Trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây, nền kinh tế thị trường phát triển kết hợp với quá trình hội nhập quốc tế đã thúc đẩy hoạt động kiểm toán ra đời và phát triển nhanh chóng, khái niệm “Kiểm toán và dịch vụ kiểm toán” không còn là khái niệm mới mẻ tại Việt Nam. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, nghề kiểm toán đã và đang không ngừng phát triển và được công nhận như là một nhân tố không thể thiếu trong nền kinh tế hội nhập. Kiểm toán độc lập chính thức thành lập tại Việt Nam vào năm 1991 với sự ra đời của hai công ty chuyên về dịch vụ kế toán và kiểm toán đó là VACO và AASC. So với thế giới, kiểm toán Việt Nam còn rất non trẻ nhưng đã và đang trở thành một ngành kinh tế độc lập đầy triển vọng của nước ta, một công cụ đắc lực giúp quản lý nhà nước, ngành có đóng góp quan trọng vào sự thịnh vượng nói chung của nền kinh tế quốc dân.
Kiểm toán Báo cáo tài chính là sự tổng hợp kết quả kiểm toán của nhiều chu kỳ riêng biệt, trên cơ sở đó đưa ra các kết luận về sự trung thực và hợp lý của BCTC trên các khía cạnh trọng yếu. Hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp được phản ánh trong nhiều chỉ tiêu về kết quả kinh doanh, về khả năng thanh toán thể hiện một phần trong chu kỳ bán hàng và thu tiền của doanh nghiệp. Chu kỳ bán hàng và thu tiền là một chu kỳ quan trọng đòi hỏi phải tập trung nhiều thời gian và chi phí kiểm toán. Bản thân Chu kỳ này chứa đựng những khoản mục trọng yếu thu hút sự tập trung, chú trọng, theo dõi của những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Kết quả kiểm toán chu kỳ Bán hàng – thu tiền ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng chung của cuộc kiểm toán. Vì vậy đây cũng là đối tượng chủ yếu để nhiều người sử dụng BCTC quan tâm. Qua đó doanh nghiệp có thể thấy được những mặt sai sót yếu kém trong công tác kế toán và quản lý để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền, trong thời gian thực tập tại công ty TNHH Tư vấn Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (AVA), bên cạnh tìm hiểu chung về hoạt động kiểm toán của công ty em đã đi sâu tìm hiểu công tác kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền trong kiểm toán Báo cáo tài chính do công ty AVA thực hiện. Trên cơ sở đó, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện quy trình kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền trong kiểm toán Báo cáo tài chính do công ty TNHH Tư Vấn Kế toán và Kiểm toán Việt Nam thực hiện” cho đề tài luận văn của mình.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn của em gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung của kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền trong kiểm toán BCTC
Chương 2: Thực trạng kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền trong kiểm toán BCTC tại Công ty TNHH Tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam (AVA)
Chương 3: Hoàn thiện quy trình kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền
104 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4527 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện quy trình kiểm toán chu kỳ bán hàng và thu tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty TNHH tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây, nền kinh tế thị trường phát triển kết hợp với quá trình hội nhập quốc tế đã thúc đẩy hoạt động kiểm toán ra đời và phát triển nhanh chóng, khái niệm “Kiểm toán và dịch vụ kiểm toán” không còn là khái niệm mới mẻ tại Việt Nam. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, nghề kiểm toán đã và đang không ngừng phát triển và được công nhận như là một nhân tố không thể thiếu trong nền kinh tế hội nhập. Kiểm toán độc lập chính thức thành lập tại Việt Nam vào năm 1991 với sự ra đời của hai công ty chuyên về dịch vụ kế toán và kiểm toán đó là VACO và AASC. So với thế giới, kiểm toán Việt Nam còn rất non trẻ nhưng đã và đang trở thành một ngành kinh tế độc lập đầy triển vọng của nước ta, một công cụ đắc lực giúp quản lý nhà nước, ngành có đóng góp quan trọng vào sự thịnh vượng nói chung của nền kinh tế quốc dân.
