Trong xu thế của thời đại ngày nay sự toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới, sự
đa dạng trong các loại hình kinh doanh thì Marketing là một trong những vấn đề rất
quan trọng đối với bất cứ doanh nghiệp nào thừa nhận cơ chế thị trường điều đó đồng
nghĩa với cạnh tranh, phát triển, suy thoái. Để thành đạt thì các doanh nghiệp phải
xây dựng chiến lược Marketing - Mix (Price, Product, Place, Promotion) để đạt được
thành công thì là sự kết hợp hoàn hảo của các chiến lược này. Vấn đề phân phối sản
phẩm hiện nay đang đóng vai trò quan trọng cho các doanh nghiệp nói chung và công
ty dược phẩm TW 7 nói riêng.
Bản đề án này “Hoàn thiện chính sách phân phối sản phẩm của công ty Dược
phẩm Trung ương 7”, với bản đề án này chỉ có thể giúp quý công ty một phần trong
khả năng phân phối sản phẩm của công ty chứ không thể thay đổi toàn hệ thống phân
phối, phương pháp nghiên cứu của bài viết này là thu thập và phân tích nghiên cứu các
số liệu được quý Công ty cung cấp về hệ thống phân phối của công ty
35 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3237 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện chính sách phân phối sản phẩm ở công ty Dược phẩm Trung ương 7, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện chính sách phân phối
sản phẩm của công ty Dược phẩm
Trung ương 7
Lời nói đầu
Trong xu thế của thời đại ngày nay sự toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới, sự
đa dạng trong các loại hình kinh doanh thì Marketing là một trong những vấn đề rất
quan trọng đối với bất cứ doanh nghiệp nào thừa nhận cơ chế thị trường điều đó đồng
nghĩa với cạnh tranh, phát triển, suy thoái... Để thành đạt thì các doanh nghiệp phải
xây dựng chiến lược Marketing - Mix (Price, Product, Place, Promotion) để đạt được
thành công thì là sự kết hợp hoàn hảo của các chiến lược này. Vấn đề phân phối sản
phẩm hiện nay đang đóng vai trò quan trọng cho các doanh nghiệp nói chung và công
ty dược phẩm TW 7 nói riêng.
Bản đề án này “Hoàn thiện chính sách phân phối sản phẩm của công ty Dược
phẩm Trung ương 7”, với bản đề án này chỉ có thể giúp quý công ty một phần trong
khả năng phân phối sản phẩm của công ty chứ không thể thay đổi toàn hệ thống phân
phối, phương pháp nghiên cứu của bài viết này là thu thập và phân tích nghiên cứu các
số liệu được quý Công ty cung cấp về hệ thống phân phối của công ty.
Mục đích đề án là phát triển và hoàn thiện hệ thống phân phối khi chúng tôi
nghiên cứu và làm đề án này làm về toàn bộ kênh của công ty nên không thể bao quát
hết từng chi tiết nhỏ nhất. Bố cục của đề án:
- Phần I - Lý thuyết kênh.
- Phần II - Thực trạng kênh của công ty
- Phần III - Kết luận.
Phần I
Những vấn đề lý luận cơ bản về kênh phân phối.
I-/ Khái niệm.
Ngày nay, các công ty ngày càng đề cao vai trò của kênh phân phối trong các
hoạt động Marketing của mình. Vì vậy, việc quyết định về lựa chọn kênh phân phối là
một trong những quyết định quan trọng và phức tạp nhất mà ban lãnh đạo thông qua.
Các kênh phân phối được công ty lựa chọn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả những
quyết định khác trong lĩnh vực Marketing và nó quyết định phần lớn đến sự thành
công hay thất bại sau này. Vậy kênh phân phối là gì?
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau nhưng tất cả đều không thoả mãn
được tất cả các đối tượng. Sau đây là 1 định nghĩa khá đầy đủ đối với một công ty.
“Kênh phân phối là một tập hợp các công ty khác hay các cá nhân tự gánh vác hay
giúp đỡ chuyển giao cho một ai đó quyền sở hữu đối với những hàng hoá hay dịch vụ
cụ thể của công ty đến người tiêu dùng”.
Kênh phân phối tồn tại ở bên ngoài doanh nghiệp nó không phải là một phần cấu
trúc nội bộ của doanh nghiệp. Quản lý kênh phân phối liên quan đến sử dụng khả năng
quản lý giữa các tổ chức hơn là quản lý trong một tổ chức. Các thành viên trong một
kênh phân phối có quan hệ với nhau theo chiều dọc để đưa hàng hoá công ty tới tận
tay người tiêu dùng, các quan hệ thể hiện chức năng đàm phán của các thành viên
kênh.
