Công tác kế toán là việc không thể thiếu được đối với mọi doanh nghiệp. Kế toán trở
thành một hệ thống quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhờ có hệ thống
kế toán, doanh nghiệp có thể tính được các chi phí sản xuất và dựa trên mục tiêu đề ra
để hạ chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm sao cho có lợi
Mặt khác, kế toán sổ sách chứng từ cũng là một phương tiện để Nhà nước quản lý
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp(trên nguyên tắc lãi hưởng, lỗ chịu) sao
cho doanh nghiệp thực hiện đúng nghĩa vụ đóng thuế đối với nước nhà và đảm bảo rằng
việc kinh doanh của doanh nghiệp không ảnh hưởng đến cá nhân và pháp nhân khác
Bởi vậy, hệ thống kế toán cần phải phù hợp và phản ánh đầy đủ, chính xác hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong chuyên đề này, với kiến thức nhỏ bé của
mình, tôi xin mạnh dạn trình bày vấn đề:"Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng
Licogi."
Nội dung chuyên đề gồm có:
Phần I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
xây lắp ở các DN xây dựng trong giai đoạn hiện nay
Phần II: Tình hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp và một
số ý kiến đề xuất
1. Tình hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Công ty xây
dựng và phát triển hạ tầng Licogi
2. Một số ý kiến đề xuất.
29 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1887 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng Licogi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở
Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng
Licogi
Lời nói đầu
Công tác kế toán là việc không thể thiếu được đối với mọi doanh nghiệp. Kế toán trở
thành một hệ thống quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhờ có hệ thống
kế toán, doanh nghiệp có thể tính được các chi phí sản xuất và dựa trên mục tiêu đề ra
để hạ chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm sao cho có lợi
Mặt khác, kế toán sổ sách chứng từ cũng là một phương tiện để Nhà nước quản lý
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp(trên nguyên tắc lãi hưởng, lỗ chịu) sao
cho doanh nghiệp thực hiện đúng nghĩa vụ đóng thuế đối với nước nhà và đảm bảo rằng
việc kinh doanh của doanh nghiệp không ảnh hưởng đến cá nhân và pháp nhân khác
Bởi vậy, hệ thống kế toán cần phải phù hợp và phản ánh đầy đủ, chính xác hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong chuyên đề này, với kiến thức nhỏ bé của
mình, tôi xin mạnh dạn trình bày vấn đề:"Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty xây dựng và phát triển hạ tầng
Licogi."
Nội dung chuyên đề gồm có:
Phần I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
xây lắp ở các DN xây dựng trong giai đoạn hiện nay
Phần II: Tình hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp và một
số ý kiến đề xuất
1. Tình hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Công ty xây
dựng và phát triển hạ tầng Licogi
2. Một số ý kiến đề xuất.
Phần I
Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây
lắp ở DN xây dựng trong giai đoạn hiện nay
I- Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản của sản phẩm xây lắp
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất có chức năng tạo ra trang thiết bị tài sản
cho tất cả ngành kinh tế quốc dân, góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội. Vì vậy phần
lớn thu nhập quốc dân nói chung và quĩ tích luỹ nói riêng cùng với vốn tài trợ từ nước
ngoài được sử dụng trong lĩnh vực cơ bản.
So với các ngành sản xuất khác, xây dựng cơ bản có những đặc điểm kinh tế kĩ thuật
đặc trưng thể hiện rất rõ ở sản phẩm xây lắp và quá trình sáng tạo ra sản phẩm của
ngành.
Quá trình tạo ra sản phẩm xây lắp, từ khi khởi công xây dựng đến khi công trình
hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng thường dài, phụ thuộc vào quy mô và tính chất
phức tạp của từng công trình. Quá trình thi công xây dựng này được chia thành nhiều
giai đoạn lại bao gồm nhiều công việc khác nhau. Các công việc này chủ yếu được thực
hiện ngoài trời nên chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố thiên nhiên như: nắng, mưa, gió, bão,
lụt... Do đó quá trình và điều kiện thi công có tính ổn định, phải di chuyển theo địa
điểm đặt sản phẩm và theo từng giai đoạn thi công công trình.
Đặc điểm này làm cho việc tổ chức, quản lý và hạch toán trong xây dựng cơ bản khác
với các ngành khác. Cụ thể là mỗi công trình đều được thi công theo đơn đặt hàng
riêng, phụ thuộc yêu cầu của khách hàng và yêu cầu kĩ thuật của công trình đó. Sản
phẩm xây lắp phải lập dự toán, quá trình sản xuất phải so sánh với dự toán, lấy dự toán
làm thước đo. Khi thực hiện các đơn đặt hàng của khách hàng, các đơn vị xây lắp phải
đảm bảo giao đúng tiến độ, đúng thiết kế kĩ thuật, đảm bảo chất lượng công trình.
