở trường trung học phổ thông. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc tài liệu, phân tích, khái quát và tổng hợp kiến thức. Chọn lọc kiến thức về giáo dục môi trường có liên quan mật thiết đến hóa học làm cơ sở cho việc thực hiện đề tài. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: + Trò chuyện, phỏng vấn + Phương pháp chuyên gia + Điều tra bằng phiếu câu hỏi + Nghiên cứu sản phẩm hoạt động - Phương pháp xử lý thông tin + Tổng hợp – khái quát hóa + Xử lý số liệu điều tra 6. Phạm vi nghiên cứu - Nội dung: chương trình hóa học lớp 10, 11 – Nâng cao - Đối tượng thực nghiệm: học sinh Trung học phổ thông tại Thành phố Hồ Chí Minh 7. Những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu - Cung cấp những giáo án được thiết kế dựa trên cơ sở kết quả thăm dò ý kiến giáo viên. - Cung cấp những thông tin gần nhất về hóa học môi trường để dạy môn hóa đồng thời giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh. - Cung cấp những giá trị cụ thể về mức độ thành công của việc đưa giáo án lồng ghép giáo dục môi trường vào thực tiễn giảng dạy hóa học lớp 10, 11 ở trường phổ thông. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu Hiện nay, vấn đề môi trường đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu, chính vì thế, những đề tài nghiên cứu về môi trường và giáo dục môi trường cũng trở thành vấn đề “nóng” được mọi người đặc biệt quan tâm. Những khóa luận tốt nghiệp và luận văn thạc sỹ nghiên cứu về vấn đề giáo dục môi trường cũng không ít và đóng góp được những giá trị nhất định. Có thể điểm qua những khóa luận và luận văn như sau: 1. Nguyễn Thị Ngọc Hạnh (2004), Giáo dục môi trường thông qua một số bài giảng cụ thể ở trường phổ thông, khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 2. Cao Duy Chí Trung (2005), Thiết kế trang web phục vụ công tác giáo dục môi trường trong môn hóa ở trường THPT, khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 3. Nguyễn Trần Đông Quỳ (2007), Website hóa học môi trường qua chương trình hóa học lớp 10, khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 4. Nguyễn Thị Trang (2007), Thiết kế giáo án giáo dục môi trường thông qua bộ môn hóa lớp 12 – Ban Khoa học tự nhiên, khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM 5. Nguyễn Đặng Thu Hường (2009), Giáo dục môi trường thông qua dạy học hóa học lớp 10 THPT, khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 6. Trần Thị Thu Hảo (1997), Giáo dục bảo vệ môi trường qua môn hóa học ở trường phổ thông, luận văn Thạc sỹ khoa học giáo dục, ĐHSP Hà Nội. 7. Trần Thị Thanh Hương (1999), Giáo dục môi trường thông qua môn hóa học ở trường PTTH và THCS tại TP Hải Phòng, luận văn Thạc sỹ khoa học giáo dục, ĐHSP Hà Nội. Số lượng đóng góp tương đối nhiều, tuy nhiên, một số tác giả chỉ mới soạn thảo giáo án giáo dục môi trường thông qua môn hóa học, một số lại chỉ quan tân đến việc xây dựng ngân hàng tư liệu phục vụ tham khảo về vấn đề hóa học môi trường. Với luận văn thạc sỹ, tác giả nghiên cứu riêng cho tỉnh Hải Phòng, chưa bao quát được cho mọi địa phương, có thể tóm tắt một số điểm mà nhìn chung các tác giả chưa quan tâm, như sau: - Chưa thực nghiệm mức độ quan tâm của giáo viên về vấn đề lồng ghép giáo dục môi trường vào môn hóa học. - Chưa thực nghiệm kiến thức hóa học môi trường và ý thức bảo vệ môi trường của học sinh . - Chưa thiết kế được giáo án cho những bài có khả năng thực hiện cao, đánh giá qua việc thăm dò ý kiến giáo viên. Chỉ thiết kế theo ý kiến chủ quan. - Ít có luận văn tiến hành thực nghiệm những giáo án đã thiết kế để kiểm tra khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh, kiểm tra ảnh hưởng của việc lồng ghép giáo dục môi trường với vấn đề tăng hứng thú và niềm say mê hóa học và môi trường. 