Một doanh nghiệp dù được thành lập với mục đích hoạt động nào đều hướng tới
mục tiêu tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần vào sự phát triển
kinh tế chung của đất nước thông qua việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của quá
trình sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, sự cạnh tranh
gay gắt khiến cho vấn đề này càng trở nên cấp thiết. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và
phát triển, vươn lên phải sản xuất kinh doanh có hiệu quả và không ngừng nâng cao hiệu
quả để không những tạo ra thu nhập cho mình mà còn phải chiến thắng trong cuộc cạnh
tranh cho sự tồn tại và phát triển.
Chính vì vậy, việc hạch toán tiền lương trong các doanh nghiệp hiện nay là rất cần
thiết. Đối với doanh nghiệp thì tiền lương là một chi phí không nhỏ trong giá thành sản
phẩm tạo ra, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối
với người lao động thì tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu để đảm bảo cuộc sống và tái
sản xuất sức lao động. Chính vì vậy, cần phải có một chế độ tiền lương luôn đổi mới cho
phù hợp với điều kiện kinh tế, để kích thích lao động và góp phần quản lí đánh giá hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhận rõ tầm quan trọng của vấn đề, cùng với sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của cô
giáo Nguyễn Văn Hậu và các cán bộ của Phòng kế toán, em chọn đề tài: “Hạch toán
tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty cổ phần May Hồ Gươm”.
Nội dung nghiên cứu gồm 3 phần:
Ph ần 1: Những vấn đ ề lí luận c ơ b ản về hạch toán tiền l ương và các kho ản trích theo l ương.
Phần 2: Thực trạng hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty
cổ phần May Hồ Gươm.
Phần 3: Phương hướng hoàn thiện công tác tổ chức kế toán tiền lương và các khoản
trích theo lương tại Công ty cổ phần May Hồ Gươm.
101 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2131 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty cổ phần May Hồ Gươm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hạch toán tiền lương và các khoản
trích theo lương tại Công ty cổ phần
May Hồ Gươm
Lời mở đầu
Một doanh nghiệp dù được thành lập với mục đích hoạt động nào đều hướng tới
mục tiêu tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần vào sự phát triển
kinh tế chung của đất nước…thông qua việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của quá
trình sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, sự cạnh tranh
gay gắt khiến cho vấn đề này càng trở nên cấp thiết. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và
phát triển, vươn lên phải sản xuất kinh doanh có hiệu quả và không ngừng nâng cao hiệu
quả để không những tạo ra thu nhập cho mình mà còn phải chiến thắng trong cuộc cạnh
tranh cho sự tồn tại và phát triển.
Chính vì vậy, việc hạch toán tiền lương trong các doanh nghiệp hiện nay là rất cần
thiết. Đối với doanh nghiệp thì tiền lương là một chi phí không nhỏ trong giá thành sản
phẩm tạo ra, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối
với người lao động thì tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu để đảm bảo cuộc sống và tái
sản xuất sức lao động. Chính vì vậy, cần phải có một chế độ tiền lương luôn đổi mới cho
phù hợp với điều kiện kinh tế, để kích thích lao động và góp phần quản lí đánh giá hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhận rõ tầm quan trọng của vấn đề, cùng với sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của cô
giáo Nguyễn Văn Hậu và các cán bộ của Phòng kế toán, em chọn đề tài: “Hạch toán
tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty cổ phần May Hồ Gươm”.
Nội dung nghiên cứu gồm 3 phần:
Phần 1: Những vấn đề lí luận cơ bản về hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
Phần 2: Thực trạng hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty
cổ phần May Hồ Gươm.
Phần 3: Phương hướng hoàn thiện công tác tổ chức kế toán tiền lương và các khoản
trích theo lương tại Công ty cổ phần May Hồ Gươm.
CHƯƠNG i
Lý luận chung về công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong
doanh nghiệp
I- Khái niệmvà đặc điểm của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
1.1 Khái niệm tiền lương:
Trong lịch sử tồn tạivà phát triểncủa xã hội, lao động là hoạt động cơ bản nhất,
lao động gấưn liền với sự tồn tại và phát triển của con người. Có thể định nghĩa lao
động như sau:”Lao độnglà hoạt độngcó mục đích có ý thức của con người nhằm tác
động vào giới tự nhiên, biến chúng thành những vật có ích đối với đời sống của
mình”.
