Luận văn Hoàn thiện công tác kế toàn tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty cổ phần Thành Công - Nam Định

Trong mọi chế độ xã hội, việc sáng tạo ra của cải vật chất đều không tách rời lao động. Lao động là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Ngay từ khi xuất hiện để duy trì sự sống con người đã tiêu hao một lượng của cải vật chất nhất định để thoả mãn những nhu cầu sinh hoạt như ăn, ở, mặc. Muốn có lượng của cải vật chất này không còn cách nào khác là con người phải lao động. Qua lao động con người khám phá ra thế giới xung quanh nắm bắt được quy luật tự nhiên. Để quá trình sản xuất ở các doanh nghiệp được diễn ra thường xuyên liên tục thì một vấn đề thiết yếu là phải tái tạo sức lao động. Vì vậy, khi họ tham gia hoạt động SXKD ở các doanh nghiệp thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải trả họ một khoản thù lao bằng chính sức lao động mà họ bỏ ra đó chính là tiền lương. Với người lao động, tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của họ, các doanh nghiệp sử dụng tiền lương, làm đòn bẩy kinh tế để khuyến khích tinh thần, tích cực lao động chấp hành tốt kỷ luật lao động, là nhân tố thúc đẩy năng suất lao động, hiệu suất công việc và nâng cao đời sống cho người lao động. Đối với doanh nghiệp, quản lý tiền lương là nội dung quan trọng trong công tác quản lý SXKD . Tiền lương phải trả cho người lao động là một phần chi phí cấu thành nên giá thành sản phẩm dịch vụ do doanh nghiệp tạo ra. Do vậy, các doanh nghiệp phải sử dụng lao động sao cho phù hợp có hiệu quả để tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm. Nó còn là nhân tố giúp doanh nghiệp đứng vững, hoàn thành và vượt mức kế hoạch sản xuất, công tác quản lý lao động đi vào nề nếp thúc đẩy SXKD phát triển . Gắn liền với quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng lao động cũng như người lao động các khoản trích theo lương như BHXH, BHYT, KPCĐ. Các khoản này thể hiện sự hỗ trợ giữa các thành viên trong xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương. Sau thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Thành Công Nam Định được sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo Công ty, phòng Tài chính Kế toán cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo GS.TS Lương Trọng Yêm, em đã nghiên cứu đề tài " Hoàn thiện công tác kế toàn tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Cổ phần Thành Công Nam Định" Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của bài luận văn này được chia thành 3 chương. Chương 1: Những vấn đề cơ bản về kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương. Chương 2: Thực trạng công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Cổ phần Thành Công Nam Định. Chương 3: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty Cổ phần Thành Công Nam Định.

doc47 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2049 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác kế toàn tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty cổ phần Thành Công - Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trong mọi chế độ xã hội, việc sáng tạo ra của cải vật chất đều không tách rời lao động. Lao động là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Ngay từ khi xuất hiện để duy trì sự sống con người đã tiêu hao một lượng của cải vật chất nhất định để thoả mãn những nhu cầu sinh hoạt như ăn, ở, mặc. Muốn có lượng của cải vật chất này không còn cách nào khác là con người phải lao động. Qua lao động con người khám phá ra thế giới xung quanh nắm bắt được quy luật tự nhiên. Để quá trình sản xuất ở các doanh nghiệp được diễn ra thường xuyên liên tục thì một vấn đề thiết yếu là phải tái tạo sức lao động. Vì vậy, khi họ tham gia hoạt động SXKD ở các doanh nghiệp thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải trả họ một khoản thù lao bằng chính sức lao động mà họ bỏ ra đó chính là tiền lương. Với người lao động, tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của họ, các doanh nghiệp sử dụng tiền lương, làm đòn bẩy kinh tế để khuyến khích tinh thần, tích cực lao động chấp hành tốt kỷ luật lao động, là nhân tố thúc đẩy năng suất lao động, hiệu suất công việc và nâng cao đời sống cho người lao động. Đối với doanh nghiệp, quản lý tiền lương là nội dung quan trọng trong công tác quản lý SXKD . Tiền lương phải trả cho người lao động là một phần chi phí cấu thành nên giá thành sản phẩm dịch vụ do doanh nghiệp tạo ra. Do vậy, các doanh nghiệp phải sử dụng lao động sao cho phù hợp có hiệu quả để tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm. Nó còn là nhân tố giúp doanh nghiệp đứng vững, hoàn thành và vượt mức kế hoạch sản xuất, công tác quản lý lao động đi vào nề nếp thúc đẩy SXKD phát triển . Gắn liền với quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng lao động cũng như người lao động các khoản trích theo lương như BHXH, BHYT, KPCĐ. Các khoản này thể hiện sự hỗ trợ giữa các thành viên trong xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương. Sau thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Thành Công Nam Định được sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo Công ty, phòng Tài chính Kế toán cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo GS.TS Lương Trọng Yêm, em đã nghiên cứu đề tài " Hoàn thiện công tác kế toàn tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Cổ phần Thành Công Nam Định" Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của bài luận văn này được chia thành 3 chương. Chương 1: Những vấn đề cơ bản về kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương. Chương 2: Thực trạng công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Cổ phần Thành Công Nam Định. Chương 3: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty Cổ phần Thành Công Nam Định. Trong khuôn khổ bài luận văn của mình em đã trình bày một cách cô đọng nhất những vấn đề cơ bản về tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Cổ phần Thành Công Nam Định. Để hoàn thành được bài luận văn của mình, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn GS.TS Lương Trọng Yêm đã chỉ bảo em một cách tận tình để bài luận văn của em hoàn thiện hơn . Đồng thời em cũng xin cảm ơn các cô chú, anh chị ở phòng Tài chính Kế toán của Công ty cổ phần Thành Công Nam Định đã giúp em trong thời gian thực tập tại Công ty. Do còn những hạn chế về thời gian cũng như trình độ hiểu biết về lý luận thực tiễn, bài viết của em không tránh khỏi những thiếu xót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của Thầy Cô, bạn bè để bài luận văn của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Nam Định, ngày 10/10/2005 Sinh viên: Đoàn Thị Hảo CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG. I.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG. 1. Những vấn đề cơ bản về lao động và tiền lương. Bất kì nền sản xuất nào, kể cả nền sản xuất hiện đại đều có đặc trưng chung là sự tác động của con người vào các yếu tố lực lượng tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Vì vậy, quá trình sản xuất diễn ra đòi hỏi phải liên tục tiêu dùng các yếu tố lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động. Trong đó, lao động với tư cách là hoạt động chân tay và trí óc của con người sử dụng các tư liệu lao động nhằm tác động, biến đổi các đối tượng lao động thành các vật phẩm có ích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của mình. Chính vì vậy quản lý lao động là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý toàn diện các đơn vị SXKD. Sử dụng lao động hợp lý là tiết kiệm về lao động sống, góp phần hạ thấp giá thành sản phẩm tăng doanh lợi cho doanh nghiệp và nâng cao đời sống cho người lao động. Nhằm thực hiện mục tiêu toàn diện trên, các doanh nghiệp cần phải chú ý đến 2 vấn