Kiểm toán Báo cáo tài chính là sự tổng hợp kết quả kiểm toán của nhiều chu kỳ riêng biệt, trên cơ sở đó đưa ra các kết luận về sự trung thực và hợp lý của BCTC trên các khía cạnh trọng yếu. Hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp được phản ánh trong nhiều chỉ tiêu về kết quả kinh doanh, về khả năng thanh toán… thể hiện một phần trong chu kỳ bán hàng và thu tiền của doanh nghiệp. Chu kỳ bán hàng và thu tiền là một chu kỳ quan trọng đòi hỏi phải tập trung nhiều thời gian và chi phí kiểm toán. Bản thân Chu kỳ này chứa đựng những khoản mục trọng yếu thu hút sự tập trung, chú trọng, theo dõi của những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Kết quả kiểm toán chu kỳ Bán hàng – thu tiền ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng chung của cuộc kiểm toán. Vì vậy đây cũng là đối tượng chủ yếu để nhiều người sử dụng BCTC quan tâm. Qua đó doanh nghiệp có thể thấy được những mặt sai sót yếu kém trong công tác kế toán và quản lý để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền, trong thời gian thực tập tại công ty TNHH Tư vấn Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (AVA), bên cạnh tìm hiểu chung về hoạt động kiểm toán của công ty em đã đi sâu tìm hiểu công tác kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền trong kiểm toán Báo cáo tài chính do công ty AVA thực hiện. Trên cơ sở đó, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện quy trình kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền trong kiểm toán Báo cáo tài chính do công ty TNHH Tư Vấn Kế toán và Kiểm toán Việt Nam thực hiện” cho đề tài luận văn của mình.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn của em gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung của kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền trong kiểm toán BCTC
Chương 2: Thực trạng kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền trong kiểm toán BCTC tại Công ty TNHH Tư vấn kế toán và kiểm toán Việt Nam (AVA)
Chương 3: Hoàn thiện quy trình kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền
Trong quá trình lựa chọn và thực hiện đề tài em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Phạm Tiến Hưng và sự giúp đỡ nhiệt tình của toàn thể các anh chị trong phòng Nghiệp vụ 5 - Công ty Kiểm toán AVA. Tuy nhiên do thời gian thực tập có hạn, đồng thời kiến thức, kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, vì vậy trong quá trình thực hiện đề tài em không tránh khỏi những sai sót, kính mong sự chỉ bảo, đóng góp và đặc biệt là sự thông cảm từ quý thầy cô để luận văn của em được hoàn thiện và thiết thực hơn.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo Phạm Tiến Hưng và toàn thể các anh chị trong phòng Nghiệp vụ 5 - Công ty Kiểm toán AVA đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành tốt đề tài này.
CHƯƠNG 1 :
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA KIỂM TOÁN CHU KỲ BÁN HÀNG VÀ THU TIỀN TRONG KIỂM TOÁN BCTC
ĐẶC ĐIỂM CỦA CHU KỲ BÁN HÀNG – THU TIỀN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHU KỲ ĐẾN KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Đặc điểm về chu kỳ Bán hàng và thu tiền
Khái niệm
Bán hàng và thu tiền là một trong các chu kỳ chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong quá trình tái sản xuất, hoạt động tiêu thụ nhằm thực hiện giá trị của sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ. Sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ được cung cấp cho khách hàng và đơn vị sẽ thu được tiền bán hàng. Do đó Bán hàng và thu tiền hay còn gọi là tiêu thụ là một khâu trong quá trình tái sản xuất. Tiêu thụ là quá trình thực hiện giá trị của “Hàng” (nói chung), thông qua việc trao đổi: “Hàng” được chuyển quyền sở hữu từ bên bán sang bên mua và đổi lại, bên bán nhận được tiền bán hàng từ bên mua thanh toán. “Hàng” có thể là những tài sản cụ thể (Thành phẩm, Vật tư, Hàng hóa…) hoặc dịch vụ (Sửa chữa, Xây lắp,…) bên bán đem đi trao đổi. Bên mua có thể thanh toán tiền mua hàng ngay hay chấp nhận thanh toán và sẽ thanh toán sau (thanh toán bằng tiền mặt hay thanh toán qua ngân hàng hoặc theo một thể thức khác được thỏa thuận). Bán hàng và thu tiền có thể được thực hiện theo các phương thức tiêu thụ và thể thức thanh toán khác nhau (bán buôn, bán lẻ, bán qua đại lý,thanh toán ngay, trả chậm, trả góp,…).