Việc quản lý các hoạt động ở đây không chỉ liên quan tới hoạt động của chính
công ty mà còn tới các thành viên khác của kênh, nhưng điều này không có nghĩa là sự
quản lý toàn bộ các thành viên kênh. Bởi vì điều này là rất khó khăn do đó sự quản lý
hoạt động đối với các thành viên kênh chỉ là một mức độ nào đó.
Việc thiết lập quản lý hệ thống kênh phân phối nhằm vào mục đích cuối cùng là
đạt được mục tiêu phân phối. Trước khi thiết lập hệ thống kênh phân phối thì mục tiêu
phân phối đã phải được xác định để từ đó việc thiết kế, quản lý kênh hướng theo mục
tiêu đó. Mục tiêu phân phối có thể thay đổi và có thể làm cho các yếu tố trong tổ chức,
quan hệ bên ngoài và cách quản lý các hoạt động cũng thay đổi theo.
II-/ Bản chất hệ thống kênh phân phối.
1-/ Lý do sử dụng các trung gian trong hệ thống kênh phân phối.
Việc sử dụng các trung gian trong hệ thống kênh phân phối của công ty đồng
nghĩa với việc công ty phải ứng phó với rất nhiều khó khăn trong việc quản lý các hoạt
động phân phối cũng như các thành viên của kênh phân phối. Tuy vậy, các công ty vẫn
sẵn sàng chuyển giao một phần công việc tiêu thụ sản phẩm của mình cho người trung
gian. Việc chuyển giao đó có nghĩa là từ bỏ một số quyền kiểm soát sản phẩm đó xem
nó được bán như thế nào và được bán cho ai?. Như vậy, công ty đã giao phó vận mệnh
của mình cho người trung gian. Mặc dù vậy, xu hướng sử dụng các trung gian trong hệ
thống phân phối của các công ty đang ngày càng được chú trọng bởi vì việc sử dụng
các trung gian thường mang lại lợi thế lớn cho các công ty.
Việc sử dụng các trung gian đem lại hiệu quả cao hơn trong việc đảm bảo phân
phối đến những thị trường mục tiêu. Nhờ quan hệ tiếp xúc kinh nghiệm, việc chuyên
môn hoá và quy mô hoạt động của các trung gian sẽ làm lợi cho công ty nhiều hơn là
khi công ty tự làm lấy.
2-/ Chức năng của kênh phân phối.
Kênh phân phối thực hiện công việc luân chuyển hàng hoá từ nhà sản xuất đến
người tiêu dùng (đối với nhà sản xuất). Đối với công ty chuyên về phân phối thì kênh
phân phối của công ty nó là thực hiện việc luân chuyển hàng hoá mà công ty phân phối
đến tay người tiêu dùng. Chúng ta thấy rằng, các công ty phân phối có thể phân phối
nhiều loại hàng hoá của nhiều nhà sản xuất khác nhau. Như vậy, đối với các nhà sản
xuất thì công ty phân phối sẽ đóng vai trò là một thành viên của kênh phân phối (KPP)
của mỗi nhà sản xuất. Tuy vậy các công ty phân phối này có thể thiết lạp cho mình
một hệ thống phân phối hàng hoá cho riêng mình và các loại hàng hoá của công ty
phân phối thường có sự liên hệ với nhau. Các thành viên trong kênh phân phối có các
chức năng sau:
- Nghiên cứu thu thập thông tin có liên quan như: Các điều kiện thị trường, khối
lượng bán mong muốn, các xu hướng khách hàng, các lực lượng cạnh tranh để lập kế
hoạch và tạo thuận lợi cho việc trao đổi.
- Kích thích tiêu thụ: Soạn thảo và truyền bá những thông tin về hàng hoá như
quảng cáo, khuyến mại, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm...
- Thiết lập các mối quan hệ: Nhiệm vụ chủ yếu ở đây đối với thành viên kênh là
tạo dựng và duy trì mối quan hẹ đối với khách hàng tiềm năng, ngoài ra cần phải giữ
mối liên hệ tốt hỗ trợ giúp đỡ nhau đối với các thành viên kênh khác.
- Hoàn thiện hàng hoá: làm cho hàng hoá đáp ứng được những yêu cầu của người
mua.
- Đàm phán và thương lượng: Những việc thoả thuận về giá và những điều kiện
khác để thực hiện bước tiếp theo là chuyển giao quyền sở hữu hay sử dụng...
