Những năm gần đây nghề nuôi tôm sú ở nước ta ngày càng phát triển mạnh.
Song song với sự phát triển đó, nhu cầu con giống cũng ngày càng tăng cao. Trước
tình hình đó, nhiều tỉnh ven biển có đủ điều kiện sản xuất giống tôm sú đã dần dần
hình thành mạng lưới hệ thống trại sản xuất giống, nhằm đáp ứng được nhu cầu giống
cũng như sẽ tìm được nguồn lợi nhuận không nhỏ từ việc sản xuất và cung cấp giống.
Cũng không ngoại lệ, nằm trên vùng lãnh thổ Việt Nam, Ninh Thuận là một
tỉnh duyên hải cực Nam Trung bộ có bờ biển dài 105km. Dọc theo bờ biển Ninh
Thuận có nhiều đầm, vịnh, vùng cửa sông, bãi triều có thể sử dụng cho nuôi trồng
thủy sản. Ninh Thuận là một tỉnh có lượng mưa ít nhất trong cả nước (trung bình
750mm), ít sông ngòi, độ mặn nước biển luôn cao và ổn định (trung bình 32 – 35
0
/00).
Trong thực tế các năm qua cho thấy, nuôi trồng thủy sản ven biển ở Ninh
Thuận thực sự là thế mạnh của ngành thủy sản và không ngừng phát triển với tốc độ
khá cao, trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quan trọng của địa phương. Nuôi
tôm thương phẩm và sản xuất giống tôm sú là hai nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao
nhất. Ninh Thuận hiện có khoảng 1.513ha nuôi tôm sú, hàng năm cung cấp khoảng
4.000 tấn tôm nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, đồng thời giải quyết công ăn việc
làm cho hơn 5.000 lao động, điều này không thể không kể đến sự góp phần không
nhỏ của nghề sản xuất giống của huyện Ninh Hải nói riêng và trong cả tỉnh nói chung
đã đống góp tích cực nhất trong nhiệm vụ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân trong địa phương.
Tuy nhiên trong những năm vừa qua, từ cuối năm 2001 đến đầu 2002 và đặc
biệt là từ cuối năm 2003 đến nay các trại nuôi tôm giống đã và đang đối mặt với rất
nhiều khó khăn. Trên tất cả các vùng sản xuất giống tôm sú của cả nước đều xuất
hiện bệnh đỏ thân, đốm trắng, ngoài ra còn các bệnh nhiễm khuẩn thông thường và
chủ yếu do nhóm Vibrio gây ra cũng trở nên khó điều trị. Dịch bệnh xảy ra liên miên,
kéo theo vấn đề môi trường và nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm đã dẫn đến hàng
loạt thiệt hại cho các hộ nuôi như: tôm chậm lớn, năng suất nuôi đạt thấp, lượng tôm
hao hụt lớn, thời gian nuôi kéo dài, chi phí thức ăn, nhân công, nhiên liệu, đã làm
cho giá thành sản xuất tăng cao, trong khi đó giá tôm giống trên thị trường ngày càng
không ổn định và có xu hướng hạ thấp trong vài năm trở lại đây. Tất cả những điều
nêu trên đã làm cho một bộ phận người sản xuất tôm giống hoang mang, sản xuất bị
đình đốn.
Nhằm tìm hiểu hiện trạng nghề sản xuất giống tôm sú tại huyện Ninh Hải,
tỉnh Ninh Thuận và được sự chấp thuận của khoa Thủy Sản Trường Đại Học
Download» Agriviet.com
2
Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh, chúng tôi thực hiện đề tài: “Hiện trạng sản
xuất giống tôm sú ở một số xã thuộc huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận”.
Qua đề tài này chúng tôi sẽ điều tra để tìm hiểu và thu thập số liệu về tình
hình sản xuất giống tôm sú cũng như tìm hiểu về qui trình kỹ thuật đang được áp
dụng ở các địa phương trong huyện
70 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2097 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hiện trạng sản xuất giống tôm sú ở một số xã thuộc huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. GIỚI THIỆU
1.1 Đặt Vấn Đề
Những năm gần đây nghề nuôi tôm sú ở nước ta ngày càng phát triển mạnh.
