Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lí của nhà nước, lĩnh vực tài chính - ngân sách nói chung và quản lý quỹ ngân sách
của Kho bạc nhà nước (KBNN) nói riêng đã có sự đổi mới căn bản, nhờ đó đã mang lại
những kết quả đáng khích lệ. Chi ngân sách nhà nước (NSNN) đã trở thành công cụ đắc
lực trong điều hành vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Chi tiêu NSNN những năm qua,
ngoài việc đảm bảo hoạt động có hiệu quả của bộ máy nhà nước, ổn định đời sống kinh tế -xã hội, còn tạo tiền đề, những cơ sở vật chất quan trọng góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, tác động tích cực vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong từng khâu hoặc từng bộ phận của quy trình
quản lý chi NSNN nói chung và kiểm soát chi qua KBNN nói riêng còn bộc lộ những
khiếm khuyết, kém hiệu quả. Năm 2006, kiểm toán nhà nước đối với ngân sách 2005 cho
thấy có 7.622,5 tỉ đồng thu, chi sai nguyên tắc phải xử lý, trong đó có 1.339,5 tỉ đồng là
tiền từ NSNN. Trong lĩnh vực chi thường xuyên, Kiểm toán nhà nước đã phát hiện nhiều
hình thức làm thất thoát, gây sai phạm như: lấy ngân sách cho vay, tạm ứng; tự chi các khoản
vượt thu, tăng thu; sử dụng ngân sách dự phòng sai qui định; hỗ trợ không đúng chế độ, chi
vượt tiêu chuẩn, định mức về mua sắm,. Riêng trong lĩnh vực chi tiêu hành chính , thất thoát
lên đến 661,8 tỉ đồng. Hầu hết các tỉnh được kiểm toán đều chi ngân sách thường xuyên vượt
dự toán. Cá biệt, có những tỉnh chi vượt dự toán rất cao, trên 100%.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tháng 12 năm 2005, Luật Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí được ban hành. Tất cả các bộ, ngành, địa phương và tổ chức đã tích cực triển khai
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tuy nhiên, tình trạng buông lỏng quản lý, vi phạm các
nguyên tắc quản lý tài chính, ngân sách, làm thất thoát tài sản của Nhà nước còn rất lớn.
KBNN với chức năng kiểm soát chi NSNN như “người gác cổng” giữ cho các chế độ về
chi tiêu ngân sách không bị phá vỡ, góp phần quan trọng trong việc thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí.
78 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5963 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước tỉnh Bến Tre, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên
ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước
tỉnh Bến Tre
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lí của nhà nước, lĩnh vực tài chính - ngân sách nói chung và quản lý quỹ ngân sách
của Kho bạc nhà nước (KBNN) nói riêng đã có sự đổi mới căn bản, nhờ đó đã mang lại
những kết quả đáng khích lệ. Chi ngân sách nhà nước (NSNN) đã trở thành công cụ đắc
lực trong điều hành vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Chi tiêu NSNN những năm qua,
ngoài việc đảm bảo hoạt động có hiệu quả của bộ máy nhà nước, ổn định đời sống kinh tế -
xã hội, còn tạo tiền đề, những cơ sở vật chất quan trọng góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, tác động tích cực vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong từng khâu hoặc từng bộ phận của quy trình
quản lý chi NSNN nói chung và kiểm soát chi qua KBNN nói riêng còn bộc lộ những
khiếm khuyết, kém hiệu quả. Năm 2006, kiểm toán nhà nước đối với ngân sách 2005 cho
thấy có 7.622,5 tỉ đồng thu, chi sai nguyên tắc phải xử lý, trong đó có 1.339,5 tỉ đồng là
tiền từ NSNN. Trong lĩnh vực chi thường xuyên, Kiểm toán nhà nước đã phát hiện nhiều
hình thức làm thất thoát, gây sai phạm như: lấy ngân sách cho vay, tạm ứng; tự chi các khoản
vượt thu, tăng thu; sử dụng ngân sách dự phòng sai qui định; hỗ trợ không đúng chế độ, chi
vượt tiêu chuẩn, định mức về mua sắm,... Riêng trong lĩnh vực chi tiêu hành chính, thất thoát
lên đến 661,8 tỉ đồng. Hầu hết các tỉnh được kiểm toán đều chi ngân sách thường xuyên vượt
dự toán. Cá biệt, có những tỉnh chi vượt dự toán rất cao, trên 100%.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tháng 12 năm 2005, Luật Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí được ban hành. Tất cả các bộ, ngành, địa phương và tổ chức đã tích cực triển khai
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tuy nhiên, tình trạng buông lỏng quản lý, vi phạm các
nguyên tắc quản lý tài chính, ngân sách, làm thất thoát tài sản của Nhà nước còn rất lớn.