1.2. Môi trường và hoá học môi trường 1.2.1. Kiến thức cơ sở về môi trường 1.2.1.1. Khái niệm môi trường Hiện nay có nhiều khái niệm về môi trường: - Môi trường theo nghĩa khái quát: “Môi trường là một tập hợp tất cả các thành phần của thế giới vật chất bao quanh có khả năng tác động đến sự tồn tại và phát triển của mỗi sinh vật. Bất cứ một vật thể, một sự kiện nào cũng tồn tại và diễn biến trong một môi trường nhất định”. Tiếng Anh môi trường là “environment”, tiếng Pháp là “environnement” đều có nghĩa là “cái bao quanh”, tiếng Trung Quốc gọi môi trường là “hoàn cảnh” cũng có nghĩa tương tự. - Môi trường nhân văn – môi trường sống của con người hay còn gọi là môi sinh (living environment): là tổng hợp các điều kiện vật lý, hóa học, sinh học, kinh tế xã hội bao quanh và có ảnh hưởng tới sự sống và phát triển của từng cá nhân và cả cộng đồng. Nhìn rộng hơn, môi trường sống của con người bao gồm cả vũ trụ bao la, trong đó hệ Mặt Trời và Trái Đất là bộ phận có ảnh hưởng trực tiếp và rõ nét nhất. Trong môi trường này luôn luôn tồn tại sự tương tác lẫn nhau giữa các thành phần vô sinh và hữu sinh. Cấu trúc của môi trường tự nhiên gồm hai thành phần cơ bản: môi trường vật lý và môi trường sinh vật. - Môi trường vật lý (physical environment): Môi trường vật lý là thành phần vô sinh của môi trường tự nhiên, bao gồm khí quyển, thạch quyển, sinh quyển. Khí quyển (atmosphere): còn được hiểu là môi trường không khí, là lớp khí bao quanh Trái Đất, chủ yếu ở tầng đối lưu, cách mặt đất từ 10 – 12 km. Theo chiều cao của tầng này, nhiệt độ, áp suất giảm dần và nồng độ không khí loãng dần. Khí quyển đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì sự sống của con người, sinh vật và quyết định đến tính chất khí hậu, thời tiết của Trái Đất. Thủy quyển (hydrosphere): hay còn gọi là môi trường nước là phần nước của Trái Đất, bao gồm đại dương, biển, sông hồ, ao, suối, nước ngầm, băng tuyết, hơi nước trong đất và trong không khí. Thủy quyển đóng vai trò không thể thiếu được trong việc duy trì cuộc sống con người, sinh vật, cân bằng khí hậu toàn cầu, và phát triển các ngành kinh tế. Thạch quyển (lithosphere): hoặc địa quyển bao gồm lớp vỏ Trái Đất. Tính chất vật lý, thành phần hóa học của địa quyển ảnh hưởng quan trọng đến cuộc sống con người, sự phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, giao thông, vật tải, đô thị, cảnh quan và tính đa dạng sinh học trên Trái Đất. Sinh quyển (biosphere): còn gọi là môi trường sinh học là thành phần của môi trường vật lý có tồn tại sự sống. Sinh quyển bao gồm phần lớn thủy quyển (đáy đại dương), lớp dưới của khí quyển, lớp trên của địa quyển. Như vậy sinh quyển gắn liền với các thành phần của môi trường và chịu sự tác động trực tiếp của sự biến hóa tính chất vật lý và hóa học của các thành phần này. Đặc trưng cho sự hoạt động sinh quyển là các chu trình trao đổi vật chất và năng lượng. - Môi trường sinh vật (biological environment): Môi trường sinh vật là thành phần hữu sinh của môi trường. Môi trường sinh vật bao gồm các hệ sinh thái, quần thể động vật và thực vật. Môi trường sinh vật tồn tại và phát triển trên cơ sở tiến hóa của môi trường vật lý. Các thành phần của môi trường không tồn tại ở trạng thái tĩnh mà luôn luôn có sự chuyển hóa trong