1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử đã chứng minh rằng, sự thành bại hay thịnh suy của một dân tộc, một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào việc giáo dục, đào tạo bồi dưõng đội ngũ trí thức. Nguy cơ tụt hậu trong cuộc chạy đua ở thế kỷ XXI thực chất là cuộc chạy đua về trí tuệ và phát triển giáo dục. Ở bất kỳ thời đại nào nguồn lực con người luôn là vị trí trung tâm, là động lực của sự phát triển xã hội. Trong đó thế giới quan khoa học và năng lực tư duy của con người là yếu tố cơ bản của sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp “trồng người”. Ph.Ăngghen cho rằng, một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận.
Bước vào công cuộc đổi mới trong xu thế hội nhập diễn ra mạnh mẽ, đồng thời với việc nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ tương xứng với trình độ khu vực và thế giới, là hàng loạt những vấn đề đặt ra đối với nền giáo dục nước ta như: Làm thế nào để sinh viên Việt nam có đủ trình độ và niềm tin để gánh vác sứ mệnh vẻ vang của dân tộc là xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, làm thế nào để họ định hướng tư tưởng đúng trong đời sống xã hội trong thời gian học tập cũng như ra công tác sau này. Từ đây có thể suy ra tầm quan trọng hàng đầu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo sinh viên về các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống và phát triển năng lực tư duy lý luận. Với tư cách thế giới quan và phương pháp luận cho các khoa học, triết học Mác – Lênin có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xác lập các phẩm chất đó cũng như lý tưởng sống của mỗi sinh viên.
Trước sự phát triển và tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, với lượng tri thức tăng lũy tiến với tốc độ lớn như hiện nay thì việc dạy và học khép kín theo chương trình của tất cả các môn học nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng là chưa phù hợp với xu hướng giáo dục - đào tạo trên thế giới.
Để tạo ra được nguồn lực lao động có trình độ chuyên môn cao, tư duy sáng tạo và năng động, thích ứng một cách tích cực với thị trường thì lượng kiến thức mà ngành Giáo dục - Đào tạo trang bị cho sinh viên chỉ dừng ở mức “cần” cơ bản, còn điều kiện “đủ” đó chính là năng lực tự học, tự nghiên cứu, thói quen chủ động trong nhận thức, lĩnh hội tri thức. Rèn luyện kỹ năng này, là từng bước giúp cho sinh viên có khả năng định hướng và nhanh chóng nắm bắt đúng đối tượng một cách chính xác trong hoạt động trí tuệ, có khả năng xử lý nhạy bén các thông tin trước những tình huống khác nhau (vì bản thân thông tin chưa là tri thức khi chưa được sử lý), biết phê phán, phân tích đánh giá các quan điểm, lý thuyết và phương pháp của người khác để tiếp thu cái hay cái tốt, khắc phục cái lạc hậu, lệch lạc và quan trọng hơn cả là hình thành được tính độc lập trong tư duy và huy động được tri thức lý luận và kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra mà không phụ thuộc vào người khác.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương, nghị quyết nhằm đổi mới nội dung chương trình giáo dục - đào tạo và phương pháp dạy học. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) đã chỉ rõ: “Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay” [11, tr.203-204]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, khắc phục lối truyền thụ một chiều” [12, tr.97]. Cụ thể hoá các nghị quyết trên, ngày 10 tháng 10 năm 2006 Bộ Giáo dục & Đào tạo đã ra công văn số 11381/BGDĐT-ĐH & SĐH về việc hướng dẫn giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó yêu cầu: “Thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển quá trình dạy ở bậc Đại học thành quá trình tự học của sinh viên có tổ chức và hỗ trợ tối ưu của giảng viên thực hiện 50 % thời gian môn học dành cho lên lớp và 50 % thời gian hội thảo có giảng viên hướng dẫn và sinh viên tự nghiên cứu” [7, Tr.2].