Theo định nghĩa trên thì quá trình lao động chính là quá trình sử dụng sức lao
động tức là sử dụng toàn bộ thể lực và trí tuệ tồn tại trong cơ thể sống của con người
mà con người có thể vận dụng trong quá trình sản xuất. Thực chất sức lao động mới
chỉ là khả năng của lao động mà thôi.
Lao động có một vai trò quan trọng đối với xã hội loài người. Loài người ngay
từ khi xuất hiện để tồn tại được trước hết phải tiêu dùng một lượng của cải vật chất
nhất định để thoả mãn những nhu cầu sinh học cơ bản như ăn, mặc, ở…Muốn có được
của cảivật chất này không còn cách nào khác là phải lao động và chính nhờ lao
độngcon người mới khám phá ra thế giới xung quanh nhận biết được các quy luật của
tự nhiên và chinh phục tự nhiên. Đứng trên góc độ toàn xã hội thì lao động, tự liệu lao
động và đối tượng là ba yếu tố của nền sản xuất xã hội. Tong đó lao động là yếu tố
quan trọng mang tính chủ động, tích cực nhất, vai trò của lao động ngày càng tăng.
Nếu thiếu lao động thì hai nhân tố còn lại sẽ trở thành vô dụng. Hơn thế nữa lao động
là nguồn gốc của giá trị thặng dư-phần giá trị mới sinh ra là cơ sở cho việc tái sản xuất
mở rộng theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Như chúng ta đã biết, trong quá trình sản
xuất tư liệu sản xuất và đối tượng sản xuất chuyển hết giá trị sức lao động vào sản
xuất mà còn tạo ra thêm một phần giá trị mới nữa, phần giá trịmới này nếu nhìn ở góc
độ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì đố chính là lợi nhuận-mục tiêu hàng đầu
của doanh nghiệp.
Quá trình sản xuất diễn ra đòi hỏi phải tiêu dùng liên tục các yếu tố tư liệu lao
độnh, đối tượng lao động một cách thường xuyên. Mà các yếu tố này không phải là vô
cùng vô tận nên cần phải tái tạo lại, hay tái sản xuất các yếu tố này. Đối với tư liệu lao
động và đối tượng lao động thì tái tạo lại có nghĩa là mua sắm cái mới, nhưng sức lao
động thì khác.Súc lao động gắn liền với hoạt động sống của con người là thể lực, trí
lực con người, cho lên muốn tái tạo lại sức lao động cần phải thông qua hoat động
sống của con người, người tiêu dùng một lượng vật chất nhất địng. Phần vật chất này
do người sủ dụng lao động trả cho người lao động dưới hình thức hiện vật, hay giá trị
và được gọi là tiền lương.
Trong thời kỳ kinh tế tập trung, tiền lương được hiểu một cách thống nhất như
sau:” Về thực chất tiền lưong dưới chủ nghĩa xã hội là một phần thu nhập quốc dân,
biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, được nhà nước phân phối co kế hoạch cho công nhân
viên cho phù hợp với số lượng và chất lương lao động của mỗi người đã cống hiến.
Tiền lương phản ánh việc trả công nhân viên chức dựa theo nguyên tắc phân phối theo
lao động”. Quan niệm này đã bác bỏtền lưong là giá trị sức lao động. Bây giờ tiền
lương chỉ là một khái niệm thuộc phạm trù phân phối. Dưới chủ nghĩa xã hội việc
phân phối là do nhà nước lên kế hoạch.
ở nước ta quan niệm về tiền lương như vậy đã tồn tại một thời gian rất dài. Khi hệ
thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, để tồn tại đất nước ta đã phải tiến hành một cuộc cải
cách thật toàn diện trên mọi lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh vực tư tưởng. Cơ chế thị
trường buộc chúng ta phải có thay đổi lớn trong nhận thức, vị vậy quan niệm về tiền
lương cũng phải thay đổi về cơ bản. Để có được một nhận thức đúng về tiền lương,
phù hợp với cơ chế quản lý mới, khái niệm về tiền lưong phải đáp ứng một số yêu cầu
sau:
Coi sức lao động là hàng hoá của thị trường yếu tố sản xuất.
