Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan
trọng trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các
quyền của công dân. Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu cầu không thể
thiếu được đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã hội. Mỗi nhà
nước dù có các xu thế chính trị khác nhau, nhưng đều coi thừa kế là một quyền cơ
bản của công dân và được ghi nhận trong Hiến pháp.
ở Việt Nam, sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của thừa kế, nên
ngay những ngày đầu mới dựng nước, các triều đại Lý, Trần, Lê cũng đã quan tâm
đến ban hành pháp luật về thừa kế. Pháp luật thành văn về thừa kế ở nước ta, lần
đầu tiên được quy định trong chương "Điền sản" của Bộ luật Hồng Đức dưới triều
vua Lê Thái Tổ. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng CNXH ở nước
ta, các quy định này đã được ghi nhận, mở rộng, phát triển và được thực hiện trên
thực tế tại các Điều 19 Hiến pháp 1959 "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo vệ
quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân". Điều 27 Hiến pháp 1980 "Nhà nước
bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân", Điều 58 Hiến pháp 1992 "Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế công dân". và đặc biệt là sự ra
đời của Bộ luật Dân sự 1995, sau đó Bộ luật Dân sự năm 2005 đã đánh dấu một
bước phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về thừa kế nói
riêng. Bộ luật Dân sự 2005 được xem là kết quả cao của quá trình pháp điển hoá
những quy định của pháp luật về thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những quy định
phù hợp với thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của người thừa
kế một cách có hiệu quả nhất.
106 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 10648 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở
Việt Nam hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan
trọng trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các
quyền của công dân. Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu cầu không thể
thiếu được đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã hội. Mỗi nhà
nước dù có các xu thế chính trị khác nhau, nhưng đều coi thừa kế là một quyền cơ
bản của công dân và được ghi nhận trong Hiến pháp.
ở Việt Nam, sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của thừa kế, nên
ngay những ngày đầu mới dựng nước, các triều đại Lý, Trần, Lê cũng đã quan tâm
đến ban hành pháp luật về thừa kế. Pháp luật thành văn về thừa kế ở nước ta, lần
đầu tiên được quy định trong chương "Điền sản" của Bộ luật Hồng Đức dưới triều
vua Lê Thái Tổ. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng CNXH ở nước
ta, các quy định này đã được ghi nhận, mở rộng, phát triển và được thực hiện trên
thực tế tại các Điều 19 Hiến pháp 1959 "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo vệ
quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân". Điều 27 Hiến pháp 1980 "Nhà nước
bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân", Điều 58 Hiến pháp 1992 "Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế công dân"... và đặc biệt là sự ra
đời của Bộ luật Dân sự 1995, sau đó Bộ luật Dân sự năm 2005 đã đánh dấu một
bước phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về thừa kế nói
riêng. Bộ luật Dân sự 2005 được xem là kết quả cao của quá trình pháp điển hoá
những quy định của pháp luật về thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những quy định
phù hợp với thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của người thừa
kế một cách có hiệu quả nhất.