II- Lý luận chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.
1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí trong doanh nghiệp xây dựng.
1.1. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng.
Quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình
biến đổi một cách có ý thức và có mục đích các yếu tố sản xuất đầu vào thành các công
trình, lao vụ nhất định.
Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao
phí về lao động sống, lao động vật hoá và các hao phí cần thiết khác mà các doanh
nghiệp phải bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất thi công trong một thời kì nhất định.
1.2. Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng:
Trong doanh nghiệp xây dựng, các chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại có nội dung
kinh tế và công dụng khác nhau, yêu cầu quản lý đối với từng loại chi phí cũng khác
nhau.
Vì vậy phân loại chi phí sản xuất một cách khoa học và thống nhất không những có ý
nghĩa quan trọng đối với công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm mà còn là tiền đề rất quan trọng của kế hoạch hoá, kiểm tra và phân tích chi phí
sản xuất của toàn doanh nghiệp, thúc đẩy không ngừng tiết kiệm hợp lý chi phí sản
xuất, hạ giá thành, phát huy hơn nữa vai trò của công tác kế toánđối với sự phát triển
của doanh nghiệp.
Tuỳ theo yêu cầu quản lý, đối tượng cung cấp thông tin, giác ngộ xem xét chi phí...
mà chi phí sản xuất được phân loại theo cách sau:
1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất, kinh doanh theo yếu tố chi phí:
- Chi phí nguyên vật liệu.
- Chi phí nhiên liệu động lực.
- Chi phí lương và các khoản phụ cấp lương.
- BHXH, BHYT, KPCĐ.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài.
- Chi phí khác bằng tiền.
Phân loại chi phí sản xuất thao cách này có tác cho biết kết cấu, tỷ trọng từg loại chi
phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh để lập
bảng thuyết minh báo cáo tài chính (phần chi phí sản xuất, kinh doanh theo yếu tố) phục
vụ theo yêu cầu thông tin và quảng trị doanh nghiệp để phân tích tình hình thực hiện dự
toán chi phí, lập dự toán chi phí sản xuất, kinh doanh cho kỳ sau. Nó là tài liệu quan
trọng dùng làm căn cứ để xác định mức tiêu hao vật chất và thu nhập quốc dân.
1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất, kinh doanh theo mục đích, công dụng của chi
phí(khoản mục):
Theo cách phân loại này toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
- Chi phí sản xuất, chế tạo sản xuất.
Chi phí này chia thành:
+ Chi phí trực tiếp.
+ Chi phí gián tiếp.
-Chi phí bán hàng.
-Chi phí hoạt động khác.
-Chi phí quản lý doanh nghiệp.
Theo cách phân loại này, các chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm là những chi phí cấu
thành trong giá thành sản phẩm theo các khoản mục giá thành đã qui định, đó là: Chi
phí NVL trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
ở các doanh nghiệp xây dựng, do đặc điểm sản xuất của ngành, ngoài ba loại chi phí:
Chi phí NVL trực tiếp, nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung còn thêm chi phí
máy sử dụng thi công là toàn bộ những chi phí phục vụ cho sử dụng máy thi công như:
chi phí nguyên liệu cho máy, chi phí nhân công sử dụng máy, chi phí khấu hao máy.
Phân loại chi phí sản xuất theo cách này có tác dụng xác định số chi phí đã chi ra cho
từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, là cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm và
xác định kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, nó còn cho phép xác định
những chi phí tính trong giá thành sản phẩm,lao vụ hoàn thành, mà chỉ tính cho số sản
phẩm, lao vụ đã tiêu thụ, đã bán cho phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường.
Ngoài hai cách phân loại chủ yếu trên, phục vụ cho công tác quản lý và công tác kế
toán, chi phí sản xuất, kinh doanh còn có thể phân loại theo các tiêu thức như: Căn cứ
vào mối quan hệ giữa chi phí sản xuất kinh doanh với số khối lượng sản phẩm lao vụ
hoàn thành (chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi): Căn cứ vào phương pháp kế
toán tập hợp chi phí (chia thành chi phí trực tiếp và chi phí phân bổ gián tiếp)...
