Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trờng, bất kỳ một Doanh nghiệp nào cũng
phải tiến hành tổ chức hoạt động bán hàng.
Thực tiễn cho thấy trong nền kinh tế tập trung, doanh nghiệp chỉ hoạt động theo kế
hoạch và giá cả đã đợc ấn định từ trớc do Nhà nớc đặt ra, nên không phải quan tâm đến việc
hàng hoá có bán đợc hay không. Ngày nay đứng trớc xu thế phát triển của khu vực và trên thế
giới, làm thế nào để hội nhập vào sự phát triển chung đó, vấn đề đặt ra cho Đảng và Nhà nớc
ta là làm sao phải đổi mới đất nớc, chủ trơng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Đa đát n-ớc từ nghèo nàn lạc hậu thành nớc có nền kinh tế khá ổn định, đẩy lùi đợc sự yếu kém,
chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng có sự
quản lý của Nhà nớc. Giao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp,
điều này buộc doanh nghiệp phải lập kế hoạch kinh doanh cho mình sao cho có hiệu quả nhất
và tự mình giải quyêt nhng vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Lợi nhuận là mục tiêu sống của
doanh ngiệp. Muốn có lợi nhuận, doanh ngiệp phải bán đợc hàng hoá, sản phẩm của doanh
ngiệp phải phù hợp với nhu cầu của thị trờng.
Nh Mác đã nói: '' Hàng hoá đợc sản xuất ra không phải là để ngời sản xuất tiêu dùng
mà là để bán''. Chỉ khi sản phẩm đợc bán ra thì doanh nghiệp mới thu hồi đợc vốn kinh doanh
thực hiện đợc mục tiêu lợi nhuận, tái mở rộng kinh doanh .
Thị trờng luôn biến động không ngừng vì thế bán hàng không còn là vấn đề mới mẻ
nhng nó luôn mang tính thời sự cấp bách và là mối quan tâm của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trờng nó quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
78 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6429 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động bán hàng của Công ty xăng dầu khu vực III - Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoạt động bán hàng của Công ty xăng
dầu khu vực III_Hải Phòng
LờI NóI Đầu
Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trờng, bất kỳ một Doanh nghiệp nào cũng
phải tiến hành tổ chức hoạt động bán hàng.
Thực tiễn cho thấy trong nền kinh tế tập trung, doanh nghiệp chỉ hoạt động theo kế
hoạch và giá cả đã đợc ấn định từ trớc do Nhà nớc đặt ra, nên không phải quan tâm đến việc
hàng hoá có bán đợc hay không. Ngày nay đứng trớc xu thế phát triển của khu vực và trên thế
giới, làm thế nào để hội nhập vào sự phát triển chung đó, vấn đề đặt ra cho Đảng và Nhà nớc
ta là làm sao phải đổi mới đất nớc, chủ trơng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Đa đát n-
ớc từ nghèo nàn lạc hậu thành nớc có nền kinh tế khá ổn định, đẩy lùi đợc sự yếu kém,
chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng có sự
quản lý của Nhà nớc. Giao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp,
điều này buộc doanh nghiệp phải lập kế hoạch kinh doanh cho mình sao cho có hiệu quả nhất
và tự mình giải quyêt nhng vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Lợi nhuận là mục tiêu sống của
doanh ngiệp. Muốn có lợi nhuận, doanh ngiệp phải bán đợc hàng hoá, sản phẩm của doanh
ngiệp phải phù hợp với nhu cầu của thị trờng.
Nh Mác đã nói: '' Hàng hoá đợc sản xuất ra không phải là để ngời sản xuất tiêu dùng
mà là để bán''. Chỉ khi sản phẩm đợc bán ra thì doanh nghiệp mới thu hồi đợc vốn kinh doanh
thực hiện đợc mục tiêu lợi nhuận, tái mở rộng kinh doanh ...
Thị trờng luôn biến động không ngừng vì thế bán hàng không còn là vấn đề mới mẻ
nhng nó luôn mang tính thời sự cấp bách và là mối quan tâm của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trờng nó quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Với điều kiện cạnh tranh gay
gắt hiện nay, việc tìm kiếm phơng hớng hoàn thiện công tác bán hàng đối với từng doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp kinh doanh Xăng dầu_ mặt hàng phức tạp lại càng là một vấn đề
khó khăn,bức xúc.