Tiền lương phải là tiền trả cho sức lao động, tức là giá cả của hàng hoá sức lao
động theo quản lý cung cầu, giá cả trên thị trường lao động.
Tiền lương là bộ phận cơ bản (hoặc duy nhất) trong thu nhập của người lao
động, động thời là một trong cac yếu tố chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Với ý nghĩa đó”tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá
của yếu tố sức lao động mà người sử dụng( nhà nước, doanh nghiệp..)phải trả cho
người cung ứng sức lao động tuân theo các nguyên tắc cầu, giá cả của thị trường và
pháp luật hiện hành của nhà nước”.
Như vậy bản chất của tiền lương chính là giá cả của sức lao động vì sức lao
động thực sự là một loại hàng hoá đặc biệt. Chính vì sức lao động là hàng hoá mà giá
cả của nó chịu sự chi phối của quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cung
cầu…
Tiền lương chịu sự chi phối của quy luật giá trị, tiền lương có thể cao hơn,bằng
hoặc thấp hơn giá trị sức lao động, mà con người bỏ ra trong quá trình lao động.
Tiền lương chịu sự chi phối của quy luật cung cầu: Nhu cầu về sức lao động
lớn thi người có nhu cầu về sử dụng sức lao động sẽ sẵn sàng trả lương cao hơn cho
người lao động để giữ chân họ tiếp tục cung cấp sức lao động cho mình chứ không
phải cho người khác. Ngược lại, nếu cung về sức lao động hơn cầu về sức lao động thì
đương nhiên người có nhu cầu sức lao động sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn lao động, họ
sẵn sàng từ chối người lao động mà yêu cầu giá lương cao để tìm người lao động khác
đang cần họ với tiền lương thấp hơn chất lượng lao động có thể còn tốt hơn.
Cùng với khái niệm tiền lương như trên là một loạt các khái niệm cùng với nó
như tiền lương danh nghĩa, tiền lương thực tế, tiền lương tối thiểu, tiền lương kinh tế,
chế độ tiền lương, hình thức tiền lương.
1.2 Đặc điểm cửa tiền lương.
Tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền với lao động, tiền tệ và nền sản
xuất hàng hoá.
Trong điều kiện tồn tại nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ, tiền lương là một yếu
tố chi phí sản xuất, kinh doanh cấu thành nên giá thành của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ.
Tiền lương là một đòn bẩy kinh tế quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, tăng năng suất lao động, có tác dụng động viên khuyến khích công nhân
viên chức phấn khởi, tích cực lao động, nâng cao hiệu quả công tác.
II. Yêu cầu và nhiêm vụ của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
2.1 Yêu cầu của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
Hiện nay trong chế chế độ lao động tiền lương có quan điểm chỉ đạo lâu dài là
thực hiện đúng quyền hạn, quyền lợi, nghĩa vụ của doanh nghiệp và người lao động
thực hiện sự bình đẳng giữa hai bên, tôn trọng quyền được làm việc và thôi việc của
người lao động. Trong các doanh nghiệp sản xuất ngày nay tổ chức tiền lương phải
tuân thủ các nguyên tắc sau:
+Nguyên tắc trả lương theo số lượng và số lượng lao động: Nguyên tắc này
nhằm khắc phục chủ nghĩa bình quân trong phân phối, mặt khác tạo cho người lao
động ý thức với kết quả lao động của mình.Số lượng và số lượng lao động được thể
hiện một cách tổng hợp ở kết quả sản xuất thông qua số lượng và số lượng sản phẩm
sản xuất ra hoặc khối lượng công việc được thực hiện.
+ Gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh và phù hợp với điều kiện kinh tế của
đất nước trong từng thời kỳ: Nếu chính sách tiền lương không giải quyết đúng đắn thì
không nhưng ảnh hưởng xấu đến sản xuất, đến tình hình phát triển kinh tế- xã hội mà
còn trở thành vấn đề chính trị không có lợi.