Thực tế trong giảng dạy môn triết học Mác - Lênin ở trường Đại học Tây Bắc, một vấn đề luôn được giảng viên và sinh viên quan tâm là làm thế nào để nắm bắt được môn triết học Mác- Lênin? Vấn đề không đơn giản là sự nhồi nhét của người dạy và người học cố gắng thuộc lòng những nguyên lý, quy luật phổ biến của khoa học này đã được trình bày trong giáo trình. Để hiểu được nội dung và thực chất của Triết học Mác - Lênin thì trước hết phải coi nó là một triết học có sự: “Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng trong triết học”. Cả người dạy và người học phải gắn những nguyên lý chung của triết học với thực tiễn và phân tích được những vấn đề cuộc sống đã, đang và sẽ xảy ra. Bản chất của Triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới, các kết luận triết học không chỉ đơn thuần là lời giải đáp lý luận về các sự vật, hiện tượng, sự kiện nào đó mà nó là cơ sở lý luận có giá trị định hướng cho việc xác định, giải quyết những vấn đề ở mọi lĩnh vực khác nhau.
Như vậy, triết học một mặt đòi hỏi người học phải có một trình độ tư duy trừu tượng và khái quát nhất định, có lối sống thực tế, kiến thức liên môn rộng, và điều khó khăn nhất đối với hầu hết sinh viên là lần đầu tiên được tiếp xúc với tri thức triết học (thực ra các em đã được học ở trường phổ thông, nhưng là kiến thức sơ đẳng với đa số giáo viên dạy kiêm nhiệm, chéo ban), năng lực nhận thức chưa hoàn thiện, nhất là tính độc lập trong tư duy và cách thức chuyển hóa tri thức của người dạy thành tri thức của người học, với giảng viên thì ít quan tâm đến việc hướng dẫn phương pháp tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên một cách một cách chuyên nghiệp, khoa học, do đó chưa hình thành kỹ năng chủ động, độc lập trong việc khám phá tri thức triết học - vốn là môn học có tính trừu tượng cao. Tất cả điều trên dẫn đến kết quả học tập môn học này ở trường Đại học Tây Bắc còn rất thấp.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra nói trên, tôi lựa chọn đề tài: “Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong lịch sử giáo dục, vấn đề tự học và hướng dẫn tự học được đề cập và nghiên cứu từ rất sớm, nhưng ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau với điều kiện lịch sử cụ thể mà vấn đề này được các nhà nghiên cứu tiếp cận ở những góc độ, phương diện khác nhau. Bước chuyển có tính chất quyết định trong lý luận dạy học là hình thành quan điểm dạy học “Lấy người học làm trung tâm” và một trong những đại biểu tiêu biểu cho quan điểm này đó là J.Deway (1938) khi ông cho rằng: “Học sinh là mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi phương diện giáo dục”, tác giả này đề cao nhu cầu, lợi ích của người học, đề xuất việc để cho người học lựa chọn nội dung học tập, được tự lực tìm tòi nghiên cứu. Cùng với quan điểm này là sự xuất hiện một loạt thuật ngữ mới trong giáo dục học như “Sự tự giáo dục”, “Người tự giáo dục”.đã trở thành phổ biến ở các nước có nền giáo dục phát triển.
Ở Việt Nam, người khởi xướng cho nền giáo dục cách mạng và là tấm gương sáng cho nghị lực và phương pháp tự học là Hồ Chí Minh, với tư tưởng: “Phải tự nguyện, tự giác xem công việc học tập là nhiệm vụ của người cách mạng” và “Về học tập phải lấy tự học làm cốt”. Người rất đề cao tính độc lập trong suy nghĩ và dựa vào sức mình là chính, đây là biểu hiện cao của ý thức tự nguyện, tự giác học tập, Người nhấn mạnh, phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. đọc tài liệu thì phải đào sâu, hiểu kỹ, có vấn đề chưa thông suốt thì phải mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ.
Vấn đề phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, sinh viên nhằm đào tạo nguồn nhân lực có khả năng sáng tạo đã được ngành giáo dục đặt ra từ những năm 1960 với khẩu hiệu “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Cùng với quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, xu hướng vận động của nền giáo dục Việt Nam cũng từng bước tiếp cận và đổi mới theo nền giáo dục tiên tiến của các nước phát triển, nhưng đổi mới dạy và học như thế nào để vừa đảm bảo tính hiện đại, vừa phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nước ta, rất nhiều tác giả như Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Trần Bá Hoành. đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị cả về phương diện lý luận và thực tiễn về vấn đề nâng cao chất lượng dạy học thông qua tự học và hướng dẫn tự học. Mới nhất, trong thời gian vừa qua có nhiều đề tài khoa học, luận văn thạc sỹ và luận án tiến sỹ tập trung nghiên cứu nội dung này như:
- Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Thị Tính (2004) “Các biện pháp tổ chức hoạt động tự học môn Giáo dục cho sinh viên các trường sư phạm”.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Đinh Thị Cúc (2006) “Hướng dẫn phương pháp tự học học phần chủ nghĩa duy vật biện chứng môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Cao đẳng kinh tế - thương mại Hà Tây”.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Trần Văn Bằng (2007) “Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Cao đẳng công nghiệp Sao Đỏ”
Như vậy, vấn đề tự học và hướng dẫn tự học đã được nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, trình độ khác nhau, tất cả đều cố gắng tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của tự học, chỉ ra thực trạng, tầm quan trọng cũng như giải pháp khác nhau của hoạt động tự học và hướng dẫn tự học đối với sinh viên một số trường Đại học, Cao đẳng.