Song song với sự phát triển đó, nhu cầu con giống cũng ngày càng tăng cao. Trước
tình hình đó, nhiều tỉnh ven biển có đủ điều kiện sản xuất giống tôm sú đã dần dần
hình thành mạng lưới hệ thống trại sản xuất giống, nhằm đáp ứng được nhu cầu giống
cũng như sẽ tìm được nguồn lợi nhuận không nhỏ từ việc sản xuất và cung cấp giống.
Cũng không ngoại lệ, nằm trên vùng lãnh thổ Việt Nam, Ninh Thuận là một
tỉnh duyên hải cực Nam Trung bộ có bờ biển dài 105km. Dọc theo bờ biển Ninh
Thuận có nhiều đầm, vịnh, vùng cửa sông, bãi triều có thể sử dụng cho nuôi trồng
thủy sản. Ninh Thuận là một tỉnh có lượng mưa ít nhất trong cả nước (trung bình
0
750mm), ít sông ngòi, độ mặn nước biển luôn cao và ổn định (trung bình 32 – 35 /00).
Trong thực tế các năm qua cho thấy, nuôi trồng thủy sản ven biển ở Ninh
Thuận thực sự là thế mạnh của ngành thủy sản và không ngừng phát triển với tốc độ
khá cao, trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quan trọng của địa phương. Nuôi
tôm thương phẩm và sản xuất giống tôm sú là hai nghề mang lại hiệu quả kinh tế cao
nhất. Ninh Thuận hiện có khoảng 1.513ha nuôi tôm sú, hàng năm cung cấp khoảng
4.000 tấn tôm nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, đồng thời giải quyết công ăn việc
làm cho hơn 5.000 lao động, điều này không thể không kể đến sự góp phần không
nhỏ của nghề sản xuất giống của huyện Ninh Hải nói riêng và trong cả tỉnh nói chung
đã đống góp tích cực nhất trong nhiệm vụ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân trong địa phương.
Tuy nhiên trong những năm vừa qua, từ cuối năm 2001 đến đầu 2002 và đặc
biệt là từ cuối năm 2003 đến nay các trại nuôi tôm giống đã và đang đối mặt với rất
nhiều khó khăn. Trên tất cả các vùng sản xuất giống tôm sú của cả nước đều xuất
hiện bệnh đỏ thân, đốm trắng, ngoài ra còn các bệnh nhiễm khuẩn thông thường và
chủ yếu do nhóm Vibrio gây ra cũng trở nên khó điều trị. Dịch bệnh xảy ra liên miên,
kéo theo vấn đề môi trường và nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm đã dẫn đến hàng
loạt thiệt hại cho các hộ nuôi như: tôm chậm lớn, năng suất nuôi đạt thấp, lượng tôm
hao hụt lớn, thời gian nuôi kéo dài, chi phí thức ăn, nhân công, nhiên liệu,… đã làm
cho giá thành sản xuất tăng cao, trong khi đó giá tôm giống trên thị trường ngày càng
không ổn định và có xu hướng hạ thấp trong vài năm trở lại đây. Tất cả những điều
nêu trên đã làm cho một bộ phận người sản xuất tôm giống hoang mang, sản xuất bị
đình đốn.
Nhằm tìm hiểu hiện trạng nghề sản xuất giống tôm sú tại huyện Ninh Hải,
tỉnh Ninh Thuận và được sự chấp thuận của khoa Thủy Sản Trường Đại Học
2
Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh, chúng tôi thực hiện đề tài: “Hiện trạng sản
xuất giống tôm sú ở một số xã thuộc huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận”.
Qua đề tài này chúng tôi sẽ điều tra để tìm hiểu và thu thập số liệu về tình
hình sản xuất giống tôm sú cũng như tìm hiểu về qui trình kỹ thuật đang được áp
dụng ở các địa phương trong huyện.
1.2 Mục Tiêu Đề Tài
- Điều tra hiện trạng, kinh tế xã hội và kỹ thuật của nghề sản xuất giống tôm
sú ở huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.
- Xác định hiệu quả kinh tế của nghề sản xuất giống tôm sú.
- Tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn của nghề này. Để có những giải pháp
nâng cao năng lực sản xuất cho những năm tiếp theo.
- Tìm hiểu mối tương quan giữa năng suất và các yếu tố khác.
Download» Agriviet.com
3
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Đặc Điểm Sinh Học của Tôm Sú
Tôm sú hay còn gọi là tôm sú rằn hay tôm cỏ là loài tôm biển có kích thước
lớn, trên cơ thể tôm sú có nhiều sọc màu xám đậm hơi xanh hoặc nâu đỏ, tôm có
chủy dài hơi cong và có 6 – 8 gai trên chủy.
2.1.1 Phân loại
Tôm sú thuộc:
Ngành: Arthropoda
Ngành phụ: Branchiata
Lớp: Cructacea
Lớp phụ: Melacostrace
Bộ: Decapoda
Bộ phụ: Nantatia
Họ: Penaeidae
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus monodon
Tên khoa học: Penaeus monodon (Fabricius 1798)
Tiếng Anh: Tiger shrimp
Tiếng Việt: Tôm sú, tôm cỏ
2.1.2 Vùng phân bố
Phạm vi phân bố của tôm sú trên thế giới khá rộng như ở các thủy vực từ Ấn
Độ Dương qua hướng Nhật Bản, Đài Loan, phía Đông Tahiti, phía Nam châu Úc và
phía Tây châu Phi (Racek, 1955; Holthuis và Rosa, 1965; Motoh, 1981, 1985, trích bởi
Phạm Văn Tình, 1996).
Ở Việt Nam tôm sú (Penaeus monodon) phân bố tự nhiên ở cả ba miền Bắc,
Trung và Nam nhưng tập trung nhiều ở duyên hải miền Trung.
2.1.3 Khả năng thích nghi
Download» Agriviet.com
4
Trong môi trường nước có rất nhiều chỉ tiêu thủy lý hóa ảnh hưởng đến quá
trình sinh trưởng và phát triển của tôm như nhiệt độ, độ mặn, oxy, pH và một số yếu
tố khác. Sự biến động của các chỉ tiêu này phụ thuộc vào môi trường bên ngoài và
biến động bên trong của thủy vực.
Nền đáy thủy vực có ảnh hưởng khá lớn đối với sự phân bố của các loài tôm
trong tự nhiên. Một số loài thích nền cát, cát bùn, thủy vực nước trong có độ mặn cao
như tôm sú,…
Tôm sú (Penaeus monodon) là loài biến nhiệt, khi nhiệt độ của môi trường
biến đổi thì nhiệt độ của cơ thể biến đổi theo và điều này không thuận lợi đối với
tình trạng sức khỏe của tôm, nhưng đây lại là loài rộng nhiệt, có khả năng thích nghi
trong khoảng nhiệt độ từ 15 – 350C, tuy nhiên khoảng nhiệt độ thích hợp cho tôm là
từ 25 – 300C, nếu thấp hơn 150C và cao hơn 350C sẽ gây nguy hiểm và tôm bắt đầu
chết (theo Trần văn Hòa, Trần Văn Đởm và Đặng Văn Khiêm, 2001).
Trong khoảng pH từ 7,5 – 8,5 là thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của
tôm, tuy nhiên tôm có thể thích nghi được trong khoảng pH từ 6,0 – 10,0 nhưng sự dao
động trong ngày phải nhỏ hơn 0,5 đơn vị (theo Đào Mạnh Sơn, Đào Tấn Hỗ, Hà Đức
Thắng, Nguyễn Chính, Nguyễn Cơ Thạch, Nguyễn Hữu Đại, Nguyễn Hữu Phụng,
Nguyễn Thị Xuân Thu, Nguyễn Văn Chung, Phạm Thị Nhàn, Phạm Thược và các
ctv., 2003).
Tôm sú (Penaeus monodon) là loài rộng muối nhưng cũng tùy từng giai đoạn
0
phát triển của tôm mà có khả năng tồn tại và phát triển ở diêm độ từ 0 – 45 /00
(Trần Văn Hòa, Trần Văn Đởm và Đặng Văn Khiêm, 2001).