Bản chất
Bán hàng và thu tiền là quá trình chuyển đổi quyền sở hữu của hàng hoá qua quá trình trao đổi hàng - tiền. Với ý nghĩa như vậy, quá trình này bắt đầu từ yêu cầu mua của khách hàng và kết thúc bằng việc chuyển đổi hàng hoá thành tiền. Trong trường hợp này, hàng hoá và tiền tệ được xác định theo bản chất kinh tế của chúng. Hàng hóa là những tài sản hay dịch vụ chứa đựng giá trị và có thể bán được, tiền tệ là phương tiện thanh toán nhờ đó mọi quan hệ giao dịch được giải quyết tức thời. Tuy nhiên ranh giới của bán hàng và thu tiền được thể chế hoá trong từng thời kỳ và đối tượng cụ thể khác nhau.
Theo chế độ kế toán hiện hành của Việt Nam, quá trình tiêu thụ được thực hiện khi hàng hoá, dịch vụ đã được chuyển giao cho người mua và người mua trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán. Về bản chất, bán hàng - thu tiền là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đồng thời tạo vốn để tái sản xuất mở rộng. Thực hiện tốt quá trình này, doanh nghiệp mới có thể thu hồi vốn và có lãi - một nguồn thu quan trọng để tích luỹ vào ngân sách và các quỹ của doanh nghiệp nhằm mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động.
Chức năng của chu kỳ
Phần hành bán hàng và thu tiền có liên quan trực tiếp và chủ yếu đến hai khoản mục trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp là khoản mục doanh thu và khoản mục các khoản phải thu của khách hàng. Nằm trong hệ thống các thông tin phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, doanh thu và các khoản phải thu là những chỉ tiêu quan trọng, phản ánh kết quả kinh doanh cũng như tình hình thanh toán của doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó, kiểm toán phần hành bán hàng - thu tiền nhận được nhiều sự quan tâm của những người thực hiện kiểm toán khi đặt trong mối liên hệ với các phần hành khác.
Trong doanh nghiệp sản xuất, để tồn tại và duy trì các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phải nối tiếp liên tục và lặp lại tạo thành những chu kỳ sản xuất. Thực tế chu kỳ sản xuất bao gồm các chuỗi nghiệp vụ có liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành chu kỳ nghiệp vụ cơ bản. Chu kỳ kinh doanh tại một doanh nghiệp thường bắt đầu từ khi doanh nghiệp tạo vốn, có thể bằng vốn tự có hoặc nguồn vốn vay mượn để phục vụ cho sản xuất, kết thúc giai đoạn sản xuất thì công đoạn cuối cùng của chu kỳ kinh doanh là việc tiêu thụ sản phẩm đồng thời là quá trình thu tiền từ hoạt động bán hàng để thu hồi lại vốn kinh doanh. Chu kỳ bán hàng và thu tiền chấm dứt một quá trình kinh doanh để bắt đầu quá trình kinh doanh tiếp theo. Như vậy, quá trình kinh doanh bao gồm các chu kỳ diễn ra liên tục, đều đặn và mỗi chu kỳ đều là mắt xích quan trọng không thể thiếu được. Trong đó kết quả của chu kỳ Bán hàng và thu tiền không chỉ phản ánh riêng kết quả của chu kỳ mà còn phản ánh toàn bộ kết quả quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Bán hàng – thu tiền là chu kỳ cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó không những đánh giá hiệu quả của các chu kỳ trước như chu kỳ mua hàng – thanh toán, tiếp nhận – hoàn trả vốn… mà còn đánh giá hiệu quả của toàn bộ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, Bán hàng – thu tiền là một bộ phận quan trọng tạo nên bức tranh tài chính của doanh nghiệp, do vậy những người sử dụng thông tin tài chính đòi hỏi KTV phải có kết luận chính xác về các thông tin này.