Tuy nhiên vấn đề hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin ở trường Đại học Tây Bắc còn là một vấn đề mới. Là một trường Đại học mang đậm tính đặc thù vùng, phát triển từ trường Cao đẳng sư phạm mới được 8 năm thì vấn đề phương pháp tự học tự nghiên cứu của sinh viên chưa được giảng viên và sinh viên quan tâm đúng mức, do đó gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển quá trình dạy ở bậc Đại học thành quá trình tự học của sinh viên theo công văn hướng dẫn số 11381 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Vì vậy, việc nghiên cứu và triển khai vấn đề tự học và phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin là hết sức cần thiết, nhằm cập nhật chương trình đào tạo, phương pháp dạy học mới và góp phần nâng cao chất lượng học tập môn học này tại trường Đại học Tây Bắc.
3. Mục đích nghiên cứu
Từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề tự học môn triết học Mác - Lênin ở trường Đại học Tây Bắc, luận văn đề xuất một số giải pháp hoạt động hướng dẫn phương pháp tự học cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc nhằm nâng cao chất lượng học tập môn này, góp phần thiết thực vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo chung của Trường.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Quá trình tự học và hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác – Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc.
- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu lý luận về hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác – Lênin và thực nghiệm hướng dẫn phương pháp tự học hai chương (chương VI và IX) trong chương trình môn triết học Mác – Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc.
5. Phương pháp nghiên cứu
* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Vận dụng phương pháp luận triết học Mác - Lênin: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Đọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá, phân loại . các tài liệu, giáo trình, các công trình nghiên cứu có liên quan.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện
- Phương pháp chuyên gia
- Thực nghiệm sư phạm
6. Đóng góp mới của tác giả
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài, thực trạng và nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng phương pháp và hiệu quả của việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên trường Đại học Tây Bắc còn thấp.
- Tiến hành thực nghiệm để so sánh đối chứng, xác định những khó khăn, thuận lợi và tính khả thi của các biện pháp đã đề ra.
- Đề xuất một số hoạt động, biện pháp hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác – Lênin ở trường Đại học Tây Bắc.
- Rút ra quy trình và các điều kiện cần thiết để thực hiện các biện pháp hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin tại trường Đại học Tây Bắc.
114 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4013 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử đã chứng minh rằng, sự thành bại hay thịnh suy của một dân tộc, một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào việc giáo dục, đào tạo bồi dưõng đội ngũ trí thức. Nguy cơ tụt hậu trong cuộc chạy đua ở thế kỷ XXI thực chất là cuộc chạy đua về trí tuệ và phát triển giáo dục. Ở bất kỳ thời đại nào nguồn lực con người luôn là vị trí trung tâm, là động lực của sự phát triển xã hội. Trong đó thế giới quan khoa học và năng lực tư duy của con người là yếu tố cơ bản của sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp “trồng người”. Ph.Ăngghen cho rằng, một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận.
Bước vào công cuộc đổi mới trong xu thế hội nhập diễn ra mạnh mẽ, đồng thời với việc nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ tương xứng với trình độ khu vực và thế giới, là hàng loạt những vấn đề đặt ra đối với nền giáo dục nước ta như: Làm thế nào để sinh viên Việt nam có đủ trình độ và niềm tin để gánh vác sứ mệnh vẻ vang của dân tộc là xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, làm thế nào để họ định hướng tư tưởng đúng trong đời sống xã hội… trong thời gian học tập cũng như ra công tác sau này. Từ đây có thể suy ra tầm quan trọng hàng đầu của sự nghiệp giáo dục và đào tạo sinh viên về các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống và phát triển năng lực tư duy lý luận. Với tư cách thế giới quan và phương pháp luận cho các khoa học, triết học Mác – Lênin có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xác lập các phẩm chất đó cũng như lý tưởng sống của mỗi sinh viên.