Để phân biệt và quy định mức độ phức tạp của công việc làm cơ sở tính trả
lương cho công nhân viên thì trong các doanh nghiệp hiện nay được nhà nước quy
định về tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật, thang lương và mức lương. Đó là cách trả lương
theo chất lượng lao đông. Còn việc trả lương theo số lượng lao động thực hiện bằng
cách sử dụng các hinhdf thức tiền lương. Việc kết hợp đúng đắn giữa chế độ lương
cấp bậc với các hình thức tiền lương tạo điều kiện quán triệt đầy đủ nguyên tắc phân
phối theo lao động.
2.2 Nhiệm vụ của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
Ghi chép, phản ánh,tổng hợp chính xác, đầy đủ, kịp thời về số lượng, chất
lượng, thời gian và kêt quả lao động.
Tính toán các khoản tiền lương, tiền thưởng, các khoản trợ cấp phải trả cho
người lao động và tình hình thanh toán các khoản đó cho người lao động.
Kiểm tra việc sử dụng lao động, việc chấp hành chính sách chế độ lao động,
iền lương, trợ cấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và việc sử dụng các quỹ tiền lương,
quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y tế.
Tính toán và phân bổ các khoản chi phí tiền lương, bảo hiểm xã hội và chi phí
sản xuất, kinh doanh theo từng đối tượng. Hướng dẫn và kiểm tra các bộ phận trong
doanh nghiệp thực hiện đúng chế độ ghi chép ban đầu về lao động, tiền lương, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, mở sổ, thẻ kế toán và hạch toán lao
động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo chế độ.
Lập báo cáo về lao động, tiền lương và các khoản trích theo lương, phân tích
tình hình sử dụng lao động, quỹ tiền lương, quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y tế đề
xuất biện pháp để khai thác có hiệu quả tiềm năng lao động, tăng năng xuất lao động,
ngăn ngừa nhưng vi phạm kỷ luật lao động, vi phạm chính sách chế độ lao động, tiền
lương và các khoản trích theo lương.
III- Các hình thức tiền lương, quỹ tiền lương và các khoản trích theo lương.
3.1 Trả lưong theo thời gian
Là tiền lương được xây dựng căn cứ vào thời gian công tac và trinh độ kỹ thuật
của công nhân. Tiền lương thời gian có thể tính theo tháng, theo ngày, theo giờ công
tác và gọi là tiền lương tháng, lương ngày, lương giờ. Lương tháng có nhược điểm vì
không phân biệt được người làm nhiều hay ít trong tháng nên không có tác dụng
khuyến khích tận dụng ngày công theo chế độ. Đơn vị thời gian trả lương càng ngắn
thì càng sát với mức độ hao phí lao động của mỗi người. Hiện nay trong các doanh
nghiệp áp dung trả lương theo thời gian chủ yếu là theo ngày. Theo hình thức này thì:
Lương phải trả = Lương làm việc x Đơn giá bình quân theo
công nhân viên thực tế thời gian
Ưu điểm của tiền lương trả theo thời gian: Đơn giản dễ tính toán, phản ánh
được trình độ kỹ thuật và điều kiện làm việc của người công nhân. Song nó có nhược
điểm cơ bản vì nó chưa gắn thu nhập mỗi người với kết quả lao động của mình. Hình
thức này chỉ áp dụng khi mà tiền lương sản phẩm không thể áp dụng được, trong
nhưng trường hợp công nhân lao động máy móc là chủ yếu hoặc những công việc
không thể tiến hành định mức một cách chặt chẽ và chính xác hoặc vì tính chất của
sản xuất nếu thực hiện trả công cho sản phẩm sẽ không bảo đảm được chất lượng sản
phẩm và không đem lại kết quả thiêt thực. Trong điều kiện nước ta hiện nay khi lao
động thủ công còn khá phổ biến, trình độ chuyên môn hoá sản xuất còn thấp thì cần
mở rộng hình thức trả lương theo sản phẩm nhưng khi sản xuất phát triển đến trình độ
cao, quá trình sản xuất được cơ giới hoá và tự động hoá thì hình thức trả lương theo
thời gian sẽ phổ biến.