Đặc điểm của chu kỳ ảnh hưởng đến kiểm toán BCTC
Dưới góc độ kiểm toán, chu kỳ bán hàng và thu tiền liên quan đến nhiều chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh. Đây là những chỉ tiêu cơ bản mà những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dùng để phân tích khả năng thanh toán, hiệu quả kinh doanh, triển vọng phát triển cũng như rủi ro tiềm tàng trong tương lai, vì thế các chỉ tiêu này thường bị phản ánh sai lệch. Để có được những hiểu biết sâu sắc về chu kỳ thì trước hết phải nắm được các đặc điểm về chu kỳ, gồm có:
- Mật độ phát sinh của các nghiệp vụ là tương đối lớn.
- Có liên quan đến các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp.
- Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quy luật cung – cầu
- Các chỉ tiêu dễ bị phản ánh sai lệch.
- Các quan hệ thanh toán trong mua bán rất phức tạp, chiếm dụng vốn của nhau công nợ dây dưa khó đòi. Tuy nhiên, việc lập dự phòng khó đòi lại mang tính chủ quan và thường dựa vào ước đoán của Ban Giám đốc nên rất khó kiểm tra và thường bị lợi dụng để ghi tăng chi phí.
- Rủi ro đối với các khoản mục trong chu kỳ xảy ra theo nhiều chiều hướng khác nhau có thể ghi tăng, ghi giảm hoặc vừa ghi tăng vừa ghi giảm theo ý đồ của doanh nghiệp hoặc một số cá nhân. Vì thế việc kiểm toán chu kỳ bán hàng thu tiền tương đối tốn kém và mất thời gian. Với chức năng xác minh các thông tin về chu kỳ thì KTV không thể không xem xét những đặc điểm của chu kỳ và ảnh hưởng của nó tới phương pháp kiểm toán.
1.2 LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN CHU KỲ BÁN HÀNG VÀ THU TIỀN
1.2.1 Mục tiêu và căn cứ kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền
1.2.1.1 Mục tiêu
Bất cứ hoạt động nào, trước khi thực hiện cũng cần xác định mục tiêu – là cơ sở giúp người thực hiện đúng hướng và có hiệu quả hoạt động đó. Lĩnh vực kiểm toán cũng vậy. CMKT số 200, khoản 11 đã xác định rõ: “ Mục tiêu của kiểm toán BCTC là giúp cho KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng BCTC có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận, có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không?”. Bên cạnh đó, đối với đơn vị được kiểm toán, mục tiêu kiểm toán BCTC giúp đơn vị thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của mình. Do vậy, có thể khẳng định mục tiêu kiểm toán là đích cần đạt tới đồng thời là thước đo kết quả kiểm toán cho mỗi cuộc kiểm toán cụ thể.