Trước sự phát triển và tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, với lượng tri thức tăng lũy tiến với tốc độ lớn như hiện nay thì việc dạy và học khép kín theo chương trình của tất cả các môn học nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng là chưa phù hợp với xu hướng giáo dục - đào tạo trên thế giới.
Để tạo ra được nguồn lực lao động có trình độ chuyên môn cao, tư duy sáng tạo và năng động, thích ứng một cách tích cực với thị trường thì lượng kiến thức mà ngành Giáo dục - Đào tạo trang bị cho sinh viên chỉ dừng ở mức “cần” cơ bản, còn điều kiện “đủ” đó chính là năng lực tự học, tự nghiên cứu, thói quen chủ động trong nhận thức, lĩnh hội tri thức. Rèn luyện kỹ năng này, là từng bước giúp cho sinh viên có khả năng định hướng và nhanh chóng nắm bắt đúng đối tượng một cách chính xác trong hoạt động trí tuệ, có khả năng xử lý nhạy bén các thông tin trước những tình huống khác nhau (vì bản thân thông tin chưa là tri thức khi chưa được sử lý), biết phê phán, phân tích đánh giá các quan điểm, lý thuyết và phương pháp của người khác để tiếp thu cái hay cái tốt, khắc phục cái lạc hậu, lệch lạc và quan trọng hơn cả là hình thành được tính độc lập trong tư duy và huy động được tri thức lý luận và kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra mà không phụ thuộc vào người khác.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương, nghị quyết nhằm đổi mới nội dung chương trình giáo dục - đào tạo và phương pháp dạy học. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) đã chỉ rõ: “Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay” [11, tr.203-204]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, khắc phục lối truyền thụ một chiều” [12, tr.97]. Cụ thể hoá các nghị quyết trên, ngày 10 tháng 10 năm 2006 Bộ Giáo dục & Đào tạo đã ra công văn số 11381/BGDĐT-ĐH & SĐH về việc hướng dẫn giảng dạy các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó yêu cầu: “Thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển quá trình dạy ở bậc Đại học thành quá trình tự học của sinh viên có tổ chức và hỗ trợ tối ưu của giảng viên…thực hiện 50 % thời gian môn học dành cho lên lớp và 50 % thời gian hội thảo có giảng viên hướng dẫn và sinh viên tự nghiên cứu” [7, Tr.2].
Thực tế trong giảng dạy môn triết học Mác - Lênin ở trường Đại học Tây Bắc, một vấn đề luôn được giảng viên và sinh viên quan tâm là làm thế nào để nắm bắt được môn triết học Mác- Lênin? Vấn đề không đơn giản là sự nhồi nhét của người dạy và người học cố gắng thuộc lòng những nguyên lý, quy luật phổ biến của khoa học này đã được trình bày trong giáo trình. Để hiểu được nội dung và thực chất của Triết học Mác - Lênin thì trước hết phải coi nó là một triết học có sự: “Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng trong triết học”. Cả người dạy và người học phải gắn những nguyên lý chung của triết học với thực tiễn và phân tích được những vấn đề cuộc sống đã, đang và sẽ xảy ra. Bản chất của Triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới, các kết luận triết học không chỉ đơn thuần là lời giải đáp lý luận về các sự vật, hiện tượng, sự kiện nào đó mà nó là cơ sở lý luận có giá trị định hướng cho việc xác định, giải quyết những vấn đề ở mọi lĩnh vực khác nhau.