Tuy nhiên về thực tiễn, do sự phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ của đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước, nên pháp luật về thừa kế hiện hành vẫn chưa thể trù
liệu hết những trường hợp, tình huống xảy ra trên thực tế. Còn một số quy định pháp
luật về thừa kế chung chung, mang tính chất khung, chưa chi tiết, chưa rõ ràng, lại
chưa có văn bản hướng dẫn thi hành cho từng vấn đề cụ thể. Vì vậy, còn nhiều quan
điểm trái ngược nhau, nên khi áp dụng vào thực tế sẽ xảy ra tình trạng không nhất
quán trong cách hiểu cũng như cách giải quyết. Điều đó đã xâm phạm quyền thừa kế
của công dân, đôi khi còn gây bất ổn trong đời sống sinh hoạt của mỗi gia đình, cộng
đồng và xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng nền kinh tế thị trường và xây dựng
nhà nước pháp quyền thì vấn đề tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng phong phú,
thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp. Hàng năm Toà án
nhân dân các cấp đã thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ án thừa kế. Nhiều vụ tranh
chấp thừa kế phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết phục không cao. Có những bản
án quyết định của toà án vẫn bị coi là chưa "thấu tình đạt lý"... Sở dĩ còn tồn tại
những bất cập đó là do nhiều nguyên nhân trong đó phải kể đến là do các quy định
của PLVTK chưa đồng bộ, cụ thể... Chính vì điều đó, nên trong thời gian gần đây
nhiều văn kiện của Đảng như Nghị quyết 48 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật đến năm 2010, Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới... đã xác định rõ nhiệm
vụ, mục tiêu, sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đổi mới,
trong đó có pháp luật về thừa kế.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề: "Hoàn thiện pháp luật
về thừa kế ở Việt Nam hiện nay" để làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. Đây là
một đề tài có ý nghĩa quan trọng cấp bách cả về phương diện lý luận cũng như thực
tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thừa kế di sản là vấn đề rộng và phức tạp, vừa có lịch sử hình thành và phát
triển khá phong phú. Do vậy, thừa kế đã được nhiều nhà khoa học pháp lý quan
tâm nghiên cứu.
Trước khi BLDS được ban hành, đã có một số sách nghiên cứu về thừa kế
dưới góc độ sách pháp luật thường thức như: "Câu hỏi và giải đáp PLTK" năm
1994 của Luật sư Lê Kim Quế; "Hỏi đáp về PLTK" năm 1995 của Trần Hữu Bền
và TS. Đinh Văn Thành.
Các công trình kể trên được thực hiện khi nhà nước ta chưa ban hành BLDS nên
tất cả đều dựa chủ yếu vào pháp lệnh thừa kế. Các công trình này chưa giải quyết
được bản chất pháp lý về thừa kế, các loại thừa kế, hậu quả pháp lý của nó. Về cơ bản
chỉ dừng lại ở mức độ tìm hiểu pháp luật.
Sau khi Nhà nước ta ban hành BLDS 1995, thì việc nghiên cứu đề tài về thừa kế
vẫn tiếp tục được mở rộng. Ngay các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ cũng đã có một số tác giả
nghiên cứu về thừa kế. Tiểu biểu là: TS. Phạm ánh Tuyết với đề tài "Thừa kế theo di
chúc theo quy định BLDS Việt Nam" năm 2003; TS. Phùng Trung Tập với đề tài
"Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam" năm 2001; Ths. Nguyễn Hải An
nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề về thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong pháp luật dân
sự Việt Nam" năm 2004. Ths. Nguyễn Hồng Nam nghiên cứu đề tài "Các điều kiện có
hiệu lực di chúc" năm 2005... Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu của các tác giả
nói trên mới dừng lại phân tích các quy định của PLVTK theo di chúc hoặc thừa kế
theo pháp luật của luật thực định và chỉ ra định hướng chủ yếu cho hoàn thiện BLDS
1995 .