Mỗi cách phân loại chi phí sản xuất có ý nghĩa riêng, phục vụ cho từng yêu cầu quản
lý và từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể nhưng chúng luôn bổ xung cho nhau
nhằm quản lý có hiệu quả nhất toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong toàn doanh
nghiệp trong từng thời kì nhất định.
2. Giá thành và các loại giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây dựng.
2.1. Giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây dựng.
Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí sản xuất (bao gồm chi phí vật liệu, chi
phí nhân công, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung) tính cho từng
công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành đến giai đoạn qui
ước đã hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao và chấp nhận thanh toán.
Khác với doanh nghiệp công nghiệp, ở doanh nghiệp xây dựng, giá thành sản phẩm
xây lắp mang tính chất cá biệt: mỗi công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây
lắp sau khi đã hoàn thành đều có một giá riêng.
Hơn nữa, khi một doanh nghiệp được nhận thầu một công trình thì giá bán (giá nhận
thầu) đã có ngay trước khi thi công công trình. Tức là giá bán có trước khi xác định giá
thành thực tế của công trình đó. Do đó, giá thành thực tế của một công trình hoàn thành
hay khối lượng lao vụ hoàn thành chỉ quyết định tới lãi hoặc lỗ của doanh nghiệp do
thực hiện thi công công trình đó mà thôi.
Giá thành là một bộ phận giá trị biểu hiện bằng tiền, do đó nó là một phạm trù kinh tế
khách quan bởi sự chuyển dịch của giá trị tư liệu sản xuất và lao động sống đã hao phí
vào sản xuất ra là cần thiết tất yếu.
- Tính vào giá thành một số khoản mục chi phí mà thực chất là thu nhập thuần tuý của
xã hội như: bảo hiểm xã hội, các khoản trích nộp cho cơ quan cấp trên, thuế vốn, thuế
tài nguyên...
- Một số khoản mục chi phí gián tiếp được phân bổ vào giá thành của từng loại sản
phẩm hay từng sản phẩm theo các tiêu thức phù hợp.
2.2. Phân biệt khái niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.
Chi phí sản xuất là cơ sở để hình thành nên giá thành.
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có sự khác nhau về phạm vi,
giới hạn và nội dung.
Chi phí sản xuất chỉ tính trong một thời kỳ còn giá thành lại liên quan đến cả chi phí
của khối lượng xây lắp kỳ trước chuyển sang nhưng lại không bao gồm chi phí thực tế
của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ.
Chi phí sản xuất được tập hợp theo từng thời kỳ nhất định còn giá thành sản phẩm
xây lắp là chi phí sản xuất được tính cho một công trình, hạng mục công trình hay khối
lượng xây lắp hoàn thành.
Tuy nhiên, giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp lại có những điểm
giống nhau. Chúng đều phản ánh chi phí lao động trong quá trình sản xuất.
Giá thành sản phẩm xây lắp và chi phí sản xuất của công tác xây lắp thống nhất về
mắt lượng trong trường hợp đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá
thành là một công trình, hạng mục công trình được hoàn thành trong kỳ tính giá thành
hoặc giá trị khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ và đầu kỳ bằng nhau.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Tài liệu kế toán tập hợp chi phí sản xuất là cơ sở và căn cứ để tính giá thành sản phẩm.
Nếu coi như tính giá thành sản phẩm là công việc chủ yếu trong công tác kế toán thì
công tác chi phí sản xuất có tác dụng quyết định đến tính chính xác của tính giá thành
sản phẩm xây lắp.
2.3 Các loại giá thành sản phẩm xây lắp:
2.3.1. Giá thành dự toán công tác xây lắp:
2.3.2.Giá thành kế hoạch công tác xây lắp:
(Tính cho từng công trình, hạng mục công trình)
2.3.3.Giá thành thực tế công tác xây lắp:
Giá thành thực tế công tác xây lắp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các chi phí trực
tiếp thực tế mà doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra để hoàn thành một đối tượng xây lắp nhất
định và được xác định theo sốliệu kế toán cung cấp.
Giữa ba loại giá thành trên thường có mối quan hệ về mặt lượng như sau:
Giá thành dự toán >=Giá thành kế hoạch >= Giá thành thực tế
Việc so sánh các loại giá thành này được thực hiện trên cùng một đối tượng tính giá
thành (từng công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành nhất
định).
2.3.4. Giá thành của khối lượng hoàn chỉnh và giá thành khối lượng hoàn thành qui
ước.