Công ty xăng dầu khu vực III_ Hải Phòng là một trong những doanh nghiệp không
ngừng vơn lên trong cơ chế thị trờng. Những năm gần đây, quá trình kinh doanh của Công ty
luôn gắn liền với sự đổi mới của công tác quản trị, mở rộng thị trờng kinh doanh, giữ vững
chữ tín hàng đầu . Chính vì vậy mà trong những năm qua công ty đã không ngừng đẩy mạnh
sự phát triển về mọi mặt cả về vật chất kỹ thuật, trinh độ cán bộ công nhân viên, tạo đà đứng
vững và phát triển hơn nữa trong cơ chế thị trờng, để xứng đáng là một trong những công ty
chủ đạo của ngành xăng dầu.
Để hoàn thành khoá học tại trờng và bằng những kiến thức mà thầy, cô đã chỉ dạy, em
đã mạnh dạn nhận đề tài thực tập là:
'' Hoạt động bán hàng của Công ty xăng dầu khu vực III_Hải Phòng''.
Nội dung chuyên đề gồm 3 chơng:
ChơngI: Cơ sở lý luận về hoạt động bán hàng ở doanh nghiệp thương
mại trong nền kinh tế thị trường.
ChơngII: Thực trạng hoạt động bán hàng ở Công ty xăng dầu khu vực
III_ Hải Phòng.
ChơngIII: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy mạnh hoạt động bán hàng
tại Công ty xăng dầu khu vực III_Hải Phòng.
chương I.
lý luận chung về hoạt động bán hàng
ở doanh nghiệp thương mại
I. Khái niệm vị trí, vai trò của hoạt động bán hàng ở doanh nghiệp thương mại.
1. Khái niệm về bán hàng:
Trong nền kinh tế thị trường, đặc trưng lớn nhất của hàng hóa là nó được sản xuất để
bán, nhằm thực hiện những chỉ tiêu hiệu quả đã hoạch định trước trong phương hướng kinh
doanh của doanh nghiệp. Bán hàng là một trong những khâu quan trọng của quá trình kinh
doanh, quá trình này chỉ kết thúc khi quá trình thanh toán giữa người mua và người bán diễn
ra và quyền sở hữu về hàng hóa đã thay đổi.
Có nhiều định nghĩa về bán hàng, tuỳ thuộc quan điểm, góc độ nhìn nhận mà giữa các
định nghĩa có sự khác nhau. Tựu trung có 4 khái niệm bán hàng cần quan tâm để hiểu rõ được
bản chất của bán hàng, đó là:
* Tiếp cận bán hàng với tư cách là 1 phạm trù kinh tế theo nghĩa cổ truyền:
"Bán hàng là quá trình chuyển hóa hình thái giá trị hàng hóa từ hàng sang tiền nhằm
thỏa mãn nhu cầu của khách hàng về một giá trị sử dụng nhất định.
* Tiếp cận bán hàng với tư cách là một hành vi:
Bán hàng là quá trình thực hiện giá trị và chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa. Kết thúc quá
trình này người mua nhận được hàng, người bán nhận được tiền.
* Tiếp cận bán hàng với tư cách là Marketing:
"Bán hàng là làm cho khách hàng được xem như một nghệ thuật đòi hỏi doanh nghiệp
phải có quá trình tìm hiểu, nghiên cứu khám phá nhằm đáp ứng những nhu cầu hay ước muốn
của khách hàng trên cơ sở quyền lợi thỏa đáng và lâu dài của doanh nghiệp và khách hàng.
* Tiếp cận bán hàng theo nghĩa là một nghề (nghiệp vụ kỹ thuật):
"Bán hàng là quá trình lao động kỹ thuật nghiệp vụ của người bán hàng làm cho xã hội
nhận giá trị hàng hoá.
Theo quan điểm này thì bán hàng là 1 nghề mà không phải ai cũng làm được. Nó đòi
hỏi phải có tiêu chuẩn, có trình độ nghiệp vụ.
Do đó bán hàng là động cơ thúc đẩy bên trong, là tiền đề trực tiếp của các khâu khác,
đẩy nhanh việc bán hàng là đẩy nhanh việc quay vòng vốn.
Hoạt động bán hàng ở doanh nghiệp thương mại được xem như một quá trình kinh tế
bao gồm các công việc có liên hệ mật thiết với nhau được tiến hành ở các bộ phận khác nhau
trong doanh nghiệp.
Nó khác với hành vi bán hàng của nhân viên bán hàng chỉ bao gồm những nghiệp vụ
bán hàng cụ thể được thực hiện tại cửa hàng, quầy hàng đó.