KBNN với chức năng kiểm soát chi NSNN như “người gác cổng” giữ cho các chế độ về
chi tiêu ngân sách không bị phá vỡ, góp phần quan trọng trong việc thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí.
Bến Tre là một trong những tỉnh nghèo nhất nước, thu không đủ bù chi. Với nguồn
ngân sách hạn hẹp, lại phải dành một phần không nhỏ để chi cho đầu tư phát triển. Vì vậy,
để đảm bảo kinh phí đáp ứng cho các nhu cầu thường xuyên của bộ máy quản lý nhà nước
(QLNN) trên địa bàn tỉnh Bến Tre thì việc hoàn thiện kiểm soát chi nhằm tiết kiệm, chống
lãng phí trong chi thường xuyên là vấn đề cấp thiết đang được đặt ra. Đây cũng là lý do
của việc chọn đề tài: “Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua
kho bạc nhà nước tỉnh Bến Tre”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do chi ngân sách là vấn đề hệ trọng, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực nên đến
nay đã có không ít công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này, chẳn hạn như:
- Đổi mới quản lý chi NSNN qua KBNN Đà Nẵng, của tác giả Phan Quản Thống,
Luận văn thạc sĩ, 1999.
- Quản lý chi NSNN qua Kho bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, của tác giả Lương
Quang Tịnh, Luận văn thạc sĩ, 2000.
- Đổi mới quản lý chi NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, của tác giả Đinh Cẩm
Vân, Luận văn thạc sĩ, 2000.
- Hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi,
của tác giả Dương Ngọc Ánh, Luận văn thạc sĩ, 2002.
- Kiểm soát chi thường xuyên từ NSNN qua KBNN Hà Nội - thực trạng và giải
pháp, của tác giả Phùng Quang Anh, Luận văn thạc sĩ, 2006.
-Quản lý ngân sách nhà nước, của tác giả Nguyễn Ngọc Hùng, Nxb Thống kê, Hà
Nội, 2006.
- Kiểm soát chi có chuyển về chất nhưng chưa mạnh, của tác giả Nguyễn Công Điều,
Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia, số 41/2005, tr.24-26.
- Kiểm soát chi ngân sách - giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN,
của tác giả Nguyễn Thị Chắt, Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia, số 38/ 2005.
- Một số ý kiến về công tác kiểm soát chi ngân sách qua KBNN, của tác giả Nguyễn
Văn Biểu, Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia, số 42/2005.
- Hiệu quả công tác kiểm soát chi thường xuyên qua một năm thực hiện Luật NSNN
sửa đổi, của tác giả Trần Thị Thảo, Tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia, số 37/2005.
- Kiểm soát một cửa hay giao dịch một cửa, của tác giả Vĩnh Sang, Tạp chí Quản lý
ngân quỹ quốc gia, số 62/2007.
Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập đến một số vấn đề lí luận và thực tiễn về
chi thường xuyên NSNN và kiểm soát chi thường xuyên NSNN dưới những giác độ nhất
định. Hiện chưa có công trình nào nghiên cứu về kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua
Kho bạc nhà nước một cách toàn diện, tổng thể trong cả nước và đặc biệt là ở tỉnh Bến
Tre.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
có liên quan tới đề tài để đề xuất những giải pháp hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên
NSNN qua KBNN trên địa bàn tỉnh Bến Tre, bảo đảm cho việc quản lí, sử dụng NSNN
đúng quy định, đúng chế độ và có hiệu quả, góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham ô,
lãng phí tài sản công.
Để hiện thực hoá mục đích nghiên cứu đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn đặt
ra là:
- Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý và kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN
trong điều kiện hiện nay.
- Phân tích thực trạng kiểm soát chi thường xuyên tại KBNN tỉnh Bến Tre trong
thời gian qua, chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân chủ yếu.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN
tỉnh Bến Tre phù hợp với bối cảnh mới hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là chi thường xuyên của NSNN tại KBNN trên
địa bàn tỉnh Bến Tre. Việc đánh giá thực trạng chi NSNN và kiểm soát chi thường xuyên
NSNN chủ yếu từ khi Luật NSNN năm 2002 có hiệu lực thi hành (2004) đến nay. Các giải
pháp và kiến nghị hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên NSNN định hướng cho đến năm
2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin; các quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu
của các công trình khoa học đã công bố.