đề là sử dụng lao động và bồi dưỡng lao động. Trước hết là cần phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động mà con người bỏ ra cần phải được bồi hoàn dưới dạng thù lao lao động đó là tiền lương. Tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền với lao động, tiền tệ và nền sản xuất hàng hoá. Ngoài ra tiền lương thực chất là một phần thu nhập quốc dân biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được nhà nước phân phối có kế hoạch cho công nhân viên chức phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi người đã cống hiến. Tiền lương phản ánh việc trả công cho công nhân viên chức dựa trên nguyên tắc phân phối lao động nhằm tái sản xuất sức lao động bù đắp hao phí lao động của con người lao động đã bỏ ra trong quá trình SXKD của doanh nghiệp. 2. Khái niệm về tiền lương. Tiền lương (tiền công) là phần thù lao lao động phải trả cho người lao động căn cứ vào thời gian lao động, số lượng và chất lượng mà người lao động đã bỏ ra để tái sản xuất sức lao động, bù đắp hao phí mà người lao động đã bỏ ra trong quá trình hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống cần thiết mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng công việc mà người lao động đã cống hiến cho doanh nghiệp. Trên thực tế, cái mà người lao động quan tâm không phải là khối lượng tiền lương mà là khối lượng tư liệu sinh hoạt mà họ nhận được thông qua tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế. - Tiền lương danh nghĩa: là khối lượng tiền lương người lao động nhận được theo hợp đồng giữa người sử dụng lao động và người lao động - Tiền lương thực tế: là số lượng tư liệu sinh hoạt và dịch vụ mà người lao động có thể mua được bằng tiền lương của mình sau khi đóng các khoản thuế theo quy định của Nhà nước. Ngoài ra, tiền lương còn được coi là một trong những công cụ đòn bẩy kinh tế rất quan trọng để khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với người lao động và là yếu tố của hệ thống đòn bẩy trong cơ chế quản lý kinh tế. Ngoài tiền lương, người lao động còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc phúc lợi xã hội trong đó có trợ cấp như BHXH, BHYT 3. Bản chất và ý nghĩa của tiền lương. Bản chất của tiền lương: - Là giá cả sức lao động được hình thành trên cở sở giá trị sức lao động thông qua sự thoả thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động. - Là đòn bẩy kinh tế để khuyến khích tinh thần hăng hái lao động, kích thích và tạo mối quan tâm của người lao động đến kết quả công việc của họ. - Là nhân tố thúc đẩy năng suất lao động. Ý nghĩa: Tiền lương có ý nghĩa rất quan trọng là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động, là yếu tố chi phí sản xuất, là một bộ phận cấu thành nên giá thành sản phẩm, dịch vụ. Mục đích của nhà sản xuất là lợi nhuận còn mục đích của người lao động là tiền lương 4. Đặc điểm của tiền lương Tiền lương hình thành trên cơ sở sự thoả thuận giữa người lao động và người có nhu cầu về sử dụng lao động. Tiền lương chịu sự chi phối của quy luật giá trị: Tiền lương có thể cao hơn, bằng hoặc thấp hơn giá trị sức lao động mà người lao động đã bỏ ra trong suốt quá trình lao động. Tiền lương chịu sự chi phối của quy luật cung cầu: Nếu cầu về sức lao động lớn thì người có nhu cầu sử dụng sức lao động sẽ sẵn sàng trả lương cao hơn cho người lao động để giữ chân họ tiếp tục cung cấp sức lao động cho mình chứ không phải cho người khác. Ngược lại, nếu cung về lao động hơn cầu về lao động thì đương nhiên người có nhu cầu về sức lao động sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn sức lao động, họ sẵn sàng từ chối người lao động mà yêu cầu đòi lương cao để tìm người lao động khác đang cần họ với số tiền lương thấp hơn, chất lượng lao động có thể tốt hơn. 5. Các hình thức trả lương Việc tính và trả lương có thể thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo đặc điểm hoạt động kinh