2. Vị trí công tác bán hàng.
Hoạt động bán hàng có một vị trí hết sức quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp
nào dù là doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp kinh doanh thương mại, có thể nói nó
quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Điều này được thể hiện trước hết là ở chỗ, bán hàng là khâu quan trọng trong quá trình
tái sản xuất của doanh nghiệp. Có bán được hàng thì mới có thu nhập để trả mọi chi phí và
tiếp tục sản xuất. Hay nói cách khác bán hàng là khâu cuối cùng kết thúc quá trình nghiệp vụ
kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Đồng thời cũng là khâu trực tiếp thể hiện mối quan
hệ giữa người bán và người mua, trực tiếp thể hiện chính sách lưu thông, phân phối và tiêu
dùng của Đảng và Nhà nước, trực tiếp thể hiện chất lượng, hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
Doanh nghiệp khi tiến hành tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải tiến hành
rất nhiều khâu như khâu tạo nguồn, mua hàng, nghiên cứu thị trường, quản lý, dự trữ… trong
đó bán hàng là khâu quyết định các khâu khác, đặc biệt đó là khâu mua và khâu dự trữ.
Để tồn tại và phát triển, tạo dựng uy thế trên thương trường bất cứ doanh nghiệp nào
cũng cần xác định được vị trí của hoạt động bán hàng trong toàn bộ hoạt động của mình để từ
đó vạch ra hướng đi đúng, phù hợp và có khoa học, đảm bảo cho sự thành công của doanh
nghiệp mình.
3. Vai trò của hoạt động bán hàng trong doanh nghiệp thương mại.
Trong những năm gần đây với sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã tạo ra những
điều kiện vật chất kỹ thuật mới, tiên tiến, hiện đại tạo điều kiện cho việc mở rộng quy mô sản
xuất, kinh doanh mặt khác nó lại tạo ra một thị trường tự do cạnh tranh và gay gắt và khốc
liệt. Do đó để tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải bán được sản phẩm mình làm ra để
có lợi nhuận. Vấn đề là phải tổ chức hoạt động bán hàng như thế nào để có hiệu quả cao nhất
và đáp ứng tối đa những nhu cầu của xã hội.
Bán hàng là một trong những vấn đề thường xuyên làm đau đầu các nhà sản xuất kinh
doanh, các nhà kinh tế học đã khẳng định "Bán hàng là bước nhảy nguy hiểm chết người", tổ
chức sản xuất đã khó song bán hàng còn khó khăn, nguy hiểm và phức tạp gấp bội. Hoạt
động bán hàng, thúc đẩy, tác động đến quá trình phát triển nền kinh tế.
Do đó bán hàng có vai trò to lớn không chỉ đối với người mua, người bán mà còn đối
với cả quốc gia, dân tộc. Trên góc độ người bán, hoạt động bán hàng có vai trò sau:
* Bán hàng giúp doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là mục
tiêu cơ bản trước mắt cũng như lâu dài, chi phối mọi hoạt động của doanh nghiệp. Lợi nhuận
càng cao thì doanh nghiệp càng có điều kiện để thực hiện các mục tiêu khác. Đối với một
doanh nghiệp thương mại doanh số bán hàng chiếm tỷ lệ rất lớn trong doanh thu. Chỉ qua
khâu bán hàng, hàng hóa mới thực hiện được giá trị mới tạo ra giá trị, mới tạo ra được doanh
số bán hàng.
Đồng thời chỉ qua bán hàng, doanh nghiệp mới thu hồi được vốn, bù đắp chi phí và có
lợi nhuận cho doanh nghiệp.
* Bán hàng tạo điều kiện nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Thông qua
các hoạt động bán hàng, doanh nghiệp có điều kiện giới thiệu hàng hóa với khách hàng, có cơ
hội phục vụ khách hàng, tạo uy tín cho doanh nghiệp và niềm tin của khách hàng vào sản
phẩm. Mặt khác, bán hàng tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp thu hút, lôi kéo được nhiều khách
hàng, tăng uy tín, đảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài trên thị trường.
* Bán hàng giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế - xã hội, cạnh tranh ngày càng gay gắt, tinh vi, văn minh hơn. Các
biện pháp nhằm thích ứng với quá trình cạnh tranh luôn là vấn đề để thôi thúc, nan giải cần
được giải quyết ở bất kỳ doanh nghiệp nào. Phần lớn các biện pháp để cạnh tranh được tập
trung chủ yếu ở khâu bán hàng, bán hàng được coi là một vũ khí cạnh tranh trên thị trường
của doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác.