- Chức năng tiêu thụ hàng hoá: bán hàng, tổ chức vận chuyển, bảo quản, dự trữ,
phân loại hàng hoá.
- Hỗ trợ các chức năng trong kênh: tìm kiếm nguồn tài chính áp dụng các điều
khoản ưu đãi về thời gian thanh toán.
- Đối phó với rủi ro: Gánh chịu trách nhiệm về hoạt động của kênh phân phối,
san sẻ rủi ro cho các hoạt động trong kênh khác.
Việc thực hiện 5 chức năng đầu hỗ trợ cho việc ký kết các hợp đồng, còn việc
thực hiện các chức năng còn lại là hỗ trợ cho việc hoàn tất các thương vụ đã ký kết.
Tất cả các chức năng này có 3 tính chất chung:
- Chúng thu hút những nguồn tài nguyên khan hiếm.
- Thường được thực hiện tốt hơn nhà chuyên môn hoá.
- Có thể do các thành viên khác nhau của kênh thực hiện.
Nếu nhà sản xuất thực hiện một phần các chức năng đó thì chi phí của nó sẽ tăng
lên tương xứng và nghĩa là giá cả sẽ cao hơn.
3-/ Các dòng chảy trong kênh phân phối.
Sự luân chuyển hàng hoá qua kênh phân phối vượt qua các ngăn cách về thời
gian, không gian và quyền sở hữu, giữa hàng hoá và dịch vụ tới những người sẽ sử
dụng chúng. Trong một kênh phân phối có nhiều dòng chảy, những dòng chảy này
cung cấp sự liên kết ràng buộc các thành viên trong kênh cũng như các tổ chức khác có
liên quan đến hoạt động phân phói. Những dòng chảy quan trọng là:
- Dòng chảy chuyển quyền sở hữu: Nó thể hiện sự chuyển quyền sở hữu sản
phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng. Đây là một dòng chảy quan
trọng nhất trong kênh phân phối, bởi vì qua đó ta xác định được số thành viên tham gia
vào hoạt động của kênh. Nó cũng phản ánh mối quan hệ phát sinh giữa các thành viên
chính thức trong kênh và nó phản ánh hiệu quả phân phối của kênh.
- Dòng sản phẩm: thể hiện sự di chuyển vật chất thực sự của sản phẩm về không
gian, thời gian qua tất cả các thành viên tham gia vào quá trình phân phối từ nhà sản
xuất đến người tiêu dùng cuối cùng.
- Dòng đàm phán: thể hiện sự tác động qua lại lẫn nhau của các bên mua và bán
liên quan đến quyền sở hữu sản phẩm. Đây là dòng hai chiều chỉ số đàm phán liên
quan đến trao đổi song phương giữa người mua và người bán ở tất cả các mức độ
kênh.
- Dòng thông tin: là dòng chảy 2 chiều trong các thành viên của kênh với các tổ
chức hỗ trợ để đảm bảo cho các dòng chảy khác hoạt động. Những thông tin chủ yếu
gồm: số lượng, chất lượng hàng hoá, thời gian và địa điểm giao nhận, giá cả hàng hoá,
phương thức thanh toán...
- Dòng xúc tiến: là dòng hai chiều thể hiện sự hỗ trợ về truyền tin, sản phẩm hoặc
dịch vụ của người sản xuất cho tất cả các thành viên trong kênh phân phối dưới các
hình thức quảng cáo, bán hàng cá nhân, xúc tiến bán hàng và quan hệ với công chúng.
- Dòng tiền tệ và chứng từ thanh toán: là dòng vận động ngược chiều từ người
mua cuối cùng trở lại người sản xuất. Nó tách rời sự vận động của sản phẩm và chuyển
quyền sở hữu ở các mức độ nhất định.
- Dòng đặt hàng: thể hiện cơ chế thu thập, tập hợp, xử lý các đơn đặt hàng từ
người mua cuối cùng đến trở lại người sản xuất.
III-/ Cấu trúc và các thành viên của kênh phân phối.
1-/ Khái niệm.
Khi hình thành kênh phân phối thì cần phải gắn các mong muốn với tính khả thi
có thể thực hiện mang lại hiệu quả cao. Việc thiết lập kênh phân phối có cấu trúc tối
ưu là một việc rất quan trọng cho sự thành công của hoạt động của hệ thống kênh phân
phối.