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khoa học khác cũng có nghiên cứu về
thừa kế như: cuốn "Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam" xuất bản
năm 1999 và cuốn "Bình luận khoa học về thừa kế trong BLDS" xuất bản năm 2001
của TS. Nguyễn Ngọc Điện; cuốn "Chế độ hôn sản và thừa kế trong Luật dân sự Việt
Nam" xuất bản năm 1993 của tác giả Nguyễn Mạnh Bách; cuốn "Tìm hiểu pháp luật
về Luật thừa kế" xuất bản năm 2003 của Mai Văn Duẩn... Đề tài nghiên cứu cấp bộ
"Những vấn đề lý luận cơ bản về BLDS Việt Nam" năm 1997 của Viện Nghiên cứu
nhà nước và pháp luật thuộc Trung tâm khoa học xã hội nhân văn... Th.S Trần Thị
Huệ; "Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới", Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 10 năm 2006; Thái Công Khanh "Những khó khăn, vướng
mắc trong việc thực hiện điều 679 BLDS về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế", Tạp chí Toà án nhân dân, số 16 năm 2006; Thái Công Khanh
"Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế", Tạp chí Toà án nhân dân, số
20 năm 2006... Trong các công trình khoa học này, các tác giả đã phân tích những vấn
đề lý luận cơ bản về thừa kế: như quy định chung về thừa kế, thừa kế theo di chúc,
thừa kế theo pháp luật, phân chia di sản thừa kế. Tuy vậy, các tác giả không khái quát
được lịch sử hình thành và phát triển các quy định này qua các thời kỳ. Hơn nữa, đa số
các đầu sách này viết trước năm 2003, nên có rất nhiều điểm thay đổi cả về mặt pháp
luật thực định và thực tiễn cuộc sống.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu nói trên, đã nêu ra nhiều vấn đề cơ bản cả
về lý luận và thực tiễn áp dụng PLVTK trên nhiều góc độ. Tuy nhiên, các công
trình này được thực hiện khi Nhà nước ta chưa ban hành BLDS 2005 và nghiên
cứu chủ yếu dưới góc độ luật thực định. Các công trình nghiên cứu dưới góc độ lý
luận hoàn thiện PLVTK còn ít, chưa có tính chất hệ thống, khái quát. Vì vậy, có
thể khẳng định rằng, luận văn này là một công trình khoa học đầu tiên, nghiên cứu
chuyên sâu hoàn thiện PLVTK là một đề tài hoàn toàn độc lập, không có sự trùng
lắp với bất kỳ một công trình nào của người khác.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích: Phân tích cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về thừa kế và
đánh giá thực trạng PLVTK ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, nêu lên những quan
điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện PLVTK ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận về hoàn thiện PLTK ở Việt Nam như: khái
niệm, đặc điểm, nguyên tắc và vai trò của PLVTK cũng như tiêu chí hoàn thiện
PLVTK. Đồng thời có tìm hiểu PLVTK của một số nước trên thế giới.
- Phân tích quá trình phát triển và thực trạng PLVTK ở Việt Nam. Qua đó,
nhận xét, đánh giá những ưu điểm, nhược điểm của PLVTK hiện hành, rút ra các
nguyên nhân của hạn chế.
- Nêu sự cần thiết khách quan, quan điểm, tiêu chí cũng như giải pháp cụ thể
có tính khả thi nhằm hoàn thiện PLVTK.
* Phạm vi nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài này được xác định trong phạm vi các quy phạm PLVTK
ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Nhưng đặc biệt tập trung nghiên cứu các quy
phạm PLVTK từ năm 1996 đến nay. Tuy nhiên, để luận văn có độ sâu, rộng cần thiết,
trong một chừng mực nhất định, tác giả cũng đề cập đến một số quy định tương ứng
trong pháp luật một số nước để so sánh và đưa ra những kết luận, kiến nghị có tính
tham khảo nhất định.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về pháp luật.
Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về sở hữu tư nhân, về thừa kế
trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập.
Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số
phương pháp khoa học chuyên ngành khác như: phương pháp lịch sử, phương
pháp logíc, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp...
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Trên cơ sở phân tích tổng hợp các quan điểm, tác giả đưa ra quan điểm của
cá nhân về khái niệm PLVTK, cũng như nguyên tắc, vai trò PLVTK... nhằm minh
chứng tính đặc thù PLVTK ở Việt Nam, từ đó góp phần hoàn thiện hơn khoa học
trong lĩnh vực thừa kế.
- Nghiên cứu một số quy định của PLVTK qua các giai đoạn lịch sử, để phân
tích đưa ra những nhận định, đánh giá nhằm làm sáng tỏ quá trình phát triển và
thực trạng của PLVTK ở Việt Nam.