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn bao gồm các
phương pháp toán học, các phương pháp thống kê, các phương pháp xã hội học và phương
pháp tiếp cận hệ thống. Trong đó, một số phương pháp cụ thể được chú trọng sử dụng
gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chứng, mô hình hoá...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Hệ thống hoá và làm rõ cơ sở lý luận về kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua
KBNN; phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động kiểm soát chi thường xuyên NSNN của
KBNN tỉnh Bến Tre. Từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát các
khoản chi thường xuyên của các đơn vị sử dụng NSNN qua KBNN Bến Tre, góp phần
thực hành tiết kiệm và chống lãng phí trong chi tiêu NSNN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được trình bày thành 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CHI THƯỜNG XUYÊN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái quát về ngân sách nhà nước
NSNN là một phạm trù lịch sử, phản ánh các quan hệ kinh tế trong điều kiện kinh tế
hàng hoá - tiền tệ và được sử dụng như một công cụ để thực hiện chức năng của nhà nước.
Sự ra đời và tồn tại của NSNN gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà nước.
Tuy đã tồn tại khá lâu, nhưng đến nay, NSNN vẫn được nhìn nhận dưới nhiều giác
độ khác nhau và khái niệm NSNN cũng chưa thống nhất. Nếu xem xét bề ngoài hay chỉ
quan tâm về mặt lượng thì ngân sách là bảng liệt kê các khoản thu và chi bằng tiền của nhà
nước trong một giai đoạn nhất định. Có ý kiến cho rằng, ngân sách là văn kiện được nghị
viện thảo luận và phê chuẩn mà trong đó, các nghiệp vụ tài chính của nhà nước được dự
kiến và cho phép. Một số ý kiến lại cho rằng, NSNN là kế hoạch thu chi tài chính hàng
năm của nhà nước được xét duyệt theo trình tự pháp định.
Theo Luật NSNN được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ hai thông qua ngày
16/12/2002: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước” [29].
Tuy nhiên, nếu nhìn nhận khái quát hơn và sâu xa hơn thì NSNN phản ánh các quan
hệ phân phối cơ bản của nền tài chính quốc gia. Về mặt kinh tế, NSNN thể hiện trong mối
quan hệ kinh tế - tài chính giữa nhà nước với các chủ thể của nền kinh tế trong quá trình
hình thành, phân bổ và sử dụng NSNN, quá trình phân phân phối và phân phối lại thu
nhập... nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước.
NSNN có tính niên hạn với niên độ hay năm tài khoá thường là một năm. Ở nước ta
hiện nay, năm ngân sách bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm
dương lịch. NSNN được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai,
minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Trong đó,
Quốc hội là cơ quan cao nhất có quyền quyết định dự toán và phê chuẩn quyết toán
NSNN.
NSNN có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng giám đốc.
Chức năng phân phối của NSNN bao gồm phân phối thu nhập và các yếu tố đầu vào của
sản xuất, đặc biệt là các nguồn lực tài chính. Chức năng giám đốc thể hiện ở việc giám sát,
đôn đốc, thanh tra, kiểm tra bằng đồng tiền gắn với quá trình thu, chi NSNN.
NSNN có vai trò rất to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội hiện đại. Vai trò đó thể
hiện trên các mặt như: vừa là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo thực hiện chức
năng của nhà nước, vừa là công cụ điều tiết vĩ mô kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội, khắc phục những khiếm khuyết của kinh tế thị trường, bảo đảm tiến bộ và công
bằng xã hội, góp phần bảo vệ môi trường.
NSNN có hai nội dung cơ bản là thu NSNN và chi NSNN. Thu NSNN bao gồm
những khoản tiền nhà nước huy động vào NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu và nhằm
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Phần lớn các khoản thu NSNN đều
mang tính bắt buộc. Theo pháp luật hiện hành của nước ta, hiện có 14 nhóm nguồn thu
khác nhau như: thuế; phí, lệ phí; thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; thu từ hoạt động
sự nghiệp; tiền thuê đất, sử dụng đất của Nhà nước; thu từ huy động vốn đầu tư các công
trình; đóng góp tự nguyện v.v. [13]. Trong đó, nguồn thu từ thuế, phí và lệ phí (thu thường
xuyên) chiếm tỷ trọng chủ yếu.
Chi NSNN là quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm trang trải cho các
chi phí của bộ máy nhà nước và thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh,
quốc phòng. Theo các nhà chuyên môn tài chính: "Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng
quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất
định" [17, tr.93].