Giống như các loài sống trong nước khác, tôm sú cũng cần có oxy để hô hấp,
hàm lượng oxy hòa tan cần thiết để tôm sống và phát triển từ 3 – 12mg/L, mức oxy
hòa tan tối ưu để tôm phát triển tốt là từ 4 – 7mg/L.
Ngoài ra tôm sú sống thích hợp với hàm lượng Amoniac (NH3) thấp hơn
0,1mg/L, mức độ gây độc của NH3 tùy thuộc vào pH, khi pH càng cao thì sẽ tăng độc
tính của NH3.
2.1.4 Chu kỳ đời sống
Tôm là loài giáp xác có vỏ kitin bao bọc bên ngoài cơ thể, cho nên sự sinh
trưởng của chúng mang tính gián đoạn và đặc trưng bởi sự gia tăng đột ngột về kích
thước và trọng lượng. Tôm muốn gia tăng kích thước (hay sinh trưởng) phải tiến hành
lột bỏ lớp vỏ cũ để cơ thể tăng kích thước. Quá trình này thường tùy thuộc vào môi
trường nước, điều kiện dinh dưỡng và giai đoạn phát triển của cá thể.
Download» Agriviet.com
5
Vòng đời của tôm biển trải qua một số giai đoạn bao gồm giai đoạn trứng; ấu
trùng với Nauplii, Zoae và Mysis; hậu ấu trùng; ấu niên và giai đoạn trưởng thành.
Mỗi giai đoạn phân bố ở những thủy vực khác nhau như vùng cửa sông, vùng biển
ven bờ hay vùng biển khơi và có tính sống trôi nổi hay sống đáy.
Hình 2.1 Vòng đời của tôm biển
(Nguồn: Phạm Văn Nhỏ, 2002)
Tôm sú thuộc loại dị hình phái tính, con cái có kích thước lớn hơn con đực ở
cùng độ tuổi. Có thể phân biệt đực cái khi tôm trưởng thành thông qua cơ quan sinh
dục phụ bên ngoài.
Cơ quan sinh dục chính của con đực nằm ở phía trong phần đầu ngực, bên
ngoài có cơ quan giao cấu phụ nằm ở nhánh ngoài của đôi chân ngực thứ hai, lỗ sinh
dục đực mở ra ở hốc háng đôi chân ngực thứ năm. Tinh trùng thuộc dạng chứa trong
túi.
Ở con cái: buồng trứng nằm dọc theo mặt lưng phía trên, hai ống dẫn trứng
mở ra ở khớp háng đôi chân ngực thứ ba. Bộ phận chứa túi tinh gồm có hai tấm
phồng lên ở đôi chân ngực thứ tư và thứ năm (gọi là Thelycum).
Download» Agriviet.com
6
Hình 2.2 Phân biệt tôm đực (phải) và tôm cái (trái)
(Nguồn: Phạm Văn Nhỏ, 2002)
Tuổi thành thục sinh dục của tôm đực và tôm cái trong tự nhiên từ tháng thứ
tám trở đi. Xác định sự thành thục của tôm cái dễ hơn, chỉ cần quan sát có túi tinh ở
cơ quan sinh dục phụ. Phương pháp xác định sự thành thục của con đực khó hơn, chỉ
khi nào tìm thấy được tinh trùng ở cuối ống dẫn tinh. Thường thì dựa vào trọng lượng
để xác định khi con đực nặng từ 50g trở lên.
Số lượng trứng đẻ của tôm cái nhiều hay ít là phụ thuộc vài chất lượng của
buồng trứng và trọng lượng của cơ thể. Con cái có trọng lượng cơ thể từ 100 – 300g
cho 300.000 – 1.200.000 trứng nếu thành thục ngoài tự nhiên, còn nếu cắt mắt nuôi
vỗ trong bể xi măng thì thành thục và đẻ cho số lượng trứng từ 200.000 – 600.000
trứng.