* Bán hàng đảm bảo an toàn trong kinh doanh cho doanh nghiệp. Bán hàng là hoạt
động phục vụ người mua của người bán. Trong quá trình bán người bán tiếp xúc trực tiếp với
người mua, nắm bắt được nhu cầu của họ nên bán hàng là khâu mà doanh nghiệp có khả năng
thu thập được nhiều thông tin nhất, làm trung gian liên lạc giữa các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh đối với các đối tượng khách hàng khác. Ngoài ra bán hàng còn là tấm gương phản
chiếu tình hình kinh doanh như thế nào? Mức lợi nhuận cao hay thấp?... góp phần cân đối
cung cầu trên thị trường, củng cố vị trí, uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Từ những vấn đề đã nói ở trên ta thấy việc phát huy thế mạnh của hoạt động bán hàng
sẽ đem lại hiệu quả to lớn cho doanh nghiệp. Bán hàng là hoạt động kinh doanh nhằm bán
được hàng hóa của nhà sản xuất cho các đối tượng tiêu dùng khác nhau, nó mang tính sống
còn đối với các doanh nghiệp, nó quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp
trên thương trường. Bán hàng là sự thực hiện giá trị và chuyển giao quyền sở hữu.
II. Nội dung của hoạt động bán hàng.
1. Nghiên cứu thị trường:
Nghiên cứu thị trường là việc cần thiết, đầu tiên đối với mỗi doanh nghiệp khi băt đầu
kinh doanh, đang kinh doanh hoặc muốn mở rộng và phát triển kinh doanh. Vì thị trường
luôn luôn biến động không ngừng. Do đó nghiên cứu thị trường là xuất phát điểm để định ra
các chiến lược kinh doanh đúng đắn từ đó doanh nghiệp tiến hành lập ra thực hiện các kế
hoạch kinh doanh, chính sách thị trường. Mục đích nghiên cứu thị trường là nghiên cứu, xác
định khả năng bán hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu của khách một cách tốt nhất.
1.1. Nội dung nghiên cứu:
- Nghiên cứu khái quát thị trường: Thực chất là nghiên cứu vĩ mô. Đó là nghiên cứu
tổng cầu hàng hóa, tổng cung, giá cả thị trường của hàng hoá chính sách của Chính phủ về
loại hàng hóa đó (kinh doanh tự do, kinh doanh có điều kiện, khuyến khích hay cấm kinh
doanh)
- Nghiên cứu thị trường thực chất là nghiên cứu đối tượng mua bán loại hàng hóa mà
doanh nghiệp kinh doanh, cơ cấu thị trường hàng hoá và chính sách mua bán của các doanh
nghiệp có nguồn hàng lớn.
1.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu hiện trường: Việc thu thập thông tin chủ yếu qua tiếp xúc trực tiếp với
đối tượng nghiên cứu. Để thu thập, có thể dùng phương pháp phỏng vấn, điều tra, quan sát…
- Nghiên cứu tại bàn hay nghiên cứu văn phòng: Là nghiên cứu thu thập các thông tin
qua hệ thống tư liệu thông tin về thị trường.
1.3. Các giai đoạn tiến hành:
* Thông tin về khách hàng: Phải xác đinh các thông số khái quát và phân loại khách
hàng tiềm năng theo các chỉ tiêu kinh tế và xã hội học (giới tính, tuổi tác, thu nhập, nghề
nghiệp và tầng lớp xã hội…). Tuỳ theo từng loại khách hàng mà doanh nghiệp có thể thu thập
thông tin cụ thể. Tuy nhiên có thể chia khách hàng thành hai nhóm sau:
* Khách hàng.
- Đối với khách hàng là người tiêu thụ trung gian:
Cần thu thập những thông tin về đặc điểm kinh doanh, năng lực quản lý, năng lực tài
chính, khả năng bao quát thị trường… của họ ở từng khu vực và những khó khăn, mong
muốn đáp ứng nhu cầu khả năng đặt hàng của họ. Đặc điểm nổi bật nhất của khách hàng của
khác hàng này là nhu cầu của họ thường với số lượng lớn và ổn đinh. Do đó doanh nghiệp
cần chú ý đến loại khách hàng này vì nó sẽ là thời cơ để tăng doanh số bán, thu hồi vốn
nhanh, đảm bảo cho chu kỳ kinh doanh kết thúc sớm và bắt đầu chu kỳ mới.