- Từ nhận xét, đánh giá sự phát triển và thực trạng PLVTK ở Việt Nam, tham
khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới, luận văn đã đưa ra các quan điểm,
giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện PLVTK ở nước ta hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho
việc sửa đổi, bổ sung BLDS 2005. Đồng thời luận văn còn là tài liệu tham khảo
phục vụ công việc nghiên cứu giảng dạy và học tập của cán bộ, giáo viên và sinh
viên chuyên Luật và không chuyên Luật cũng như việc giảng dạy học tập môn Nhà
nước pháp luật trong hệ thống các trường chính trị.
- Về thực tiễn: Luận văn đề ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện PLVTK sẽ có ý
nghĩa thiết thực góp phần giúp cho những người có thẩm quyền áp dụng luật để
giải quyết tranh chấp thừa kế. Ngoài ra luận văn còn là tài liệu tham khảo phục vụ cho
việc để lại di sản thừa kế, lập di chúc cũng như trong quá trình thực hiện quyền và
nghĩa vụ dân sự của mình về lĩnh vực thừa kế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
luận văn được bố cục 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật
về thừa kế ở Việt Nam
1.1. Khái niệm đặc điểm và nguyên tắc pháp luật Về thừa kế ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về thừa kế
* Khái niệm:
Thừa kế theo nghĩa chung nhất, là việc chuyển dịch tài sản của người chết cho
người còn sống. Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm móng và xuất
hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. ở thời kỳ này việc thừa kế
nhằm di chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống được tiến hành
dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục, tập quán riêng của từng bộ lạc,
thị tộc quyết định. Ph.Ăngghen viết:
Theo chế độ mẫu quyền nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên
mẹ theo tập tục thừa kế nguyên thuỷ trong thị tộc mới được thừa kế những
người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, vì tài sản để lại
không có giá trị lớn, nên lâu nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao tài sản
đó cho những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng
huyết tộc với người mẹ [2, tr.79].
Như vậy, ngay dưới chế độ mẫu quyền trong thời kỳ nguyên thuỷ của xã hội
loài người, khi mà xã hội chưa có sự phân chia giai cấp, chế độ sở hữu còn dưới
dạng cộng đồng nguyên thuỷ, chỉ là những công cụ lao động thô sơ và những vật
phẩm tự nhiên thì vấn đề thừa kế đã được đặt ra. Lúc đó thừa kế được phát sinh
dựa trên quan hệ huyết thống theo dòng máu của người mẹ. Bởi vì xã hội này con
người sống quần hôn cho nên không thể xác định được cha của đứa trẻ là ai và con
sinh ra hoàn toàn phụ thuộc vào người mẹ.
Theo tiến trình phát triển của xã hội cùng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, năng suất lao động ngày càng được nâng cao, từ đó xuất hiện sự dư thừa sản
phẩm. Những người có quyền hành trong thị tộc, bộ lạc tìm mọi thủ đoạn để chiếm
hữu số của cải dư thừa đó làm của riêng. Chế độ tư hữu xuất hiện, chế độ thị tộc, chế
độ cộng sản nguyên thuỷ dần dần bị phá vỡ và nhường chổ cho một chế độ xã hội
mà trong đó đã có sự phân hoá giai cấp.
Khi giai cấp đã xuất hiện các giai cấp có quyền lợi đối lập nhau (giai cấp
thống trị và giai cấp bị trị), luôn luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt để bảo vệ lợi
ích của giai cấp mình. Trước bối cảnh đó, dĩ nhiên tổ chức thị tộc trở thành bất lực
trước xã hội, không thể phù hợp nữa. Lúc này "xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ
chức mới đủ sức để dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy hoặc
cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một
hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức đó là nhà nước và nhà nước đã xuất hiện" [50,
tr.38].