Như vậy, triết học một mặt đòi hỏi người học phải có một trình độ tư duy trừu tượng và khái quát nhất định, có lối sống thực tế, kiến thức liên môn rộng, và điều khó khăn nhất đối với hầu hết sinh viên là lần đầu tiên được tiếp xúc với tri thức triết học (thực ra các em đã được học ở trường phổ thông, nhưng là kiến thức sơ đẳng với đa số giáo viên dạy kiêm nhiệm, chéo ban), năng lực nhận thức chưa hoàn thiện, nhất là tính độc lập trong tư duy và cách thức chuyển hóa tri thức của người dạy thành tri thức của người học, với giảng viên thì ít quan tâm đến việc hướng dẫn phương pháp tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên một cách một cách chuyên nghiệp, khoa học, do đó chưa hình thành kỹ năng chủ động, độc lập trong việc khám phá tri thức triết học - vốn là môn học có tính trừu tượng cao. Tất cả điều trên dẫn đến kết quả học tập môn học này ở trường Đại học Tây Bắc còn rất thấp.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra nói trên, tôi lựa chọn đề tài: “Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong lịch sử giáo dục, vấn đề tự học và hướng dẫn tự học được đề cập và nghiên cứu từ rất sớm, nhưng ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau với điều kiện lịch sử cụ thể mà vấn đề này được các nhà nghiên cứu tiếp cận ở những góc độ, phương diện khác nhau. Bước chuyển có tính chất quyết định trong lý luận dạy học là hình thành quan điểm dạy học “Lấy người học làm trung tâm” và một trong những đại biểu tiêu biểu cho quan điểm này đó là J.Deway (1938) khi ông cho rằng: “Học sinh là mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi phương diện giáo dục”, tác giả này đề cao nhu cầu, lợi ích của người học, đề xuất việc để cho người học lựa chọn nội dung học tập, được tự lực tìm tòi nghiên cứu. Cùng với quan điểm này là sự xuất hiện một loạt thuật ngữ mới trong giáo dục học như “Sự tự giáo dục”, “Người tự giáo dục”...đã trở thành phổ biến ở các nước có nền giáo dục phát triển.
Ở Việt Nam, người khởi xướng cho nền giáo dục cách mạng và là tấm gương sáng cho nghị lực và phương pháp tự học là Hồ Chí Minh, với tư tưởng: “Phải tự nguyện, tự giác xem công việc học tập là nhiệm vụ của người cách mạng” và “Về học tập phải lấy tự học làm cốt”. Người rất đề cao tính độc lập trong suy nghĩ và dựa vào sức mình là chính, đây là biểu hiện cao của ý thức tự nguyện, tự giác học tập, Người nhấn mạnh, phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. đọc tài liệu thì phải đào sâu, hiểu kỹ, có vấn đề chưa thông suốt thì phải mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ.
Vấn đề phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, sinh viên nhằm đào tạo nguồn nhân lực có khả năng sáng tạo đã được ngành giáo dục đặt ra từ những năm 1960 với khẩu hiệu “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Cùng với quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, xu hướng vận động của nền giáo dục Việt Nam cũng từng bước tiếp cận và đổi mới theo nền giáo dục tiên tiến của các nước phát triển, nhưng đổi mới dạy và học như thế nào để vừa đảm bảo tính hiện đại, vừa phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nước ta, rất nhiều tác giả như Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Trần Bá Hoành... đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị cả về phương diện lý luận và thực tiễn về vấn đề nâng cao chất lượng dạy học thông qua tự học và hướng dẫn tự học. Mới nhất, trong thời gian vừa qua có nhiều đề tài khoa học, luận văn thạc sỹ và luận án tiến sỹ tập trung nghiên cứu nội dung này như:
- Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Thị Tính (2004) “Các biện pháp tổ chức hoạt động tự học môn Giáo dục cho sinh viên các trường sư phạm”.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Đinh Thị Cúc (2006) “Hướng dẫn phương pháp tự học học phần chủ nghĩa duy vật biện chứng môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Cao đẳng kinh tế - thương mại Hà Tây”.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Trần Văn Bằng (2007) “Hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên trường Cao đẳng công nghiệp Sao Đỏ”…
Như vậy, vấn đề tự học và hướng dẫn tự học đã được nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, trình độ khác nhau, tất cả đều cố gắng tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của tự học, chỉ ra thực trạng, tầm quan trọng cũng như giải pháp khác nhau của hoạt động tự học và hướng dẫn tự học đối với sinh viên một số trường Đại học, Cao đẳng.
Tuy nhiên vấn đề hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin ở trường Đại học Tây Bắc còn là một vấn đề mới. Là một trường Đại học mang đậm tính đặc thù vùng, phát triển từ trường Cao đẳng sư phạm mới được 8 năm thì vấn đề phương pháp tự học tự nghiên cứu của sinh viên chưa được giảng viên và sinh viên quan tâm đúng mức, do đó gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển quá trình dạy ở bậc Đại học thành quá trình tự học của sinh viên theo công văn hướng dẫn số 11381 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Vì vậy, việc nghiên cứu và triển khai vấn đề tự học và phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin là hết sức cần thiết, nhằm cập nhật chương trình đào tạo, phương pháp dạy học mới và góp phần nâng cao chất lượng học tập môn học này tại trường Đại học Tây Bắc.