Phù hợp với mục tiêu chung của kiểm toán BCTC là xác nhận mức độ tin cậy của BCTC được kiểm toán, mục tiêu cụ thể của kiểm toán chu kỳ Bán hàng và thu tiền là thu thập đầy đủ các bằng chứng thích hợp từ đó đưa ra lời xác nhận về mức độ tin cậy của các thông tin tài chính chủ yếu của chu kỳ này. Đồng thời cũng cung cấp những thông tin, tài liệu có liên quan làm cơ sở tham chiếu khi kiểm toán các chu kỳ có liên quan khác. Để đạt được mục tiêu cuối cùng đó, trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải khảo sát và đánh giá lại hiệu lực trên thực tế của hoạt động kiểm soát nội bộ đối với chu kỳ này để làm cơ sở thiết kế và thực hiện các khảo sát cơ bản nhằm đánh giá các thông tin tài chính liên quan đến chu kỳ.
Khi tiến hành kiểm toán, bước đầu tiên KTV cần hiểu được mục tiêu chung, sau đó cụ thể hóa các mục tiêu chung này vào từng phần hành cụ thể gọi là các mục tiêu đặc thù. Xét phần hành kiểm toán chu kỳ bán hàng – thu tiền, chu kỳ này bao gồm nghiệp vụ bán hàng và nghiệp vụ thu tiền. Mặc dù hai loại nghiệp vụ này có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên chu kỳ xác định nhưng mỗi loại lại có yêu cầu riêng cũng như phản ánh cụ thể vào sổ kế toán riêng theo trình tự độc lập tương đối. Do đó, mục tiêu đặc thù của hai loại nghiệp vụ này mang những điểm riêng biệt. Cụ thể:
Bảng 1.1 Mục tiêu kiểm toán chung và mục tiêu kiểm toán đặc thù
Mục tiêu kiểm toán chung
Mục tiêu kiểm toán đặc thù nghiệp vụ bán hàng
Mục tiêu kiểm toán đặc thù nghiệp vụ thu tiền
Mục tiêu
hợp lý chung
Tất cả các nghiệp vụ bán hàng đều có căn cứ hợp lý
Tất cả các khoản thu tiền đều biểu hiện hợp lý
Hiện hữu
Các nghiệp vụ bán hàng đã ghi sổ thực sự tồn tại
Các khoản phải thu khách hàng thực sự phát sinh, các khoản thu tiền đã ghi sổ thực tế đã nhận. Các thông tin phản ánh trên chứng từ, sổ sách và Báo cáo có liên quan đến nghiệp vụ này là hoàn toàn có thật
Trọn vẹn
Mọi nghiệp vụ bán hàng phát sinh đều được ghi sổ đầy đủ
Tiền thu được, các khoản phải thu khách hàng đã ghi đầy đủ vào sổ
Tính giá
Các khoản bán hàng đã ghi sổ đúng số lượng, chủng loại hàng hóa đã vận chuyển và Hóa đơn bán hàng đã lập đúng
Các khoản tiền thu đã ghi sổ và đã nộp đều đúng với giá hàng bán; các khoản phải thu khách hàng được định giá một cách tin cậy theo giá trị ròng có thể thực hiện được. Đối với nghiệp vụ thu tiền bằng ngoại tệ, KTV cần quan tâm đến vấn đề tỷ giá quy đổi
Chính xác số học
Các nghiệp vụ bán hàng được tính toán đúng, các con số cộng sổ, chuyển sổ, lên Báo cáo trùng khớp
Các khoản thu tiền được tính toán chính xác, được cộng sổ, chuyển sổ và lên Báo cáo đúng
Quyền và nghĩa vụ
Doanh nghiệp có quyền đối với hàng hóa sắp chuyển giao, hàng gửi bán và hàng chuyển chờ chấp nhận
Doanh nghiệp có quyền đối với các khoản phải thu
Phân loại và trình bày
Các nghiệp vụ bán hàng được phân loại thích hợp: theo từng loại doanh thu, theo các mức thuế suất
Các khoản thu tiền được phân loại đúng; các khoản phải thu được ghi nhận theo đúng đối tượng theo dõi
Đúng kỳ
Các nghiệp vụ bán hàng được ghi đúng thời gian phát sinh
Các khoản thu tiền ghi đúng thời gian
Sau khi đã xác định rõ các mục tiêu đặc thù của phần hành kiểm toán chu kỳ Bán hàng – thu tiền, KTV tiến hành cụ thể hóa các công việc tương ứng với mỗi mục tiêu, từ đó xác định những phần việc cần phải thực hiện.