Nếu trước đây, thừa kế trong xã hội thị tộc được dịch chuyển theo phong tục
tập quán thì khi nhà nước xuất hiện, quá trình dịch chuyển di sản từ một người đã
chết cho một người còn sống đã có sự tác động bằng ý chí của nhà nước, phù hợp
với lợi ích của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị thông qua bộ máy nhà nước,
ban hành các quy định để điều chỉnh các quan hệ trong việc xác định phạm vi chủ
thể, nội dung, hình thức, điều kiện chuyển dịch tài sản và những vấn đề khác có liên
quan đến việc thừa kế tài sản.
Như vậy, thừa kế được hình thành từ khi xã hội chưa phân chia giai cấp,
nhưng khái niệm PLVTK thì chỉ ra đời và tồn tại trong những xã hội đã phân chia
giai cấp và có nhà nước. Tuy nhiên, mỗi một xã hội khác nhau sẽ có sự khác nhau
trong quy định về thừa kế. Thậm chí, trong cùng một chế độ xã hội của một nhà
nước, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, thì PLVTK cũng được quy định khác
nhau cho phù hợp với sự phát triển.
ở Việt Nam, trong các triều đại phong kiến trước đây, PLVTK đã được hình
thành và dựa trên cơ sở lễ giáo phong kiến. Các quy định về thừa kế trong Bộ luật
Hồng Đức của thời Lê và Bộ luật HVLL của thời Nguyễn đều nhằm mục đích duy
trì, bảo vệ những truyền thống chế độ gia đình phụ quyền và hiếu nghĩa của con
cháu trong dòng tộc. Những quan niệm về gia đình lễ giáo, tín ngưỡng và chuẩn
mực đạo đức thờ cúng tổ tiên thời phong kiến đều có sự tác động mạnh lên quan hệ
thừa kế. Vì vậy, thừa kế ở thời kỳ này thể hiện rõ nét sự bất bình đẳng giữa vợ và
chồng, giữa nam và nữ. Đối với tài sản của cha mẹ, con trai con gái đều có quyền
được chia, nhưng đất hương hoả thì nhất quyết phải dành cho con trưởng nam và
cháu đích tôn.
Cha mẹ với tư cách là người chủ sở hữu cũng không có quyền làm khác,
không thể để cho một người con gái hưởng hoa lợi, hương hoả dù người con
gái ấy sống độc thân đến khi chết... Đối với tài sản vợ chồng, nếu vợ chết
trước, chồng tiếp tục làm chủ tài sản ấy với tư cách là chủ sở hữu. Nhưng
trong trường hợp chồng chết trước người vợ không được quyền thừa kế, chỉ
tiếp tục hưởng hoa lợi trên tài sản của chồng. Nếu người vợ tái giá thì người
goá phụ mất hết quyền hưởng hoa lợi, bị bên chồng trưng bằng cớ để lấy lại
ruộng đất [73, tr.24].
Khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, chế độ phong kiến ở Việt Nam
hoàn toàn sụp đổ, cùng với chế độ thực dân Pháp, những quan niệm lạc hậu về chế
độ hôn nhân gia đình "Tứ đức tam tòng" "Quyền huynh thế phụ" "nữ sinh ngoại
tộc", "chồng chúa vợ tôi"... cũng dần dần bị xóa bỏ. Quyền bình đẳng về thừa kế và
sở hữu dưới chế độ mới đã được pháp luật bảo vệ theo nguyên tắc "Đàn bà ngang
quyền với đàn ông" và đã được cụ thể hoá bằng quy định của pháp luật. "trong lúc
sinh thời người chồng goá hay người vợ goá, các con đã thành niên có quyền xin
chia tài sản quyền sở hữu người chết sau khi đã thanh toán tài sản chung [74, Đ11]
con trai, con gái đều có quyền thừa kế di sản của cha mẹ [74, Đ15]. Kể từ đó đến
nay PLVTK ở nước ta ngày càng được mở rộng, phát triển và được thực hiện, trên
thực tế tại thông tư 81 Toà án nhân dân tối cao, pháp lệnh thừa kế 1990. Đặc biệt là
BLDS 1995, 2005 ghi nhận một cách tương đối đầy đủ chế định thừa kế công dân.