Hình thức trả lương theo thời gian chia thành 2 hình thức như:
+ Lương thời gian giản đơn
+ Lương thời gian có thưởng
Tiền lương thời gian giản đơn:
Theo hình thức này, tiền lương của công nhân được xác định căn cứ vao múc
lương cấp bậc và thời gian làm việc thực tế. Hình thức này có nhược điểm cơ bản là
không xét đến thái độ lao động, đến hình thức sử dụng lao động, sử dụng nguyên vật
liệu, máy móc, thiết bị. Hình thức trả lương này mang tính chất bình quân nên trong
thực tế ít được áp dụng. Để khắc phục nhưng nhược điểm trên bên cạnh tiền lương trả
theo thời gian doanh nghiệp đã kết hợp với hình thức tiền lương khi đạt được những
chỉ tiêu về số lượng hoặc chất lượng đã qui định. Đó chính là hình thức tiền
lương theo thời gian giản đơn.
Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng
Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng được áp dụng chủ yếu đối với
công nhân phụ làm công việc phục vụnhư công nhân sửa chữa,điều chỉnh thiết
bị…Ngoài ra còn áp dụng đối với công nhân chính làm việc ở những khâu sản xuất có
trình độ cơ khí hoá cao, tự động hoá hoặc những công việc tuyệt đối phải đảm bảo
chất lượng. Cách tính lương theo hình thức này là lấy lương tính theo thời gian của
công nhân + tiền thưởng. Trong đó cách tính lương thời gian giản đơn được trình bày
ở trên.
Hình thức trả lương thời gian có thưởng có nhiều ưu điểm. Cách trả lương như
vậy không những phản ánh trình độ thành thạo và thời gian làm việc thực tế mà còn
gắn chặt với thành tích công tác của từng người thông qua các chỉ tiêu xét thưởng đã
đạt được. Vì vậy có khuyến khích người lao động quan tâm đén trách nhiêm và công
tác của mình.
3.2 Trả lương theo sản phẩm.
Là hình thức tiền lương tính theo khối lượng (số lượng) sản phẩm và công
việcđã hoàn thành đảm bảo yêu cầu chất lượng qui định và đơn giá tiền lương tính cho
một đơn vị sản phẩm, công việc đó, tiền lương sản phẩm phải trả tính bằng khối lượng
(số lượng) sản phẩm, công việc hoàn thành đủ tiêu chuẩn chất lượng nhân với (x) đơn
giá tiền lương sản phẩm.
Ưu điểm của hình thức này là:
+ Quán triệt đầy đủ nguyên tắc trả lương theo số lượng và chất lượng lao
động.Nó gắn việc trả lượng với kết quả sản xất của mỗi người.Do đó kích thích nâng
cao năng suất lao động.
+ Khuyến khích người lao động ra sức học tập văn hoá, khoa học, kỹ thuật,
nghiệp vụ để nâng cao trình độ lành nghề,ra sức phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật,
cải tiến phương pháp lao động, sử dụng tốt máy móc, thiết bị để nâng cao năng suất
lao động.
+ Góp phần thúc đẩy công tác quản lý doanh nghiệp nhất là quản lý lao động.
Hình thức tiền lương theo sản phẩm gồm các hình thức:
Tiền lương trả theo sản phẩm cá nhân trực tiếp, thời gian theo sản phẩm tập
thể, tiền lương theo sản phẩm cá nhân gián tiếp, tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến,
hình thức trả lương theo sản phẩm có thưởng, hình thức trả lương khoán.
3.2.1 Tiền lương trả theo sản phẩm cá nhân trực tiếp:
Theo hình thức này tiền lương của công nhân được xác định theo số lượng sản
phẩm sản xuất ra và đơn giá lương sản phẩm.
Lt = Q x Đg
Trong đó:
Lt: Là tiền lương theo sản phẩm cá nhân trực tiếp
Q: Số lượng sản phẩm hợp quy cách
Đg: Đơn giá lương sản phẩm một sản phẩm
Đơn giá lương sản phẩm là tiền lương trả cho một đơn vị sản phẩm hoàn thành
và được xác định căn cứ vào mức lương cấp bậc công việc và định mức thời gian hoặc
định mức số lượng cho công việc đó. Ngoài ra trong đơn giá còn được tính thêm tỷ lệ
khuyến khích trả lương sản phẩm hoặc phụ cấp khu vực( nếu có)
Công thức xác định:
ML X Đt(100+K1+K2)
ĐG =
100
Trong đó:
ML: mức lương giờ( ngày) của cấp bậc công việc.