doanh, tính chất công việc và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Trên thực tế thường áp dụng các hình thức tiền lương sau: 5.1 Hình thức trả lương theo thời gian. Đây là hình thức trả lương căn cứ vào thời gian làm việc, vào lương cấp bậc yêu cầu để tính lương cho CBCNV. Hình thức này áp dụng chủ yếu đối với CBCNV làm việc ở bộ phận gián tiếp. Trong đó có hai loại: a, Trả lương theo thời gian giản đơn: Đây là số tiền trả cho người lao động căn cứ vào lương cấp bậc và thời gian làm việc thực tế, không xét đến thái độ lao động và kết quả công việc. Chế độ trả lương này áp dụng cho người lao động mà không thể định mức và tính toán chặt chẽ hoặc công việc của mỗi người lao động chỉ đòi hỏi đảm bảo chất lượng sản phẩm mà không đòi hỏi tăng năng suất lao động. Đơn vị để tính tiền lương theo thời gian giản đơn là lương tháng, lương ngày hoặc lương giờ: + Lương tháng: Được áp dụng để trả lương cho công nhân viên làm công tác quản lý kinh tế, quản lý hành chính và các nhân viên thuộc ngành hoạt động không có tính chất sản xuất. Mức lương tháng  =  Mức lương tối thiểu x Hệ số lương Số ngày trong tháng  x  Số ngày làm việc thực tế   + Lương ngày: Được áp dụng để trả lương cho người lao động trực tiếp hưởng lương thời gian, tính trả lương cho người lao động trong những ngày hội họp, học tập hoặc làm nghĩa vụ khác và làm căn cứ để tính trợ cấp BHXH. Mức lương ngày  =  Mức lương tháng theo cấp bậc Số ngày làm việc (26 ngày)  x  Hệ số các loại phụ cấp (nếu có)   + Lương giờ: Được áp dụng để trả lương cho người lao động trực tiếp trong thời gian làm việc không hưởng lương theo sản phẩm. Mức lương giờ  =  Mức lương ngày Số giờ làm việc trong ngày(8giờ)   b, Trả lương theo thời gian có thưởng: Thực chất là sự kết hợp giữa tiền lương trả theo thời gian giản đơn với các chế độ tiền thưởng khi công nhân vượt mức chỉ tiêu số lượng và chất lượng quy định. Hình thức này thường được áp dụng cho công nhân phụ, làm việc phục vụ như công nhân sửa chữa, điều chỉnh thiết bị hoặc công nhân chính làm việc ở những nơi có trình độ cơ khí hoá, công việc tuyệt đối phải đảm bảo chất lượng. Mức lương  =  Lương theo thời gian giản đơn  +  Tiền thưởng   Hình thức này có những ưu điểm hơn hình thức trả lương theo thời gian giản đơn. Nó quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc phân phối theo lao động bởi vì việc trả lương không chỉ xét tới thời gian lao động và trình độ tay nghề mà còn xét tới thái độ lao động, ý thức trách nhiệm, tinh thần sáng tạo trong lao động thông qua hình thức trả lương. Do hình thức trả lương theo thời gian còn nhiều hạn chế không khuyến khích người lao động hăng hái làm việc cũng như không phát huy được tính chủ động, sáng tạo đối với sản phẩm nên ít được sử dụng. 5.2. Hình thức trả lương theo sản phẩm Là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào số lượng, chất lượng sản phẩm, công việc đã hoàn thành đảm bảo yêu cầu chất lượng và đơn giá tiền lương tính theo một đơn vị sản phẩm công việc nào đó. Việc xác định tiền lương sản phẩm phải dựa trên cơ sở các tài liệu về hạch toán kết quả lao động, chẳng hạn như phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành và đơn giá tiền lương mà doanh nghiệp áp dụng đối với từng loại sản phẩm, công việc … Đây là hình thức trả lương phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động, tiền lương gắn liền với số lượng lao động, chất lượng lao động. Vì vậy đã khuyến khích người lao động hăng say lao động, góp phần làm tăng sản phẩm, tăng năng suất lao động cho xã hội. Tuỳ theo tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp mà áp dụng những hình thức trả lương khác nhau. Các hình thức này gồm: - Tiền lương sản phẩm trực tiếp là hình thức trả lương căn cứ vào số lượng và chất lượng sản phẩm mà người công nhân đó hoàn thành trong thời gian làm việc và được xác định bằng số lượng sản phẩm đã sản xuất ra với