Cấu trúc kênh: là số lượng và đặc điểm của các thành viên kênh mà tập hợp các
công việc phân bổ cho họ theo những cách thức khác nhau.
Từ định nghĩa trên ta thấy trong sự phát triển của cấu trúc kênh, người quản lý sẽ
phải đối mặt vói quyết định phân công đó là một tập hợp các công việc phân phối yêu
cầu phải được thực hiện nhằm đạt các mục tiêu phân phối của công ty mà người quản
lý quyết định phân công. Hơn nữa, cấu trúc của kênh sẽ phản ánh cách thức mà người
quản lý đã phân bố các công việc này như thế nào giữa các thành viên kênh.
2-/ Cơ cấu kênh phân phối
Trong một hệ thống kênh phân phối của một công ty sẽ bao gồm nhiều kênh
phân phối có cơ cấu khác nhau. Mỗi kênh phân phối có thể không qua trung gian, qua
một trung gian hoặc nhiều trung gian. Trong thị trường hàng tiêu dùng thông thường
mô hình kênh phân phối được trình bày theo sơ đồ sau:
Nhà
sản
xuấ
t
Ngườ
i
tiêu
dùng
cuối
cùng
Bán
lẻ
Bán
lẻ
Bán
lẻ
Bán
buôn
Bán
buôn
Đại
lý
1
2
3
4
Sơ đồ 1 - Môi hình kênh phân phối hàng tiêu dùng
+ Loại kênh (1): Kênh phân phối trực tiếp từ công ty đến người tiêu dùng. Loại
kênh này thường được sử dụng cho các loại hàng hoá có tính thương phẩm đặc biệt
(hàng dễ hỏng, dễ vỡ...) hoặc được sử dụng ở thị trường nhỏ mà nơi đó nhà sản xuất
độc quyền bán cho người tiêu dùng. Loại kênh này có ưu thế đẩy nhanh tốc độ lưu
thông hàng hoá, bảo đảm sự giao tiếp chặt chẽ của nhà sản xuất trong lĩnh vực phân
phối đảm bảo tính chủ đạo của nhà sản xuất trong kênh phân phối. Nhưng loại kênh
này có những hạn chế như trình độ chuyên môn hoá thấp, tổ chức và quản lý kênh
phức tạp, vốn và nhân lực phân tán, tốc độ chu chuyển vốn chậm.
+ Loại kênh (2), (3), (4): là những loại kênh phân phối có sử dụng trung gian.
Trong mô hình trên, số cấp trung gian mới chỉ đến 3 cáp nhưng trong thực tế có những
kênh phân phối có số cấp trung gian có thể lên tới 5 hoặc 6 cấp. Thông thường ở địa
bàn càng hẹp thì số cấp trung gian càng ít, ở địa bàn rộng trong kênh phân phối số cấp
trung gian có thể lớn hơn. Số cấp trung gian phụ thuộc lớn vào chính sách phân phối
của công ty, tiềm lực của công ty cũng như sự phát triển thị trường của nơi mà công ty
phân phối. Loại kênh dài khoảng 2 đến 3 cấp trung gian là loại hình phổ biến trong
kênh phân phối hàng hoá. Kênh này thường được sử dụng với những hàng hoá sản
xuất tập trung nhưng phân phối phân tán. Loại kênh này do quan hệ mua bán trong
từng kênh nên tổ chức tương đối chặt chẽ, vòng quay vốn nhanh, luồng vận động sở
hữu có nhiều vòng hơn. Tuy nhiên, do kênh dài nên khả năng rủi ro lớn, việc thích hợp
và điều hành kênh khó khăn hơn, thời gian lưu thông hàng hoá dài hơn, chi phí phân
phối cả kênh lớn.
3-/ Các thành viên của kênh.
Trong một kênh Marketing, thông qua nhiệm vụ và trách nhiệm của các thành
viên kênh từ khâu sản xuất đến tiêu dùng, người ta chia các thành viên kênh thành 2
loại: loại chính thức và loại bổ trợ.
3.1 Thành viên chức thức của kênh.
3.1.1 Định nghĩa:
Thành viên chính thức của kênh là tập hợp các tổ chức hình thành nên cấu trúc
chính thức của một kênh phân phối. Nó tham gia vào quá trình đàm phán để phân chia
những công việc phân phối.
3.1.2 Phân loại:
* Người sản xuất, nhà cung cấp, nhà nhập khẩu: được xác định như là những
phần tử đầu kênh quyết định việc cung cấp cho thị trường những sản phẩm hoặc dịch
vụ được sản xuất từ nhiều ngành, hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau.