tự nhiên theo chu trình Sinh - Địa – Hóa và luôn luôn ở trạng thái cân bằng động. Chu trình phổ biến trong tự nhiên là chu trình Sinh - Địa – Hóa như chu trình cacbon, chu trình nitơ, chu trình photpho, chu trình lưu huỳnh, là các chu trình chuyển hóa các nguyên tố hóa học từ dạng vô sinh (đất, nước, không khí) vào dạng hữu sinh (sinh vật) và ngược lại. Một khi các chu trình này không còn giữ ở trạng thái cân bằng thì tạo ra diễn biến bất thường, gây tác động xấu cho sự sống của con người và sinh vật ở một khu vực hay ở quy mô toàn cầu. 1.2.1.2. Khái niệm sinh thái môi trường - Sinh thái (ecology) Sinh thái là mối quan hệ tương hỗ giữa một cơ thể sống hoặc một quần thể sinh vật với các yếu tố môi trường xung quanh. Sinh thái học là ngành khoa học nghiên cứu các mối tương tác này. Như vậy sinh thái học là một trong các ngành của khoa học môi trường, giúp ta hiểu thêm về bản chất của môi trường và tác động tương hỗ giữa các yếu tố tự nhiên với hoạt động của con người và sinh vật. - Hệ sinh thái (ecosystem). Hệ sinh thái là đơn vị tự nhiên bao gồm các quần xã sinh vật (thực vật, động vật bậc thấp bậc cao, vi sinh vật) và môi trường trong đó chúng tồn tại và phát triển (sinh cảnh sinh vật và sinh cảnh có mối liên quan chặt chẽ với nhau, tương tác hỗ trợ nhau, nhưng giữa chúng còn tồn tại một mức độc lập tương đối, cùng sống trong một số điều kiện ngoại cảnh nhất định – mà điều kiện ngoại cảnh đó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự tồn tại, phát triển của quần thể sinh vật sống. môi trường sinh vật trong hệ sinh thái bao gồm các sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ và sinh vật phân hủy liên hệ với nhau qua các dây chuyền thực phẩm, theo đó năng lượng từ các chất dinh dưỡng được truyền từ sinh vật này đến sinh vật khác. Ví dụ: hệ sinh thái đồng cỏ: cỏ mọc nhờ có đạm, dinh dưỡng, xác thực vật trong đất. Cỏ lại cung cấp thức ăn cho động vật ăn cỏ. Động vật ăn cỏ lại là thức ăn cho động vật ăn thịt 1, động vật ăn thịt 1 lại là thức ăn cho động vật ăn thịt 2, Năng lượng sinh học cũng được sinh ra trong quá trình đó và khả năng trao đổi cung cấp cho nhau. Trong tự nhiên tồn tại nhiều hệ sinh thái: + Hệ sinh thái cạn (hệ sinh thái đất, hệ sinh thái rừng, hệ sinh thái sa mạc) + Hệ sinh thái nước (hệ sinh thái biển, hệ sinh thái cửa sông, hệ sinh thái hồ, đầm). Các hệ sinh thái cũng còn có thể do con người tạo ra như các hệ sinh thái nông nghiệp, hệ sinh thái đô thị,Các hệ sinh thái có thể trải qua sự chọn lọc tự nhiên mà hình thành. Hệ sinh thái tự nhiên thì bền vững, vì nó tuân theo quy luật chọn lọc tự nhiên, hợp với thiên nhiên. Các hệ sinh thái nhân tạo thì kém bền vững. - Cân bằng sinh thái (ecological balance) Sự cân bằng sinh thái, hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm không chỉ là sự cân bằng giữa các loài, như sự cân bằng giữa sinh vật săn mồi và vật mồi, hay giữa vật chủ và vật ký sinh mà còn là sự cân bằng của chu trình các chất dinh dưỡng chủ yếu và những dạng chuyển hóa năng lượng trong một hệ sinh thái nữa. Một hệ sinh thái được coi là đạt cân bằng bền khi tất cả các mặt hoạt động của hệ đó đều ở trạng thái cân bằng. Do vậy ở đây sẽ phải có một sự cân bằng giữa sản xuất, tiêu thụ, và phân hủy, cũng như sự tồn tại giữa các loài có trong hệ đó. Hiểu biết về trạng thái cân bằng sẽ giúp chúng ta hiểu được các quá trình điều chỉnh diễn ra trong các cộng đồng sinh học. Các hệ sinh thái có khả năng thực hiện một sự điều chỉnh nhất định trong giới hạn xác định, nhưng