đơn giá mỗi đơn vị sản phẩm được trả. Công thức: Lt  =  Q  x  Đg   Trong đó: Lt:Tiền lương trả theo sản phẩm cá nhân trực tiếp Q: Số lượng sản phẩm hợp quy cách Đg: Đơn giá tiền lương cho một đơn vị sản phẩm Hình thức này đơn giản dễ hiểu đối với mọi công nhân. Nó được áp dụng rộng rãi trong các xí nghiệp công nghiệp đối với công nhân trực tiếp sản xuất mà công việc có thể định mức và hạch toán kết quả riêng cho từng ngành. Tuy nhiên hình thức này cũng không khuyến khích người công nhân quan tâm đến thành tích chung của tập thể. - Tiền lương sản phẩm gián tiếp: áp dụng để trả lương cho công nhân phục vụ sản xuất như công nhân điều chỉnh máy, vận chuyển vật liệu… Căn cứ vào năng suất lao động của công nhân trực tiếp sản xuất để tính lương cho công nhân phục vụ. Nhờ đó, bộ phận công nhân phục vụ sẽ phục vụ tốt hơn và quan tâm hơn đến kết quả phục vụ, kết quả sản xuất. Công thức: Lp  =  Sc  x  Đsp   Trong đó: Lp: Tiền lương công nhân phục vụ Sc: sản lượng sản phẩm của công nhân chính Đsp: đơn giá lương sản phẩm trực tiếp - Tiền lương sản phẩm luỹ tiến: là việc trả lương trên cơ sở sản phẩm trực tiếp, đồng thời căn cứ vào mức độ hoàn thành định mức sản xuất. Mức độ hoàn thành định mức càng cao thì suất lương luỹ tiến càng lớn. Nhờ vậy, trả lương theo sản phẩm luỹ tiến sẽ kích thích được người lao động tăng nhanh năng suất lao động. - Hình thức tiền lương sản phẩm có thưởng: là việc kết hợp chế độ tiền lương theo sản phẩm với chế độ tiền thưởng ở các doanh nghiệp, việc áp dụng hình thức này nhằm mục đích nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí, tăng năng suất lao động …. - Tiền lương theo sản phẩm tập thể: Tiền lương căn cứ vào số lượng sản phẩm của cả tổ và đơn giá chung để tính lương cho cả tổ. Sau đó phân phối lại cho từng người trong tổ. Phương pháp này cũng giống như đối với cá nhân trong chế độ tiền lương sản phẩm cá nhân trực tiếp. 5.3. Hình thức trả lương khoán Là hình thức trả lương cho người lao động theo khối lượng và chất lượng công việc mà họ hoàn thành. Chế độ trả lương khoán áp dụng cho những công việc, nếu giao chi tiết bộ phận sẽ không có lợi bằng giao toàn bộ khối lượng cho công nhân hoàn thành trong một thời gian nhất định. Chế độ trả lương này áp dụng trong xây dựng cơ bản và một số công việc trong nông nghiệp áp dụng cho cá nhân và tập thể. Ưu điểm: khuyến khích công nhân hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn, bảo đảm chất lượng công việc thông qua hợp đồng làm khoán tập thể. Nhược điểm: khi tính toán đơn giá phải hết sức chặt chẽ, tỉ mỉ để xây dựng đơn giá lương chính xác cho công nhân khoán. Tóm lại: việc trả lương cho người lao động không chỉ căn cứ vào thang lương, bậc lương, các định mức tiêu chuẩn mà còn phải lựa chọn hình thức tiền lương thích hợp với điều kiện cụ thể của từng ngành, từng doanh nghiệp. Có như vậy mới phát huy được tác dụng của tiền lương vừa phản ánh lao động hao phí trong quá trình sản xuất vừa làm đòn bẩy kích thích người lao động nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh. 6. Quỹ tiền lương và các khoản trích theo lương. 6.1. Quỹ tiền lương Quỹ tiền lương là toàn bộ số tiền lương mà doanh nghiệp trả cho tất cả lao động thuộc doanh nghiệp quản lý và sử dụng. Về măt hạch toán, quỹ tiền lương của doanh nghiệp được chia làm 2 loại: - Tiền lương chính: là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian làm nhiệm vụ chính đã quy định cho họ bao gồm tiền lương cấp bậc, các khoản phụ cấp thường xuyên và tiền thưởng trong sản xuất. - Tiền lương phụ: là tiền lương trả cho người lao động trong những thời gian không làm nhiệm vụ chính nhưng vẫn được hưởng lương theo chế độ quy định. 6.2. Các khoản trích theo lương. a, Quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH): Là quỹ dùng để trợ cấp cho người lao động có tham gia đóng góp quỹ trong các trường hợp họ bị mất khả năng lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động mất sức, hưu trí. Theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995, Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 thì quỹ này được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ 20% trên tổng quỹ lương cấp bậc và các khoản phụ cấp thường xuyên của người lao động thực tế trong kỳ hạch toán. Trong đó người sử dụng lao động đóng 15% trên tổng quỹ lương cấp bậc và được hạch toán vào chi phí kinh doanh, còn 5% trên quỹ lương cấp bậc do người lao động đóng góp và được trừ trực tiếp vào thu nhập của người lao động đó. Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được thực hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của Chính phủ. b, Quỹ bảo hiểm y tế (BHYT). Theo quy định của chế độ tài chính hiện hành quỹ BHYT được hình thành từ hai (02) nguồn: Một là do doanh nghiệp tự gánh chịu, phần còn lại người lao động phải nộp dưới hình thức khấu trừ vào lương và được trích 3% trên tổng mức lương cơ bản. Trong đó, người sử dụng lao động chịu 2% và tính vào chi phí kinh doanh còn lại người lao động trực tiếp nộp 1% trừ vào thu nhập của người lao động. Quỹ BHYT được nộp lên cơ quan chuyên trách thông qua việc mua BHYT để phục vụ và chăm sóc sức khoẻ cho CNV như: khám chữa bệnh, viện phí trong thời gian ốm đau sinh đẻ. Vì vậy, khi tính mức trích BHYT các doanh nghiệp phải nộp toàn bộ cho cơ quan BHYT. Quỹ này tài trợ cho việc phòng, chữa và chăm sóc sức khỏe cho người lao động. c, Kinh phí công đoàn (KPCĐ) Là quỹ tài trợ cho hoạt động công đoàn ở các cấp phục vụ chi tiêu cho các hoạt động tổ chức của người lao động. Quỹ này được tính theo tỷ lệ 2% trên tổng tiền lương.Trong đó nộp 1% cho cấp trên còn 1% để chi tiêu tại công đoàn co sở.Thực chất của hoạt động công đoàn tại đơn vị nhằm bảo vệ quyền lợi của công nhân và tổ chức các phong trào thi đua hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất. Quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ là quỹ rất có lợi cho người lao động không những chỉ hiện tại mà còn trong tương lai sau này bởi khi nghỉ hưu người lao động vẫn được trợ cấp hàng tháng và được khám chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm quy định. Tóm lại, quỹ tiền lương và BHXH, BHYT, KPCĐ hợp thành chi phí nhân công trong tổng chi phí SXKD. Quản lý việc hạch toán, trích lập và chi tiêu sử dụng các quỹ này có ý nghĩa không những đối với việc tính toán chi phí kinh doanh mà còn đối với cả việc đảm bảo quyền lợi cho người lao động tại doanh nghiệp. II. NỘI DUNG KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG HẠCH TOÁN LAO ĐỘNG VÀ TIỀN LƯƠNG. 1.Hạch toán lao động và tiền lương. 1.1.Hạch toán lao động. Hạch toán số lượng lao động là hạch toán về số lượng từng loại lao động theo ngành nghề, công việc và trình độ tay nghề (cấp bậc kỹ thuật). Việc hạch toán về số lượng lao động thường được thực hiện trên “sổ danh sách lao động "của doanh nghiệp do phòng lao động theo dõi. Hạch toán thời gian lao động: phải đảm bảo ghi chép, phản ánh kịp thời chính xác số ngày công, giờ công làm việc thực tế hoặc ngừng việc, nghỉ việc của từng người lao động, từng đơn vị sản xuất, từng phòng ban trong doanh nghiệp. Chứng từ ban đầu quan trọng nhất để hạch toán thời gian lao động trong các doanh nghiệp là "bảng chấm công" (mẫu số 01-LĐTL chế độ chứng từ kế toán). " Bảng chấm công" sử dụng để ghi chép thời gian thực tế làm việc, nghỉ việc, vắng mặt của người lao động theo từng ngày và được lập riêng cho từng bộ phận, tổ, đội lao động sản xuất. Tổ trưởng tổ sản xuất hoặc tổ trưởng các phòng ban là người trực tiếp ghi "Bảng chấm công" căn cứ vào số lao động vắng mặt, có mặt đầu ngày làm việc ở đơn vị mình. " Bảng chấm công" là căn cứ để tính lương, tính thưởng cho từng người lao động và để tổng hợp thời gian lao động trong doanh nghiệp. Hạch toán kết quả lao động phải đảm bảo phản ánh chính xác số lượng và c