* Các nhà trung gian:
- Người bán buôn: là tập hợp những tổ chức, cá nhân mua hàng hoá với khối
lượng lớn để bán lại cho người khác với khối lượng nhỏ hơn, cho người bán lẻ, các
doanh nghiệp sản xuất các tổ chức và cơ quan đoàn thể...
Mức độ tập trung (quy mô) của người bán buôn rất lớn. Người bán buôn thường
có nhân viên, có phương tiện kinh doanh, có khả năng chi phối lớn quan hệ thị trường.
Thường có các dạng bán buôn sau:
+ Người bán buôn hàng hoá: là những người thực hiện đầy đủ các chức năng của
bán buôn nói chung có quyền sở hữu hàng hoá và có khả năng ảnh hưởng tới
Marketing. Họ có ưu thế trong kênh phân phối nhờ quy mô kinh doanh lớn, quan hệ
rộng rãi. Do đó, có thể đạt được sự tín nhiệm của cả nhà sản xuất lẫn các trung gian
khác. Đồng thời có sự gần gũi với khách hàng, vì vậy, người bán buôn hàng hoá
thường đóng vai trò điều khiển kênh. Họ tác động đến người sản xuất và các trung
gian khác thông qua các hoạt động trợ giúp như cung cấp vốn, tư vấn kỹ thuật và cung
cấp thông tin.
+ Đại lý bán buôn: Họ không có quyền sở hữu các sản phẩm về những sản phẩm
được bán ra mà chỉ được hưởng hoa hồng từ người bán buôn hoặc nhà sản xuất. Họ
thực hiện một số công việc hạn chế theo sự phân công như là dự trữ tối thiểu sản
phẩm, cung cấp dịch vụ cho khách hàng, thu thập thông tin... Người có thể cũng đồng
thời tham gia vào việc tiếp xúc với khách hàng để phát triển thị trường và đưa ra
những ý kiến chiến lược cho nhà sản xuất.
+ Môi giới: Có chức năng thiết lập tiếp xúc giữa người sản xuất với những người
bán buôn với cả khoa học công nghiệp. Họ không có quyền sở hữu hàng hoá nhưng
giúp cho sản phẩm vận động đúng hướng, tiết kiệm thời gian và chi phí, giảm bớt
những tổn thất liên quan đến bảo quản dự trữ. Họ còn có thể tư vấn, tập hợp các đơn
đặt hàng vì thế trên thị trường thế giới vai trò của môi giới là rất quan trọng.
+ Chi nhánh và địa diện của người sản xuất: thường được thiết lập để thực hiện
những công việc của lực lượng bán ở các thị trường xa. Đồng thời thực hiện các hoạt
động tiếp xúc khoa học, đơn đặt hàng và thu thập thông tin thị trường. Những đại diện
của người sản xuất thực hiện tập hợp những công việc hạn chế trong một vùng lãnh
thổ nhất định.
- Người bán lẻ: là những cá nhân hay tổ chức mua sản phẩm của người bán buôn
hoặc người sản xuất để bán lại cho người tiêu dùng cá nhân nhằm thoả mãn những nhu
cầu trong tiêu dùng sinh hoạt của họ. Người bán lẻ thường xuyên tiếp xúc với khách
hàng cuối cùng nên hiểu kỹ nhu cầu thị trường, họ có hệ thống cửa hàng phong phú
tiện lợi cho việc bán hàng của họ.
- Người tiêu dùng cuối cùng: là người trực tiếp sử dụng các sản phẩm bán ra từ
nhà sản xuất. Người tiêu dùn cuối cùng là thị trường mục tiêu được đáp ứng bởi các hệ
thống thương mại của kênh, là người ảnh hưởng trực tiếp đến doanh số của các thành
viên khác trong kênh. Nhà sản xuất cần phải nghiên cứu các thay đổi trong nhu cầu
của các thành viên này để có những chính sách thích hợp.
3.2 Các tổ chức bổ trợ.
3.2.1 Công ty vận tải:
Là các cá nhân hay tổ chức thực hiện cung cấp dịch vụ vận tải cho những người
bán buôn hoặc bán lẻ thông qua hình thức tái hoạt động. Do đó, nó có ảnh hưởng quan
trọng đến thời gian, chi phí lưu thông.
3.2.2 Công ty kho vận:
Là những tổ chức chuyên kinh doanh (cung cấp dịch vụ) cho thuê kho bãi, các
phương tiện vận tải, xếp dỡ bằng hệ thống kho bãi của họ. Giúp cho họ điều hoà hệ
thống lưu thông trên thị trường, giảm thiểu những phí tổn trong quá trình bảo quản, dự
trữ, đáp ứng nhu cầu đột biết tăng trên thị trường.