Giá thành dự
toán của từng
công trình,
hạng mục công
=
Giá thành
dự toán của
công trình,
hạng mục
+
Lãi
định
mức
Giá thành
kế hoạch
công tác
xây lắp
=
Giá
thành dự
toán
công tác
+
Mức hạ
giá
thành
kế
Giá thành khối lượng hoàn chỉnh là giá thành của những công trình, hạng mục công
trình đã hoàn thành, đảm bảo kỹ thuật, chất lượng đúng thiết kế và hợp đồng, bàn giao,
được bên chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán.
Tuy nhiên, chỉ tiêu này không đáp ứng được một cách kịp thời các số liệu cần thiết
cho việc quản lý sản xuất và giá thành thi công công trình.
Do đó, để đáp ứng được yêu cầu quản lý và đảm bảo sản xuất kịp thời đòi hỏi phải
xác định giá thành khối lượng hoàn thành qui ước.
Khối lượng xây lắp được hoàn thành là khối lượng xây lắp hoàn thành đến giai đoạn
nhất định và phải thoả mãn các điều kiện sau:
- Phải nằm trong thiết kế và đảm bảo chất lượng kĩ thuật.
- Khối lượng này phải xác định được một cách cụ thể và được bên chủ đầu tư nghiệm
thu chấp nhận thanh toán.
Phải đạt đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý.
Giá thành khối lượng hoàn thành qui ước phản ánh được kịp thời chi phí sản xuất cho
đối tượng xây lắp trong quá trình thi công xây lắp, từ đó giúp cho doanh nghiệp phân
tích kịp thời các chi phí đã chi ra cho từng đối tượng để có biện pháp quản lý thích hợp
và cụ thể.
Nhưng nó lại không phản ánh một cách toàn diện, chính xác giá thành toàn bộ công
trình, hạng mục công trình.
Dó đó, để đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về quản lý giá thành là kịp thời, chính xác,
toàn diện và có hiệu quả thì phải sử dụng cả hai chỉ tiêu trên.
III- Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây
lắp.
1. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất.
1.1. Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất:
Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn mà các chi phí sản
xuất phát sinh được tập hợp theo phạm vi, giới hạn đó.
Để xác định được đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất ở từng doanh nghiệp
cần phải dựa vào các yếu tố sau:
- Tính chất sản xuất, loại hình sản xuất, đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm qui trình
công nghệ sản xuất sản phẩm...
- Căn cứ vào yêu cầu tính giá thành, yêu cầu quản lý, khả năng trình độ quản lý, trình
độ hạch toán của doanh nghiệp...
Dựa vào những căn cứ trên, đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất trong các
doanh nghiệp xây dựng thường được xác định là từng công trình, hạng mục công trình
hay theo từng đơn đặt hàng.
1.2. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất:
Cũng như tất cả các doanh nghiệp sản xuất khác, tuỳ thuộc vào mô hình sản xuất là
lớn, vừa hay nhỏ mà chọn cho mình một trong hai phương pháp kế toán nào cho phù
hợp.
- Phương pháp kê khai thường xuyên.
- Phương pháp kiểm kê định kỳ.
Mỗi doanh nghiệp chỉ được sử dụng một trong hai phương pháp trên, những doanh
nghiệp sử dụng phương pháp kê khai thường xuyên thường là những doanh nghiệp có
qui mô sản xuất, kinh doanh lớn, tiến hành nhiều loại hoạt động sản xuất kinh doanh
khác nhau. Trái lại, những doanh nghiệp sử dụng phương pháp kiểm kê định kỳ là
những doanh nghiệp có qui mô sản xuất, kinh doanh nhỏ, chỉ tiến hành một loại sản
xuất kinh doanh.
2- Đánh giá sản phẩm làm dở trong doanh nghiệp xây dựng:
Sản phẩm làm dở trong các doanh nghiệp xây dựng có thể là công trình, hạng mục
công trình dở danh chưa hoàn thành hay khối lượng công tác xây lắp dở dang trong kỳ
chưa được bên chủ đầu tư nghiệm thu, chấp nhận thanh toán.
Đánh giá sản phẩm làm dở là việc tính toán, xác định phần chi phí sản xuất trong kỳ
cho khối lượng sản phẩm làm dở cuối kỳ theo những nguyên nhân nhất định.
Để xác định được giá thành sản phẩm một cách chính xác, một trong những điều kiện
quan trọng là phải đánh giá chính xác sản phẩm làm dở cuối kỳ, tức là xác định số chi
phí sản xuất tính cho sản phẩm cuối kỳ phải chịu.
Muốn như vậy phải tổ chức kiểm kê chính xác khối lượng xây lắp dở dang có ảnh
hưởng đến tính chính xác của việc đánh giá sản phẩm làm dở và tính giá thành.