- Đối với khách hàng là người tiêu thụ cuối cùng:
Người tiêu dùng là những người mua sắm hàng hoá để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân,
gia đình hoặc một nhóm người vì nhu cầu sinh hoạt. Do đó các quyết định mua của họ mang
tính cá nhân, phong phú về nhu cầu và mong muốn.
Yêu cầu đặt ra cho nhà doanh nghiệp là phải tìm hiểu được những yếu tố cơ bản ảnh
hưởng đến hành vi mua hàng của họ như yếu tố về văn hóa - xã hội, cá nhân và tâm lý của
họ. Một doanh nghiệp sẽ có ưu thế to lớn trong cạnh tranh nếu họ thực sự hiểu rõ những phản
ứng của người tiêu dùng trước các tính năng khác nhau của sản phẩm, giá cả hàng hoá. Từ đó
chú trọng bán loại hàng hóa nào mà khách hàng yêu thích nhất và phát hiện ra nhu cầu mới
của khách hàng. Tóm lại, việc thu thập thông tin về khách hàng phải trả lời được câu hỏi sau:
Hàng bán cho ai? Mua loại hàng hoá nào? Yêu thích hàng hoá và dịch vụ đó? Họ sẽ mua như
thế nào? Mua khi nào? Mua ở đâu?
Trên địa bàn doanh nghiệp đã, đang và sẽ hoạt động, doanh nghiệp cần phải biết thị
phần thị trường doanh nghiệp đáp ứng phù hợp với nhu cầu thị trường, khả năng khách hàng
và khách hàng tương lai sẽ mua hàng của doanh nghiệp trong từng thời gian trên địa bàn.
* Thông tin về giá cả: Gía cả hàng hoá là một trong những nhân tố chủ yếu tác động
đến hoạt động bán hàng, nó có thể kích thích hay hạn chế cung cầu. Xác định giá đúng đắn sẽ
đảm bảo khả năng tiêu thụ và thu lợi nhận hay tránh được ứ đọng, hạn chế thua lỗ. Muốn vậy
doanh nghiệp phải thu thập thông tin về giá nguồn hàng đầu vào, trên cơ sở xác định chi phí
bỏ ra để xác định mức giá bán ra cho phù hợp. Tức là khi nghiên cứu giá cả thị trường, doanh
nghiệp phải tìm được chênh lệch giá bán (trên thị trường bán) và giá mua. Đồng thời cần phải
tìm kiếm thông tin liên quan đến mức giá của đối thủ cạnh tranh. Điều này đòi hỏi doanh
nghiệp phải luôn bám sát thị trường, có cái nhìn nhạy bén và linh hoạt để lựa chọn phương án
định giá thích nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận hay tối đa hóa lợi nhuận, giành được thị
phần lớn, giành được lợi thế cạnh tranh, ổn định giá và lợi nhuận, tuân thủ những yêu cầu của
nhà nước.
* Thông tin về đối thủ cạnh tranh: Việc xác định vì nó ảnh hưởng đến vị thế, an toàn
của doanh nghiệp. Ngày nay do sự tác động của nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều thành
phần các doanh nghiệp tự do trong sản xuất kinh doanh đã làm xuất hiện cạnh tranh. Để tồn
tại trên thương trường, các nhà sản xuất kinh doanh phải chấp nhận cạnh tranh, không được
lẩn tránh cạnh tranh, phải tìm mọi biện pháp hữu hiệu để thắng cạnh tranh và kinh doanh có
hiệu quả. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh thực hiện bốn chức năng cơ bản là:
- Cạnh tranh làm giá cả hàng hoá, dịch vụ giảm xuống.
- Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hóa các yếu tố đầu vào của sản xuất
kinh doanh
- Cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng ứng dụng những tiến bộ khoa
học kỹ thuật.
- Cạnh tranh là công cụ tước quyền thống trị độc quyền về kinh tế trong lịch sử.
Từ đó người tiêu dùng có thể mua một loại hàng hoá của nhiều hãng khác nhau, tự do
lựa chọn theo ý thích nhu cầu. Trong công việc nghiên cứu thu thập thông tin về tình hình
cạnh tranh trên thị trường là vô cùng quan trọng, đặc biệt là doanh nghiệp đang trong giai
đoạn đầu (mới tham gia kinh doanh). Doanh nghiệp cần nắm bắt các thông tin về số lượng,
đối thủ cạnh tranh, tiềm lực của đối thủ, thị phần uy tín của đối thủ… để chọn ra con đường
đi đúng nhất có hiệu quả cao nhất. Đo đó cạnh tranh là một quá trình liên tục, là một cuộc
chạy đua không có đích cuối cùng và nó trở thành quy luật của kinh tế thị trường.