Đt: Định mức thời gian đơn vị sản phẩm ( giờ hoặc ngày)
K1: Tỷ lệ khuyến khích trả lương sản phẩm do nhà nước quy định(%)
K2: Tỷ lệ phụ cấp khu vực ( nếu có) (%)
Hình thức này đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người công nhân. Nó được áp
dụng rộng rãi trong các xí nghiệp công nghiệp đối với những công nhân trực tiếp sản
xuất có thể định mức và hạch toán kết quả riêng cho từng người. Tuy nhiên hình thức
này có nhược điểm là người lao động quan tâm đến số lượng sản phẩm chứ không
quan tâm đến việc sử dụng tốt máy móc, tiết kiệm vật tư.
3.2.2 Tiền lương theo sản phẩm tập thể:
Tiền lương căn cứ vaof số lượng sản phẩm của cả tổ và đơn giá chung để tính
lương cho cả tổ sau đó phân phối lại từng người trong tổ. Phương pháp này cũng như
đối với cá nhân trong chế độ tiền lương theo sản phẩm cá nhân trực tiếp.
Việc phân phối tiền lương cho của tổ cho từng người có thể tiến hành theo
nhiều phương pháp song tất cả các phương pháp đều dựa vào 2 yếu tố cơ bản là thời
gian công tác thực tế và cấp bậc công việc mà công nhân đảm nhiệm. Trong thực tế có
thể áp dụng 2 phương pháp sau:
+ Phương pháp phân chia theo hệ số: Thực chất phương pháp này là quy đổi
trong làm việc của từng người ở các cấp bậc khác nhau thành thời gian của công nhân
bậc 1 bằng cách nhân với hệ số cấp bậc tiền lương. Sau đó tính tiền lương của 1 giờ hệ
số bằng cách lấy lương của cả tổ chia tổng số giờ hệ số của cả tổ. Cuối cùng tính phần
tiền lương của mỗi người căn cứ vào hệ số giờ của họ và tiền lương 1 giờ hệ số. Cách
tính này được thể hiện bằng công thức:
Li = ii
ii
t Kt
Kt
L
Li: Tiền lương của công nhân i
ti: thời gian làm việc thực tế của công nhân i
Ki: Hệ số cấp bậc của công nhân
Li: Tiền lươnhg sản phẩm của cả tổ
+ Phương pháp điều chỉnh: Căn cứ vào giờ làm việc thực tế và mức lương cấp
bậc của tưng công nhân để tính tiền lương của mỗi người và của cả tổ, sau đó dùng hệ
số điều chỉnh để tính toán lại tiền lương của mỗi người được hưởng. Hệ số điều chỉnh
là tỷ số giữa tiền lương sản phẩm của cả tổ và tổng số tiền lương cấp bậc của cả tổ.
Công thức tính:
Li = ii
ii
t Mt
Mt
L
Trong đó:
Mi: mức lương giờ theo cấp bậc của công nhân i
Hình thức này được áp dụng đối với những công việc do một tổ sản xuất hay
một nhóm công nhân cùng tiến hành và khó thống kê kết quả công việc của từng cá
nhân. Chẳng hạn việc lắp ráp thiết bị, sản xuất ở các bộ phận làm theo dây chuyền,
việc điều khiển các máy lưưu động hạng nặng.
Trả lương theo sản phẩm tập thể có tác dụng khuyến khích công nhân quan tâm
đến kết quả sản xuất chung của cả tổ, phát triển việc kiểm nghiệm nghề nghiệp và
nâng cao trình độ của công nhân.
Tuy nhiên, do nhược điểm của công việc chia lương là chưa tính đến thái độ
lao động, đặc điểm sức khoẻ, sự nhanh nhẹn tháo vát hoặc kết quả công tác của từng
công nhân, số lượng của mỗi công nhân không trực tiếp quyết định đến tiền lương của
họ, do đó ít kích thích công nhân nâng cao năng suất lao động cá nhân.
3.2.3 Tiền lương sản phẩm cá nhân gián tiếp:
Lương sản phẩm cá nhân gián tiếp được áp dụng đối với những công nhân phụ,
phục vụ và hỗ