Trong các doanh nghiệp xây dựng, do đặc điểm của sản phẩm xây dựng là có kết cấu
phức tạp, công tác xác định mức độ hoàn thành của nó là rất khó khăn nên khi đánh giá
sản phẩm làm dở, kế toán cần kết hợp chặt chẽ với bộ phận kỹ thuật và bộ phận tổ chức
lao động.
3- Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp:
3.1. Đối tượng tính giá thành trong doanh nghiệp xây dựng:
Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp sản
xuất ra và cần phải tính được giá thành và giá thành đơn vị.
Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác tính
giá thành. Bộ phận kế toán giá thành phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất của doanh
nghiệp, các loại sản phẩm và lao vụ mà doanh nghiệp sản xuất, tính chất sản xuất và
cung cấp sử dụng chúng để xác định đối tượng tính giá thành cho thích hợp.
Trong các doanh nghiệp xây dựng, đối tượng tính giá thành thường trùng hợp với đối
tượng tập hợp chi phí sản xuất, đó có thể là: công trình, hạng mục công trình hay khối
lượng xây lắp hoàn thành bàn giao.
3.2. Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp:
Phương pháp tính giá thành sản phẩm là phương pháp sử dụng số liệu về chi phí sản
xuất để tính toán ra tổng giá thành và giá thành đơn vị thực tế của sản phẩm lao vụ đã
hoàn thành theo các yếu tố hoặc khoản mục giá thành trong thời kỳ tính giá thành đã
được xác định.
Kỳ giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành cần phải tiến hành công việc tính
giá thành cho các đối tượng tính giá thành.
Tuỳ thuộc đặc điểm của từng đối tượng tính giá thành và mối quan hệ giữa đối tượng
tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành mà kế toán áp dụng một hay nhiều
phương pháp tính giá thành thích hợp.
Phần II
Tình hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp và một số ý
kiến đề xuất
I- Tình hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Công
ty.
1. Đặc điểm của Công ty.
Công ty có đầy đủ tư cách pháp nhân, là đơn vị hạch toán độc lập, có tài khoản tiền
gửi riêng tại Ngân hàng nên công ty hoàn toàn chủ động trong việc liên hệ, ký kết các
hợp đồng kinh tế với khách hàng.
Về đặc điểm tổ chức sản xuất, công ty thống nhất tổ chức bộ máy theo mô hình đứng
đầu là giám đốc, dưới có 2 phó giám đốc, các phòng ban và có 2 đội trưởng lãnh đạo
trực thuộc giám đốc quản lý.
Giám đốc là người đứng đầu: thay mặt Nhà nước quản lý công ty theo chế độ thủ
trưởng chịu trách nhiệm chung về mọi mặt hoạt động sản xuất và kinh doanh.
Phó giám đốc kỹ thuật: chịu trách nhiệm trước giám đốc, điều hành phòng kế hoạch
kỹ thuật về việc lập kế hoạch và kỹ thuật thi công các công trình và cung cấp thông tin
cho giám đốc.
Phó giám đốc hành chính: phụ trách phòng tổ chức- hành chính giúp giám đốc nắm
được tình hình về nhân sự, cán bộ, đào tạo, lao động, tiền lương, BHXH...
Phòng kế toán tài chính: đứng đầu là kế toán trưởng chịu trách nhiệm trước giám đốc
phụ trách phòng, phân công việc cho kế toán viên, có nhiệm vụ thu thập xử lý và cung
cấp đầy đủ các thông tin về tài chính của công ty cho giám đốc.
Với mô hình tổ chức sản xuất quản lý này, công ty có điều kiện quản lý chặt chẽ về
mặt tài chính tới từng đội, các phòng ban, đồng thời tăng được hiệu quả trong sản xuất.
Bộ máy kế toán được tổ chức theo hình thức tập trung.
Kế toán
trưởng
Kế toán
viên 1
Kế toán
viên 2
Thủ
quỹ
Kế
toá
n
vật
Kế
toá
n
tiề
Kế
toá
n
tiề
Kế
toán
TSCĐ
Kế
toán
than
h
Kế
toá
n
tổn
Đội thi công
công trình
Hiện nay công ty đang áp dụng hình thức sổ kế toán nhật ký chứng từ, một hình thức
đang được các công ty áp dụng rộng rãi vì giảm bớt được khối lượng ghi chép, cung cấp
thông tin được kịp thời lại thuận tiện cho việc phân công công tác.
2. Tình hình thực tế về tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp ở công ty.
a- Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất.
Xuất phát từ đặc đi