Tôm cái đẻ trứng vào ban đêm (thường từ 22 giờ đến 2 giờ ), trứng sau khi đẻ
được 14 – 15 giờ, ở nhiệt độ 27 – 280C sẽ nở thành ấu trùng và sau đó phát triển qua
các giai đoạn sau:
- Nauplius (N): trải qua sáu giai đoạn biến thái từ (N1 – N6), giai đoạn này
chưa ăn mà chỉ sống dựa vào chất noãn hoàng trong cơ thể. Thời gian biến thái từ N1
– N6 là 36 – 51 giờ, chiều dài 0,43 – 0,58mm.
Download» Agriviet.com
7
- Protozoea có ba giai đoạn, mỗi giai đoạn biến thái từ 36 – 48 giờ, thức ăn là
tảo có kích thước bốn đến mười micron, chiều dài Z1 = 1mm, Z2 = 1,7mm,
Z3 = 2,5mm.
Z1 Z2
Z3
Hình 2.3 Ba giai đoạn phát triển của ấu trùng Zoea
(Nguồn: Phạm văn Nhỏ, 2002)
- Mysis: Mysis xuất hiện ở ngày nuôi thứ năm, Mysis có ba giai đoạn phụ.
+ Mysis (M1) có chiều dài 3,5mm, xuất hiện năm đôi chân bụng, bơi chúi đầu
xuống.
+ Mysis (M2) có chiều dài hơn M1 đôi chút, chân bơi bắt đầu phân đốt.
+ Mysis (M3) có chiều dài 4mm, chân bơi phân nhánh, sau 24 – 48 giờ thành
Postlarvae.
Download» Agriviet.com
8
Mysis 1 Mysis 2
Mysis 3 Postlarvae 1
Hình 2.4 Các giai đoạn phát triển của hậu ấu trùng
(Nguồn: Phạm văn Nhỏ, 2002)
- Postlarvae đã phát triển các phần phụ như tôm trưởng thành, bắt đầu hướng
về trước, có tập tính sống đáy (công ty TNHHSX – TM – DV Ngọc Hà, kỹ thuật nuôi
từ nauplii thành phostlarvae, 2004).
Tôm sú đẻ quanh năm nhưng tập trung vào hai thời kỳ chính là từ tháng
3 – 4 và tháng 7 – 10.
2.1.5 Tập tính dinh dưỡng
Tôm sú là loài ăn tạp và đặc biệt là giáp xác, vật chất hữu cơ dưới nước
(mảnh vụn hữu cơ,…), có tập tính ăn lẫn nhau. Chúng thường hoạt động bắt mồi tích
cực vào ban đêm và thường tập trung ở đáy ao vào ban ngày. Tôm sú có khả năng
tận dụng nguồn đạm động thực vật cao hơn các loài tôm khác.
2.1.6 Trị một số bệnh thường gặp
Trong quá trình sản xuất cần phải thường xuyên quan sát ấu trùng qua kính
hiển vi, khi thấy xuất hiện dấu hiệu gây bệnh thì cần phải trị ngay mới mang lại hiệu
quả cao hơn.
2.1.6.1 Bệnh vi khuẩn dạng sợi (Filamentous bacteria)
Bệnh này thường gặp ở giai đoạn Poslarvae, các sợi nấm bám đầy các phần
phụ của tôm, làm cho tôm khó bơi, ăn yếu và sẽ xuất hiện các bệnh khác kèm theo
như hoại tử (necrosis), nếu phát hiện sớm có thể trị bệnh có hiệu quả. Trị bệnh bằng
Sunfat đồng (CuSO4) với nồng độ 0,15 – 0,25ppm trong 24 giờ.
Download» Agriviet.com
9
2.1.6.2 Bệnh hoại tử (necrosis)
Bệnh hoại tử có hai dạng: vi khuẩn ăn mòn các phần phụ hoặc các phần phụ
bị chết (chẳng hạn như hoại tử các nhánh chân bụng). Trong hai loại này thì dạng thứ
hai khó trị hơn. Nếu phát hiện sớm có thể điều trị có hiệu quả bằng cách sử dụng
Oxytetracylin 5 – 10ppm hay Furazon 2 – 3ppm, trị liên tiếp ba ngày. Nguyên nhân
chủ yếu gây ra bệnh này là do môi trường không thuận lợi.