1.2.1.2 Căn cứ
Quá trình hoạt động bán hàng và thu tiền đặt dưới sự quản lý nói chung và kiểm soát nội bộ của đơn vị nói riêng. Các thông tin tài chính liên quan đến chu kỳ bán hàng và thu tiền được hình thành trên cơ sở các quá trình kế toán xử lý các nghiệp vụ kinh tế dựa trên cơ sở chuẩn mực, chế độ kế toán và các quy định có liên quan.
Để có thể có cơ sở đưa ra ý kiến nhận xét về các chỉ tiêu tài chính có liên quan, trước hết cần xác định được phạm vi và các phương pháp, thủ tục kiểm toán cần áp dụng. Tiếp theo đó, kiểm toán viên cần dựa vào các thông tin tài liệu nhất định để thu thập các bằng chứng về các quá trình xử lý kế toán đối với các nghiệp vụ trong chu kỳ bán hàng và thu tiền.
Các nguồn tài liệu (hay các căn cứ) cụ thể để kiểm toán rất phong phú, đa dạng về hình thức, nguồn gốc và nội dung. Có thể khái quát về các nguồn tài liệu (các căn cứ) chủ yếu gồm:
Các chính sách, các quy chế hay quy định về kiểm soát nội bộ đối với hoạt động bán hàng và thu tiền mà đơn vị đã áp dụng trong công tác quản lý và kiểm soát nội bộ, bao gồm các quy chế do cấp có thẩm quyền của Nhà nước ban hành và của chính bản thân đơn vị ban hành.
Các báo cáo tài chính chủ yếu có liên quan, gồm Bảng cân đối kế toán (báo cáo các thông tin tài chính như Phải thu khách hàng ngắn hạn, dài hạn; Người mua trả tiền trước và các thông tin tài chính liên quan khác: tiền, hàng hóa,…); Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (báo cáo các thông tin tài chính như Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, Các khoản làm giảm doanh thu bán hàng, Giá vốn hàng bán, Chi phí bán hàng, Chi phí quản lý doanh nghiệp); Bản thuyết minh BCTC (báo cáo các thông tin chi tiết về hàng tồn kho, về doanh thu bán hàng, về các khoản giảm doanh thu bán hàng,…)
Các sổ hạch toán liên quan đến hoạt động bán hàng và thu tiền, bao gồm sổ hạch toán nghiệp vụ và sổ hạch toán kế toán. Các sổ hạch toán nghiệp vụ chủ yếu và phổ biến như: Sổ (Thẻ) kho, Nhật ký bảo vệ kho, Nhật ký vận chuyển hàng hóa,…
Các chứng từ kế toán ghi nhận các nghiệp vụ bán hàng, thu tiền đã phát sinh và là căn cứ để ghi vào sổ kế toán. Các chứng từ kế toán chủ yếu và phổ biến như Hóa đơn bán hàng (Hóa đơn thuế GTGTT hay Hóa đơn thông thường), Hóa đơn vận chuyển và cung cấp dịch vụ, Phiếu xuất kho, Chứng từ thu tiền hàng, Chứng từ về giảm giá, hàng bán bị trả lại,…
Các hồ sơ, tài liệu khác liên quan đến hoạt động bán hàng – thu tiền. Loại này cũng rất phong phú và đa dạng, như: Kế hoạch bán hàng, Đơn đặt hàng, Hợp đồng thương mại (bán hàng, cho thuê tài sản, cung cấp dịch vụ), Chính sách bán hàng, Bản quyết toán hợp đồng,…
Các nguồn tài liệu về quá trình xử lý kế toán chủ yếu cung cấp bằng chứng liên quan trực tiếp đến các cơ sở dẫn liệu của các thông tin tài chính đã trình bày trên báo cáo tài chính được kiểm toán.