3.2.3 Công ty tài chính:
Là các tổ chức tài chính và định chế, các quỹ tín dụng và tiết kiệm có khả năng
cung cấp vốn, cung cấp các dịch vụ thanh toán và hỗ trợ các hoạt động tài chính cho
các thành viên kênh.
3.2.4 Các công ty quảng cáo:
Cung cấp các dịch vụ quảng cáo cho các thành viên kênh là nhà sản xuất và các
trung gian.
3.2.5 Các công ty bảo hiểm:
Cung cấp dịch vụ bảo hiểm để giảm bớt những rủi ro trong mua bán và thanh
toán bằng các hợp đồng bảo hiểm.
3.2.6 Các công ty Marketing:
Cung cấp các dịch vụ về nghiên cứu tổng quan thị trường, nghiên cứ khách hàng
và các đối thủ cạnh tranh... giúp cho các thành viên kênh có những thông tin chính xác
phục vụ cho việc lập chiến lược và ra quyết định Marketing.
Phần ii
thực trạng hoạt động của hệ thống kênh phân phối dược phẩm của công ty dược
phẩm TW VII
I-/ Khái quát chung về hoạt động kinh doanh và Marketing của công ty dược
phẩm TW VII.
1-/ Khái quát chung về hoạt động kinh doanh.
1.1 Đặc điểm của lĩnh vực kinh doanh dược phẩm.
Hoạt động kinh doanh dược phẩm bao gồm những hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực sản xuất và lưu thông thuốc phòng và chữa bệnh trên thị trường là một ngành
kinh doanh có tính chất đặc thù.
Thứ nhất: làm nhiệm vụ kinh doanh một loại hàng hoá đáp ứng các nhu cầu
thiết yếu của con người. Vì thế nó là một ngành kinh tế lành mạnh, nó đem lại lợi
nhuận cao ngay cả khi nền kinh tế suy thoái. Năm 1993 doanh số thị trường thuốc trên
thế giới là 227 tỷ USD, đến năm 1997 đã là 357 tỷ USD. Theo tài liệu của Bộ Y tế thì
thị trường thuốc Việt Nam hiện nay có mức tăng trưởng rất cao khoảng 20%/năm, với
tỷ lệ lợi nhuận trên tổng số vốn khoảng 18%/năm, vì vậy đây là một ngành kinh doanh
hết sức hấp dẫn.
Là một ngành kinh tế vì vậy nó chịu sự chi phối trực tiếp và mạnh mẽ của các
quy luật thị trường.
Thứ hai: kinh doanh thuốc phòng và chữa bệnh cho nhân dân, một loại hàng hoá
gắn liền với sức khoẻ con người nên nó mang tính chất xã hội sâu sắc và do đó chịu sự
chi phối của các loại tác động khác không phải là các quy luật kinh tế.
Trong cơ chế cũ, cơ chế kế hoạch hoá, do nhấn mạnh tính chất thứ hai của kinh
doanh thuốc, chúng ta đã không tách rời chức năng kinh doanh với chức năng phúc lợi
xã hội khi giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp. Nhà nước can thiệp trực tiếp và thường
xuyên vào hoạt động của doanh nghiệp với nguyên tắc lãi thu, lỗ bù. Doanh nghiệp sản
xuất loại thuốc gì, bán cho ai, giá cả như thế nào đều do Nhà nước chỉ đạo điều đó đã
kìm hãm sự phát triển của sản xuất kinh doanh.
Bước vào cơ chế thị trường, trong lĩnh vực kinh doanh dược phẩm các quy luật
kinh tế dần dần được thừa nhận và tôn trọng. Giống như các ngành kinh tế khác, khi
hoạt động phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, kinh tế dược đã có sự phát triển và
khởi sắc trên nhiều mặt.
Ngoài kinh tế dược quốc doanh, kinh tế dược tư nhân ra đời và phát triển làm cho
mạng lưới cung ứng thuốc đã dần dần đáp ứng được yêu cầu phòng và chữa bệnh cho
nhân dân. Chất lượng thuốc ngày càng được gia tăng, kể cả thuốc sản xuất trong nước
và thuốc nhập khẩu, góp phần đáng kể vào việc bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân
dân, nó cũng làm cho lượng thuốc tính theo đầu người tăng từ 0,3 USD/ngườ