Chi NSNN bao gồm nhiều khoản chi khác nhau tuỳ theo cách phân loại. Theo lĩnh
vực hoạt động, chi NSNN bao gồm: chi quản lý hành chính, chi đầu tư kinh tế, chi cho y
tế, chi cho giáo dục, chi cho phúc lợi xã hội, chi cho an ninh quốc phòng; theo mục đích
chi tiêu, chi NSNN bao gồm chi tích luỹ, chi tiêu dùng; theo thời hạn tác động của các
khoản chi, chi NSNN bao gồm: chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển và chi khác (như
chi cho vay, trả nợ, viện trợ...).
Chi thường xuyên là nhóm chi NSNN đặc biệt quan trọng, gồm rất nhiều khoản chi
và bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
1.1.2. Nội dung, vai trò của chi thường xuyên ngân sách nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của chi thường xuyên ngân sách nhà
nước
Chi thường xuyên NSNN là các khoản chi nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của
nhà nước với các nội dung chủ yếu: chi tiền công, tiền lương; chi mua sắm hàng hoá, dịch vụ;
chi chuyển giao thường xuyên [17, tr.97].
Về thực chất, chi thường xuyên NSNN là quá trình phân phối lại nguồn vốn từ quỹ
tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm duy trì hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước
gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước đảm nhiệm.
Chi thường xuyên NSNN có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Một là, đại bộ phận các khoản chi thường xuyên từ NSNN đều mang tính ổn
định và có tính chu kỳ trong một khoảng thời gian hàng tháng, hàng quý, hàng năm.
Hai là, các khoản chi thường xuyên phần lớn nhằm mục đích tiêu dùng. Hầu hết các
khoản chi thường xuyên nhằm trang trải cho các nhu cầu về quản lý hành chính, hoạt động
sự nghiệp, về an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội và các hoạt động xã hội khác do
Nhà nước tổ chức. Các hoạt động này hầu như không trực tiếp tạo ra của cải vật chất. Tuy
nhiên, những khoản chi thường xuyên có tác dụng quan trọng đối với phát triển kinh tế vì
nó tạo ra một môi trường kinh tế ổn định, nâng cao chất lượng lao động thông qua các
khoản chi cho giáo dục - đào tạo.
Ba là, phạm vi và mức độ chi thường xuyên NSNN gắn liền với cơ cấu tổ chức bộ
máy nhà nước và việc thực hiện các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước
trong từng thời kỳ. Bởi lẽ, phần lớn các khoản chi thường xuyên nhằm duy trì bảo đảm
hoạt động bình thường, hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước. Hơn nữa, những quan
điểm, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước cũng ảnh hưởng trục
tiếp đến việc định hướng, phạm vi và mức độ chi thường xuyên NSNN.
Chi thường xuyên NSNN có vai trò rất quan trọng. Vai trò đó thể hiện trên các mặt
cụ thể như sau:
Thứ nhất, chi thường xuyên có tác động trực tiếp đến việc thực hiện các chức năng của
Nhà nước về quản lý kinh tế, xã hội, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến
chất lượng, hiệu quả của bộ máy QLNN.
Thứ hai, chi thường xuyên là công cụ để Nhà nước thực hiện mục tiêu ổn định và
điều chỉnh thu nhập, hỗ trợ người nghèo, gia đình chính sách, thực hiện các chính sách xã
hội... góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.
Thứ ba, thông qua chi thường xuyên, Nhà nước thực hiện điều tiết, điều chỉnh thị
trường để thực hiện các mục tiêu của Nhà nước. Nói cách khác, chi thường xuyên được
xem là một trong những công cụ kích thích phát triển và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thứ tư, chi thường xuyên là công cụ ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh.
Thông qua chi thường xuyên, Nhà nước thực hiện các chính sách xã hội, đảm bảo ổn định,
an toàn xã hội và an ninh, quốc phòng.
1.1.2.2. Nội dung chi thường xuyên ngân sách nhà nước
Nội dung chi thường xuyên NSNN được phân biệt theo lĩnh vực chi, đối tượng chi
và tính chất chi tiêu. Cụ thể như sau:
Theo lĩnh vực chi trả, chi thường xuyên NSNN bao gồm 12 nội dung chi theo luật
định [13], cụ thể như sau:
- Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin văn học
nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự nghiệp xã hội khác;
- Các hoạt động sự nghiệp kinh tế;
- Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội;
- Hoạt động của các cơ quan nhà nước;
- Hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam;
- Hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn Lao động Việt
Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam;
- Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
- Phần chi thường xuyên thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà
nước;
- Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội;
- Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;
- Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp;
- Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
Theo đối tượng chi trả, chi thường xuyên NSNN bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Các khoản chi cho con người thuộc khu vực hành chính - sự nghiệp như: tiền
lương, tiền công, phụ cấp, phúc lợi tập thể, y tế, vệ sinh, học bổng cho học sinh và sinh
viên v.v..