1.2.2 Quy trình và phương pháp kiểm toán
1.2.2.1 Quy trình
* Lập kế hoạch kiểm toán
- Khái niệm
Kế hoạch kiểm toán là những định hướng và những công việc dự kiến phải làm trong quá trình kiểm toán, đồng thời kế hoạch kiểm toán cũng chỉ ra những điều kiện cần thiết để thực hiện một cuộc kiểm toán được sắp xếp theo một trình tự cụ thể nhất định.
Kiểm toán viên và các Doanh nghiệp kiểm toán phải có trách nhiệm lập kế hoạch kiểm toán cho mọi cuộc kiểm toán để đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành một cách hiệu quả.
Kế hoạch kiểm toán phải được lập cho từng cuộc kiểm toán, từng đơn vị được kiểm toán và phải được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán; phát hiện được gian lận, rủi ro và những vấn đề tiềm ẩn có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, đồng thời kế hoạch kiểm toán phải đảm bảo cuộc kiểm toán được hoàn thành đúng thời hạn. Phạm vi kế hoạch kiểm toán sẽ thay đổi tùy theo qui mô khách hàng, tính chất phức tạp của công việc kiểm toán, kinh nghiệm và những hiểu biết của kiểm toán viên về đơn vị cũng như hoạt động của đơn vị được kiểm toán.
Trong kiểm toán báo cáo tài chính, lập kế hoạch kiểm toán bao gồm ba bước, đó là:
- Lập kế hoạch chiến lược
- Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể
- Lập chương trình kiểm toán
- Những nội dung cụ thể trong kế hoạch
+ Thu thập thông tin về khách hàng
Trước khi chấp nhận một khách hàng để đi đến ký kết hợp đồng kiểm toán, Kiểm toán viên và Công ty kiểm toán phải thu thập những thông tin sơ bộ về lĩnh vực hoạt động, loại hình doanh nghiệp, hình thức sở hữu, công nghệ sản xuất, tổ chức bộ máy quản lý và thực tiễn hoạt động của đơn vị, qua đó đánh giá khả năng có thể thu thập được những thông tin cần thiết về tình hình kinh doanh của khách hàng để thực hiện công việc kiểm toán.
Hiểu biết cần thiết của Kiểm toán viên về khách hàng để thực hiện kiểm toán bao gồm những hiểu biết tổng quan về nền kinh tế, lĩnh vực hoạt động, tổ chức và hoạt động của Doanh nghiệp… Mức độ hiểu biết của Kiểm toán viên về khách hàng không nhất thiết phải như Ban Giám đốc của đơn vị được kiểm toán.
Sau khi chấp nhận hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên phải thu thập những thông tin chi tiết cần thiết ngay từ khi bắt đầu công việc kiểm toán. Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải luôn xem xét, đánh giá, cập nhật và bổ sung thêm các thông tin mới về khách hàng có liên quan đến cuộc kiểm toán…
Việc thu thập các thông tin cần thiết về tình hình kinh doanh của đơn vị là một quá trình tích lũy liên tục, bao gồm việc thu thập, đánh giá và đối chiếu thông tin thu thập được với các bằng chứng kiểm toán ở tất cả các giai đoạn của quá trình kiểm toán. Như các thông tin đã thu thập ở giai đoạn lập kế hoạch vẫn phải được tiếp tục cập nhật và bổ sung thêm ở các giai đoạn kế tiếp để kiểm toán viên hiểu biết đầy đủ hơn về hoạt động của đơn vị.
Đối với hợp đồng kiểm toán năm sau, kiểm toán viên phải cập nhật và đánh giá lại những thông tin đã thu thập trước đây, nhất là những thông tin trong bộ hồ sơ kiểm toán các năm trước. Kiểm toán viên phải chú ý đến các vấn đề tồn tại đã phát hiện trong