3. Mục đích nghiên cứu
Từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề tự học môn triết học Mác - Lênin ở trường Đại học Tây Bắc, luận văn đề xuất một số giải pháp hoạt động hướng dẫn phương pháp tự học cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc nhằm nâng cao chất lượng học tập môn này, góp phần thiết thực vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo chung của Trường.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Quá trình tự học và hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác – Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc.
- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu lý luận về hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác – Lênin và thực nghiệm hướng dẫn phương pháp tự học hai chương (chương VI và IX) trong chương trình môn triết học Mác – Lênin cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc.
5. Phương pháp nghiên cứu
* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Vận dụng phương pháp luận triết học Mác - Lênin: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Đọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá, phân loại…. các tài liệu, giáo trình, các công trình nghiên cứu có liên quan.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện
- Phương pháp chuyên gia
- Thực nghiệm sư phạm
6. Đóng góp mới của tác giả
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài, thực trạng và nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng phương pháp và hiệu quả của việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên trường Đại học Tây Bắc còn thấp.
- Tiến hành thực nghiệm để so sánh đối chứng, xác định những khó khăn, thuận lợi và tính khả thi của các biện pháp đã đề ra.
- Đề xuất một số hoạt động, biện pháp hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác – Lênin ở trường Đại học Tây Bắc.
- Rút ra quy trình và các điều kiện cần thiết để thực hiện các biện pháp hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin tại trường Đại học Tây Bắc.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HƯỚNG DẪN
PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
Lý luận về tự học và hướng dẫn phương pháp tự học
1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của tự học
* Khái niệm tự học
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học lý luận dạy học trong những năm gần đây, vấn đề tự học tự nghiên cứu đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra bàn luận, trong nhiều tài liệu, công trình khoa học của mình các học giả đã đưa ra nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau xoay quanh vấn đề này, sau đây là một số định nghĩa theo tôi là sâu sắc và cơ bản:
- Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Phó giáo sư Hà Thị Đức trong cuốn “Lý luận dạy học đại học” thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học. Đó là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính người học tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được qui định”. [15, Tr.142]
- Theo Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học - là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi..vv...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”. [21, Tr.621]
- Nhà tâm lý học N.ARubakin quan niệm: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng , kỹ xảo của chủ thể.
Từ những quan điểm, định nghĩa về tự học nêu trên, tôi đi đến định nghĩa chung nhất về tự học như sau: Tự học là quá trình nhận thức của cá nhân người học với ý thức tự giác, tích cực, độc lập huy động năng lực trí tuệ và thể lực của bản thân nhằm chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó của nhân loại, biến tri thức đó thành vốn tri thức của mình.
Tùy vào điều kiện hoàn cảnh của mỗi cá nhân và chương trình giáo dục - đào tạo mà quá trình tự học có thể thực hiện theo ba cách thức sau:
- Cách thức 1: Cá nhân người học tự nghiên cứu theo sở thích và hứng thú môn học mà không có sự hướng dẫn của giáo viên hoặc chuyên gia về lĩnh vực đó. Hình thức này thường gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu, do phải tự mò mẫm nên dẫn đến đi chệch hướng nghiên cứu, phải thực nghiệm nhiều lần hoặc cứ liệu, suy luận mang tính chủ quan của cá nhân…
Tuy nhiên quá trình tự nghiên cứu này kết quả sẽ đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới, hình thức tự học này phải được dựa trên nền tảng cá nhân nắm vững tri thức cơ bản lĩnh vực đó và đặc biệt phải có một niềm tin mạnh mẽ, sự khao khát, say mê khám phá tri thức mới. Đạt tới trình độ tự học này người học đã vươn tới hình thức cao nhất của nghiên cứu khoa học, không thầy hướng dẫn mà vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt động nhận thức của mình.
- Cách thức 2: Tự học có thầy ở xa hướng dẫn.