* Xử lý thông tin:
Sau khi tiến hành thu thập thông tin, các bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường cần
phải xử lý thông tin bằng cách phân loại được các nhu cầu: nhu cầu thực tế, nhu cầu tiềm ẩn,
nhu cầu có khả năng thanh toán của từng đối tượng trên từng địa bàn. Từ đó xác định cho
mình những thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp có khả năng xâm nhập và phát triển việc
bán hàng hóa của mình, chuẩn bị cho việc thiết lập chính sách Marketing thích hợp với tình
hình thị trường đó. Có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để xử lý nhưng thông
thường nhất là: Lập mô hình giải thích thái độ chung hoặc lập bảng so sánh thị trường. Từ đó
phân tích kiểm tra để xác định tính đúng đắn và chính xác của các thông tin, loại trừ thông tin
nhiễu mà thông tin đó làm cho sự tiếp nhận thông tin sai lệch dẫn đến có những quyết định
sai lệch. Bộ phận chuyên nghiên cứu phải báo cáo thường xuyên cho ban lãnh đạo để ra quyết
định phù hợp.
* Ra quyết định phù hợp:
Sau khi đánh giá những nguồn thông tin đó là đúng đắn, doanh nghiệp quyết định phân
loại thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu, đâu là thị trường có triển vọng nhất đối với mặt
hàng, dịch vụ mà doanh nghiệp đang bán? Quyết định nên phát triển mặt hàng nào nhất, hạn
chế mặt hàng nào? Có chiến lược giá cả phù hợp cho từng loại hàng và khách hoặc khu vực.
Quyết định các hình thức dịch vụ, các hình thức phân phối, các lực lượng hàng hóa trên thị
trường nhằm đạt được hiệu quả tối ưu nhất, đảm bảo 3 mục tiêu cơ bản là: Khả năng sinh lời,
thế lực và an toàn trong kinh doanh.
2. Xác định kênh bán hàng và phân phối hàng hóa vào các kênh.
2.1. Tổ chức xây dựng kênh bán hàng.
Việc xác định đúng đắn các kênh bán hàng có tầm quan trọng đặc biệt giúp đẩy nhanh
quá trình vận chuyển của hàng hoá, tiết kiệm chi phí, giúp doanh nghiệp thu được lợi nhuận
tối đa.
Kênh bán hàng là sự kết hợp hữu cơ giữa người sản xuất và các phần tử trung gian tức
là những người lưu thông hóa để tổ chức vận động hàng hoá một cách hợp lý nhất nhằm thỏa
mãn tối đa nhu cầu của khách hàng cuối cùng.
Từ sản xuất đến tiêu dùng, hàng hoá có thể được mua qua các kênh phân phối khác
nhau do phụ thuộc vào những yếu tố như đặc điểm, tính chất của sản phẩm và các điều kiện
vận chuyển, bảo quản, sử dụng…
Ta có thể khái quát về các kênh bán hàng theo mô hình sau:
(1) Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp
(2) Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp
(3) Lực lượng bán hàng
của doanh nghiệp
ngườ
i
bán
lẻ
ngườ
i
bán
buôn
ngườ
i
bán
lẻ
Môi
giới
ngườ
i
bán
buôn
ngườ
i
bán
lẻ
Doanh
nghiệ
p
thươn
g
mại(
Tổ
chức
đầu
nguồn
)
Ngườ
i
tiêu
dùng
(4) Lực lượng bán hàng
của doanh nghiệp
- Căn cứ vào chiều dài các kênh thì có:
Kênh (1), (2) là kênh bán hàng ngắn
Kênh (3), (4) là kênh bán hàng dài
- Căn cứ vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng thì có:
Kênh (1) là kênh trực tiếp
Kênh (2), (3), (4) là kênh gián tiếp.
Trong đó:
- Kênh (1): là kênh người sản xuất (nhập khẩu) bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng
cuối cùng không thông qua khâu trung gian. Kênh này thích hợp cho các loại hàng hóa có
tính thương phẩm đặc biệt… đảm bảo cho hàng hóa lưu thông nhanh, giảm chi phí lưu thông,
quan hệ giao dịch và buôn bán đơn giản thuận tiện đồng thời phù hợp với người sản xuất có
quy mô nhỏ và quan hệ thị trường hẹp.
- Kênh (2)