- Các khoản chi về hàng hoá, dịch vụ tại các cơ quan nhà nước như: văn phòng
phẩm, sách, báo, dịch vụ viễn thông và thông tin, điện, nước, công tác phí, chi phí hội nghị
v.v..
- Các khoản chi hỗ trợ và bổ sung nhằm thực hiện các chính sách xã hội hay thực
hiện điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước.
- Các khoản chi trả lãi tiền vay trong và ngoài nước.
- Các khoản chi khác.
Theo tính chất của từng khoản chi, nội dung chi thường xuyên NSNN bao gồm các
khoản như sau:
- Chi thanh toán cá nhân: là các khoản chi liên quan trực tiếp đến con người như:
chi tiền lương, phụ cấp lương, tiền công, chi học bổng, sinh hoạt phí của học sinh, sinh
viên, chi đóng bảo hiểm xã hội cho người hưởng lương từ NSNN, chi tiền thưởng, phúc lợi
tập thể.
- Chi nghiệp vụ chuyên môn: là các khoản chi đảm bảo hoạt động thường xuyên của
đơn vị thụ hưởng NSNN như: chi mua văn phòng phẩm, chi trả dịch vụ công cộng, chi
mua hàng hoá vật tư, công cụ dụng cụ dùng trong công tác chuyên môn của từng ngành,
chi bảo hộ lao động, trang phục, đồng phục và các khoản khác.
- Chi mua sắm, sửa chữa: chi mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, phương tiện làm
việc, sửa chữa lớn tài sản cố định và các khoản khác.
- Chi khác: là các khoản chi ngoài các khoản chi nêu trên chẳng hạn như: chi hoàn
thuế giá trị gia tăng, chi xử lý tài sản được xác lập sở hữu nhà nước và các khoản khác.
1.1.2.3. Điều kiện cấp phát, thanh toán các khoản chi thường xuyên ngân sách
nhà nước
Khác với nhiều loại chi tiêu khác, chi thường xuyên từ NSNN phải tuân thủ những
quy định pháp luật rất chặt chẽ. Cụ thể như sau:
Một là, các khoản chi đã có trong dự toán NSNN được giao, trừ các trường hợp sau:
- Trong trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và phương án phân
bổ ngân sách chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, cơ quan Tài chính
và KBNN tạm cấp kinh phí cho các nhiệm vụ chi sau: chi lương và các khoản có tính chất
tiền lương; chi nghiệp vụ phí và công vụ phí; một số khoản chi cần thiết khác để bảo đảm
hoạt động của bộ máy, trừ các khoản mua sắm trang thiết bị, sửa chữa; chi cho dự án
chuyển tiếp thuộc các chương trình quốc gia.
- Chi từ nguồn tăng thu so dự toán được giao và từ nguồn dự phòng ngân sách theo
quyết định của cấp có thẩm quyền.
Hai là, bảo đảm đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy định.
Ba là, đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN hoặc người được ủy quyền quyết
định chi.
Bốn là, trường hợp sử dụng vốn, kinh phí NSNN để mua sắm trang thiết bị, phương tiện
làm việc và các công việc khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm định giá thì còn phải tổ chức đấu thầu
hoặc thẩm định giá theo quy định của pháp luật;
Năm là, các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia đều trong năm để chi;
các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số thời điểm như mua sắm,
sửa chữa lớn và các khoản chi có tính chất không thường xuyên khác phải thực hiện theo
dự toán quý được đơn vị dự toán cấp I giao cùng với giao dự toán năm.
1.2. KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC QUA
KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà
nước qua kho bạc nhà nước
Kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN là việc KBNN sử dụng các công cụ
nghiệp vụ của mình thực hiện thẩm định, kiểm tra, kiểm soát các khoản chi thường xuyên
NSNN qua KBNN nhằm đảm bảo các khoản chi đó được thực hiện đúng đối tượng, đúng
chế độ, tiêu chuẩn, định mức do Nhà nước quy định và theo những nguyên tắc, hình thức,
phương pháp quản l