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung pháp luật về thừa kế ở Việt Nam, có thể
phân loại quy định thừa kế thành 5 nhóm chính. Nhóm thứ nhất gồm các quy định
về vấn đề chung của thừa kế mà khi chia di sản theo di chúc và theo pháp luật, phải
căn cứ vào đó như nguyên tắc chia thừa kế, di sản thừa kế, thời điểm, địa điểm mở
thừa kế, thời hiệu khởi kiện thừa kế…
Nhóm thứ hai các quy định thừa kế theo di chúc. Để công nhận di chúc có
hiệu lực thì di chúc phải được lập theo một trình tự do pháp luật quy định. Nếu di chúc
vi phạm trình tự, thủ tục đó thì vô hiệu. Ngoài ra, trong nhóm này còn có các quy định
về hiệu lực của di chúc, các hình thức di chúc...
Nhóm thứ ba các quy định về thừa kế theo pháp luật, nhóm này bao gồm các
quy phạm pháp luật quy định về các trường hợp thừa kế theo pháp luật, diện và
hàng thừa kế, thừa kế thế vị.
Nhóm thứ tư các quy định về thừa kế quyền sử dụng đất bao gồm các quy
định về người thừa kế, trình tự thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất.
Nhóm thứ năm các quy định các thủ tục đảm bảo thực hiện quyền thừa kế của
công dân bao gồm các quy phạm về thủ tục hành chính, thủ tục tố tụng. Ngoài ra
còn có quy phạm quy định về thanh toán, phân chia di sản.
Như vậy có thể nói rằng, PLVTK là tổng thể các quy phạm pháp luật do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh việc
chuyển dịch tài sản của người chết cho cá nhân, tổ chức theo di chúc hoặc theo
pháp luật, cũng như quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ, phương thức bảo vệ các
quyền và nghĩa vụ của người thừa kế và được thực hiện theo những trình tự thủ tục
nhất định.
Tóm lại, PLVTK ở Việt Nam được cấu thành bởi nhiều quy phạm, trong
nhiều văn bản khác nhau. Lịch sử hình thành và phát triển của PLVTK ở Việt Nam
có sự biến đổi theo hướng ngày càng mở rộng và có sự phụ thuộc vào thành quả
phát triển kinh tế - xã hội qua các thời kỳ. Các quy định PLVTK ở nước ta luôn
bảo đảm quyền tự do cá nhân trong việc thể hiện ý chí của mình và kết hợp hài hoà
với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Không ngừng cũng cố, mở rộng phù hợp với
đời sống thực tế, nhằm bảo vệ có hiệu quả hơn quyền thừa kế công dân.
* Đặc điểm:
Từ những phân tích nêu trên về nội dung và qua nghiên cứu PLVTK Việt
Nam từ khi hình thành cho đến nay, chúng tôi rút ra một số đặc điểm cơ bản
PLVTK như sau:
Thứ nhất: Pháp luật về thừa kế ra đời rất sớm.
Ngay từ thời kỳ La Mã Cổ Đại đã có pháp luật về thừa kế, PLVTK thời kỳ
này được khắc trên phiến đá để mọi người cùng hiểu mà làm theo. Khi nghiên cứu
về vấn đề này các nhà khoa học pháp lý đã nhận định: “thừa kế là sự di chuyển tài
sản của người chết cho một hoặc một số người sống khác. Quyền thừa kế với tư
cách là một chế định pháp luật của Nhà nước, xuất hiện trên cơ sở chấm dứt quyền
sở hữu của một người đã chết và sự chuyển giao mang tính tổng thể tài sản của
người đó cho