2.1.6.3 Bệnh lột xác dính vỏ (Exuvia Entrapment)
Loại bệnh này thường xảy ra ở giai đoạn Poslarvae, khi lột xác một phần vỏ
dính lại trên các phần phụ như chân ngực, chân bụng làm cho tôm khó hoạt động.
Nguyên nhân gây bệnh là do NH4 trong bể chứa từ 0,01ppm trở lên. Nowser
và cộng sự (1981) cho rằng thêm Lexitin (Photpholipit) trong thức ăn sẽ hạn chế được
bệnh này.
2.1.6.4 Bệnh phát sáng (Liminescent vibriosis)
Đối với loại bệnh này thường xảy ra trong tất cả các giai đoạn của tôm nuôi.
Nếu trong bể tôm có các đốm sáng lớn trên những con tôm chết, đó là do
những tập đoàn Coccobacilli tấn công vào các con chết gây phát sáng thì hiện tượng
này không quan trọng.
Khi nước biển xử lý không tốt sẽ thường gặp hiện tượng này. Nếu phát sáng
trên các con tôm sống, đốm sáng rất nhỏ và nhiều trên phần cơ thịt của tôm thì đó là
bệnh Vibrio harveyi và Vibrio splendidus gây nên.
Do bản thân các loại Vibrio này có nguồn gốc từ nước biển nên việc phòng
bệnh sẽ thông qua việc xử lý thật kỹ nguồn nước nuôi.
2.1.6.5 Bệnh do nguyên sinh động vật (Protozoea)
Bệnh này do một số loài nguyên sinh động vật như Zoothammium, Rpistylis,
Vorticella, Acineta,… chúng tấn công vào mắt, mang, các phần phụ của tôm làm cho
tôm yếu, kém ăn và di chuyển khó khăn rồi chết.
Nguyên nhân sinh bệnh chủ yếu là do chăm sóc kém, làm cho môi trường
nuôi bị xấu, hàm lượng các chất hữu cơ trong bể cao, tạo điều kiện cho nguyên sinh
động vật phát triển.
Với bệnh này có thể điều trị bằng Chloroquin disphosphate 1,1ppm liên tục
trong hai ngày, hay tắm Formaline 25 – 30ppm trong vòng 15 – 20 phút.
Download» Agriviet.com
10
2.2 Điều Kiện Tự Nhiên của Tỉnh Ninh Thuận
2.2.1 Vị trí địa lý
Ninh Thuận là một tỉnh cực Nam Trung bộ, được tách ra từ tỉnh Thuận Hải cũ
(tháng 04/ 1992), vị trí địa lý từ 11018’14” độ vĩ Bắc và 108039’08” – 109014’25” độ
kinh Đông, phía Bắc giáp Khánh Hòa, phía Nam giáp Bình Thuận, phía Tây giáp
Lâm Đồng, phía Đông giáp biển Đông. Tổng diện tích của tỉnh là 3.360,06km2 với
năm huyện thị.
Ninh Hải là một huyện ven biển, nằm về phía Bắc của tỉnh Ninh Thuận, nằm
trong phạm vi tọa độ từ 11037’05” Bắc đến 11061’10” Bắc và từ 106027’30” Đông đến
109014’00” Đông. Phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 60km, phía Tây giáp
huyện Ninh Sơn, phía Nam giáp thị xã Phan Rang, phía Bắc giáp huyện Cam Ranh
(Khánh Hòa).
Huyện có quốc lộ 1A và đường sắt Thống Nhất chạy qua, nằm liền kề với
huyện Cam Ranh – nơi có cảng Cam Ranh, cách thị xã Phan Rang không xa.
Với vị trí địa lý, vùng biển như trên sẽ là yếu tố khai thác các tiềm năng về
nuôi trồng, khai thác đánh bắt thủy sản, về du lịch của Ninh Hải nói riêng và của
Ninh Thuận nói chung phát triển qua việc tiếp cận khoa học kỹ thuật, chuyển giao
công nghệ, đẩy mạnh phát triển hàng hóa và giao lưu kinh tế với các tỉnh Đông Nam
bộ, vùng duyên hải miền Trung.