Đây là hình thức tự học mới nhưng do phù hợp với thời đại nên được ứng dụng khá phổ biến trên thế giới cũng như Việt Nam, mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có sự trao đổi thông tin giữa thầy và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin dưới dạng Fax, email… nhằm phản ánh, cung cấp thông tin và giải đáp các thắc mắc, kiểm tra, đánh giá,...hình thức này được sử dụng nhiều đặc biệt là Hệ đào tạo từ xa.
- Cách thức 3: Tự học có thầy trực tiếp hướng dẫn một số tiết trên lớp, sau đó sinh viên về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên
Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ, chất xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai trò là chủ thể của quá trình nhận thức: chủ động, tự giác, tích cực tham gia vào quá trình học tập. Trong mối quan hệ giữa người thầy và sinh viên thì sinh viên là chủ thể cơ bản và quyết định của quá trình khám phá tri thức. Trong quá trình tự học, tuy người học không trực tiếp trao đổi thông tin với thầy, nhưng dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích cực, chủ động tự sưu tầm tài liệu, sắp xếp kế hoạch nghiên cứu để hoàn những yêu cầu do giáo viên đề ra.
Nội dung tự học của người học theo hình thức này liên quan trực tiếp với yêu cầu của giảng viên môn học, được giảng viên định hướng về nội dung, mục đích yêu cầu và phương pháp tự học theo một quy trình khoa học để người học thực hiện. Như vậy ở hình thức tự học thứ ba này quá trình tự học của sinh viên có liên quan chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố hướng dẫn phương pháp tự học của giảng viên và quá trình tự học của sinh viên.
Do mục đích, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu, ở đề tài này tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu việc hướng dẫn phương pháp tự học môn triết học Mác - Lênin cho sinh viên dưới sự hướng dẫn của giảng viên trong quá trình dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo ở trường Đại học Tây Bắc.
Với đối tượng là sinh viên Đại học hệ chính quy do đó ta cần phân biệt với tự học của sinh viên Hệ đào tạo từ xa. Theo Luật Giáo dục, học từ xa, vừa học vừa làm, tự học có hướng dẫn thuộc phương thức giáo dục không chính quy (mục d - điều 41 Luật Giáo dục). Trong các hình thức giáo dục này, người học chủ yếu phải tự học bằng sách giáo khoa, tài liệu và các điều kiện, phương tiện của mình để đạt được một mục tiêu hay một chương trình đào tạo. Như vậy bản chất của việc học từ xa là tự học, người học phải biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo với sự trợ giúp của các cơ sở đào tạo mà trực tiếp là các giảng viên bộ môn.
* Ý nghĩa của tự học trong quá trình dạy học
Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học ở bậc đại học nói riêng, người giảng viên luôn giữ một vai trò quan trọng đặc biệt không thể thiếu được đó là sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn, hoạt động học tập của sinh viên. Nhưng thực tế cho thấy rằng, dù giảng viên có kiến thức uyên thâm đến đâu, phương pháp giảng dạy hay đến mấy nhưng sinh viên không chịu đầu tư thời gian, không có sự lao động của cá nhân, không có niềm khao khát với tri thức, không có sự say mê học tập và phương pháp học tập hợp lý, không tự giác tích cực trong học tập... thì việc học tập không thể đạt kết quả cao được.
Theo nhà giáo dục ngưòi Nga A.Đixrtervec đã viết: “không thể ban tặng cho hoặc truyền đạt đến bất kỳ một người nào sự phát triển và giáo dục. Bất cứ ai mong muốn được phát triển và giáo dục cũng phải phấn đấu bằng sự hoạt động của bản thân, bằng sức lực của chính mình. Anh ta chỉ có thể nhận được từ bên ngoài sự kích thích mà thôi…Vì thế, sự hoạt động tự lực là phương tiện và đồng thời là kết quả của sự giáo dục” [24, Tr.118]
Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của hoạt động tự học luôn giữ một vị trí rất quan trọng trong quá trình học tập của người học. Tự học là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động học tập của chính cá nhân người học.
Ở bậc Đại học đòi hỏi sinh viên phải tiếp thu một lượng kiến thức lớn và chuyên sâu, cho nên ngoài thời gian học trên lớp sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu ngoài giờ lên lớp để mở rộng và đào sâu tri thức. Cũng chính thông qua hoạt động tự học này đã giúp rất nhiều cho sinh viên trong quá trình học tập, tự học giúp sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng kỹ xảo và nghề nghiệp trong tương lai. Chính trong quá trình tự học sinh viên đã từng bước biến vốn kinh nghiệm của loài