nếu vượt quá giới hạn này thì chúng không còn có khả năng hoạt động bình thường nữa, lúc đó chúng có thể sẽ phải chịu những sự thay đổi nào đó, hoặc bị tổn thương hay bị phá hoại. Việc chặt phá các khu rừng nhiệt đới để chuyển thành đất nông nghiệp là một ví dụ điển hình về sự chuyển đổi bất lợi do con người tạo nên. Sự tàn phá rừng không những phá hoại vĩnh viễn một hệ sinh thái giàu và và quí giá, mà thậm chí còn không thể tạo ra được vùng đất canh tác màu mỡ, bởi vì lớp đất mỏng có khả năng trao đổi chất cao của các khu rừng nhiệt đới thường lại không cho năng suất cao đối với các sản phẩm nông nghiệp và mỗi khi đã bị mất đi lớp phủ thực vật thì sẽ bị bạc màu do xói mòn và lũ lụt. Do vậy, việc quản lý hệ sinh thái nhằm mục đích duy trì một trạng thái cân bằng tự nhiên hay nhân tạo, trong đó sản phẩm cuối cùng là có lợi cho con người và những sự mất cân bằng có thể kiểm soát được. 1.2.2. Kiến thức cơ sở về hóa học môi trường 1.2.2.1. Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường Môi trường bị ô nhiễm do những tác nhân như chất, hợp chất hoặc hỗn hợp có tác dụng biến môi trường từ trong sạch trở nên độc hại. Có thể liệt kê những tác nhân đó như sau: - Rác, phế thải rắn. - Hóa chất, chất thải dệt, nhuộm, chế biến thực phẩm, . - Khí núi lửa, khí thải nhà máy, khói xe, khói bếp, lò gạch.. ( SO2, CO2, NO2, CO) - Kim loại nặng (chì, đồng, thủy ngân..) Ngoài những tác nhân trên, môi trường còn có thể bị ô nhiễm bỏi tiếng ồn quá mức cho phép hoặc các chất phóng xạ do ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp. 1.1.1.1. Ô nhiễm môi trường khí (khí quyển) Ô nhiễm môi trường khí là sự làm biến đổi toàn thể hay một phần khí quyển theo hướng tiêu cực bởi các chất gây tác hại được gọi là chất gây ô nhiễm. Vậy gây ô nhiễm là khái niệm chỉ các phần tử bị thải vào không khí có thể là do tự nhiên hoặc do kết quả hoạt động của con người (ví dụ như khí CO2). - Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí  Ô nhiễm do thiên tai gây ra: Rất nhiều các hiện tượng của thiên nhiên gây ra hoặc góp phần vào quá trình gây ô nhiễm không khí. Gió bão cuốn theo đất, cát gây ra lũ lụt. Núi lửa phun ra nham thạch cũng gây nên bụi và các khí thải như oxit của lưu huỳnh. Nước biển bốc hơi cùng với sóng biển tung bọt mang theo bụi muối biển lan truyền vào không khí. Xác động vật, thực vật chết trong quá trình phân hủy cũng tạo ra các chất gây ô nhiễm. Song nguồn ô nhiễm này không phải là nguyên nhân chính.  Ô nhiễm trong không khí do các hoạt động do con người gây nên:  Hoạt động sản xuất công nghiệp: ống khói của các nhà máy, đặc biệt là nhà máy hóa chất, nhiệt điện đã thải vào không khí một lượng lớn khí thải như CO2, SO2 Hàng năm sản xuất công nghiệp đã tiêu tốn 37% năng lượng tiêu thụ của toàn thế giới và thải ra khoảng 50% lượng khí CO2 và các loại khí nhà kính khác.  Hoạt động giao thông vận tải: từ ống xả của các phương tiện giao thông vận tải, một lượng lớn các khí độc hại đã bị thải vào khí quyển. Người ta tính rằng một ô tô du lịch trong một ngày đêm thải trung bình 1 kg khí CO, NO, andehit, SO2, chất gây ung thư, ankyl, chì. Một máy bay phản lực thải ra lượng chất thải khủng khiếp hơn gấp chừng 100 lần chiếc ôtô du lịch kể trên.  Sinh hoạt và hoạt động khác của con người gây ra ô nhiễm không khí: trên thế giới số người sử dụng than, củi, gas, trong sinh hoạt và sưởi ấm phần lớn ở các nước đang phát triển và các vùng xa xôi. Khí thải do quá trình này gây ra cũng góp phần vào sự trầm trọng t
Luận văn liên quan