2.2.2 Đặc điểm địa hình
Địa hình của huyện có độ dốc thấp dần từ Bắc xuống Nam, toàn huyện được
chia làm ba loại địa hình chính:
2.2.2.1 Địa hình đồi núi
Vùng đất đồi núi chủ yếu phân bố ở phía Bắc của huyện. Địa hình chủ yếu là
các đồi núi Granit có độ dốc lớn, độ cao từ +500 -> +1.000m, nơi cao nhất là đỉnh núi
Chúa +1.130m, địa hình này có diện tích 23.440 ha chiếm 41,03% diện tích toàn
huyện.
2.2.2.2 Địa hình đất cát ven biển
Loại địa hình này nằm ở phía Đông và phía Nam của huyện, thuộc bốn xã:
Vĩnh Hải, Khánh Hải, Tri Hải và Phương Hải. Địa hình chủ yếu là các dãi đất cát đến
cát pha có độ cao dưới 10m, tạo thành một dãy dài và hẹp chạy dọc ven biển. Diện
tích tự nhiên là 26.508,2ha chiếm 46,40% diện tích toàn huyện.
Download» Agriviet.com
11
2.2.2.3 Địa hình đồng bằng
Phần lớn đất đai có độ cao từ 10 – 30m, địa hình tương đối bằng phẳng, hướng
dốc từ Tây Bắc xuống Đông Nam và dốc dần ra biển, diện tích tự nhiên là 7.170ha
chiếm 12,55% diện tích toàn huyện.
2.2.3 Khí hậu thủy văn trong đất liền
Huyện Ninh Hải có đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Do tính chất của
địa hình nên ở Ninh Hải có khí hậu khô hạn và nắng nóng đặc biệt so với các vùng
khác.
Nhiệt độ không khí:
- Trung bình năm: 27,70C.
- Nhiệt độ cao nhất: 39,90C (06/1937).
- Nhiệt độ thấp nhất: 11,40C (12/1934).
Tháng có nhiệt độ bình quân cao nhất là 29,40C (tháng tám), tháng thấp nhất
là 250C (tháng một). Nhiệt độ cao nóng quanh năm không có mùa đông lạnh, những
nơi có nước cây trồng xanh tươi quanh năm.
Bảng 2.1 Phân bố nhiệt độ theo các tháng
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
to
Lớn nhất 35,5 35,2 35,5 36,4 38,9 39,0 39,9 38,3 37,7 34,1 33,8 33,2
Trung bình 24,4 25,4 26,9 28,1 28,8 28,7 28,6 28,8 27,2 26,4 25,9 29,8
Nhỏ nhất 16,9 17,9 19,6 21,2 22,9 23,2 22,2 21,2 20,8 20,8 18,7 17,2
(Nguồn: Sở Thủy Sản Ninh Thuận, 2004)
Lượng mưa:
- Lượng mưa bình quân nhiều năm: 717 – 750mm.
- Lượng mưa năm cao nhất: 1.390mm.
- Lượng mưa năm thấp nhất: 290mm.
Download» Agriviet.com
12
Số ngày mưa trong năm bình quân là 60 ngày, mưa tập trung vào ba tháng
9, 10, 11 chiếm 80% lượng mưa cả năm. Trong mùa khô từ tháng 12 – 08 năm sau
lượng mưa rất nhỏ và không đáng kể. Lượng mưa hàng năm biến đổi lớn và vùng đồi
núi có số ngày mưa nhiều hơn.
Là một huyện mưa ít nhất toàn quốc, khô hạn kéo dài tám đến chín tháng.
Chế độ mưa ẩm, khô hạn và nóng quanh năm.
Bảng 2.2 Phân phối lượng mưa trong năm
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Lượng mưa
mm 6,5 1,5 6,8 14,1 55 46,8 34,8 45,9 120 162,7 139 58,8
(Nguồn: Sở Thủy Sản Ninh Thuận, 2004)
Bão lụt và áp thấp nhiệt đới:
- Đặc trưng của bão là gió xoáy kết hợp mưa lớn trên diện rộng và di chuyển
theo hướng gió, sức gió lên đến cấp 8 – 12. Áp thấp nhiệt đới là những vùng áp suất
thấp của không khí hình thành trên vùng biển n