Vật liệu khung cơkim là một loại vật liệu xốp kết tinh. Thông thường, vật liệu
xốp được phân loại dựa vào đường kính lỗxốp. Theo IUPAC, vật liệu xốp kích
thước micro (< 2 nm), meso (2-50 nm) và macro (> 50 nm)[40].
Vật liệu lỗxốp thu hút được nhiều sựquan tâm bởi có diện tích bềmặt lớn và có
ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Zeoilte là một phân loại vật liệu xốp kết tinh được
sửdụng rộng rãi làm chất xúc tác, trong công nghệhóa dầu, trao đổi ion, trong chất
tẩy rửa [2] và đóng vai trò nhưchất chọn lọc phân tửtrong công nghệtách khí
12 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3148 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Khảo sát quy trình tổng hợp vật liệu khung cơ kim của 1,4-Benzenedicarboxylic acid và bis (4,4- dicarboxylic acid và bis (4,4- dicarboxylphenyl) pheny, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
19
Luận văn Thạc sĩ Hóa Học Nguyễn Thị Tuyết Nhung
20
Luận văn Thạc sĩ Hóa Học Nguyễn Thị Tuyết Nhung
CẤU TRÚC CỦA MOF
2.1. Cấu trúc các chất rắn tinh thể
Tinh thể là sự sắp xếp tuần hoàn trong không gian của các nguyên tử, các nhóm
nguyên tử hoặc phân tử (Hình 2.1). Sự sắp xếp tuần hoàn lặp lại theo cả ba chiều
không gian. Trong điều kiện lý tưởng, đơn tinh thể có thể được tạo thành trong đó
tất cả các nguyên tử trong chất rắn đều có cùng một cấu trúc.
Mạng tinh thể (cấu trúc tinh thể) là mạng lưới không gian ba chiều trong đó các
nút mạng là các đơn vị cấu trúc (nguyên tử, ion, phân tử,…). Mô tả mạng tinh thể:
Hình 2. 1: Mô tả tinh thể chất rắn
= +
Cấu trúc tinh thể = Mạng tinh thể + Cơ sở
Cấu trúc tinh thể = Mạng tinh thể + Cơ sở
Hoăc
21
Luận văn Thạc sĩ Hóa Học Nguyễn Thị Tuyết Nhung
dựa vào các vector tịnh tiến cơ sở a1, a2, a3 có thể chọn tùy ý và vector tịnh tiến của
mạng tinh thể Tn = n1a1 + n2a2 + n3a3 (Hình 2.2)
Phép đối xứng mạng tinh thể là phép biến đổi không gian làm cho mạng tinh thể
trùng với chính nó. Gồm các phép: đối xứng tịnh tiến, các trục quay C1, C2, C3, C4
và C6, mặt phản xạ gương M, tâm đảo I.
Ô cơ sở là phần tinh thể mà bằng cách tịnh tiến nó theo hướng của ba trục tinh
thể ta có thể thu được toàn bộ tinh thể.
Mỗi ô đơn vị cho biết: hằng số mạng (a, b, c, α, β, γ), số đơn vị cấu trúc, số phối
trí, độ đặc khít. Bảng 2.1 và Hình 2.3 là thông số và hình của năm ô mạng tinh thể
hai chiều.
Bảng 2.1: Tên và thông số của các mạng hai chiều
Thứ tự Mạng Đặc điểm ô mạng
1 Mạng nghiêng a1 ≠ a2, ϕ ≠ 90°
2 Mạng lục giác a1 = a2, ϕ = 120°
3 Mạng vuông a1 = a2, ϕ = 90°
4 Mạng chữ nhật a1 ≠ a2, ϕ = 90°
Hình 2. 2: Mô tả tính toán mạng tinh thể
22
Luận văn Thạc sĩ Hóa Học Nguyễn Thị Tuyết Nhung
5 Mạng chữ nhật tâm mặt a1 ≠ a2, ϕ ≠ 90°
Mạng tinh thể 3 chiều gồm 7 hệ tinh thể và 4 loại ô mạng khác nhau tạo ra 28
mạng Bravais, nhưng trên thực tế chỉ có 14 hệ mạng Bravais. Bốn loại ô mạng đó
là: ô mạng nguyên thủy P, ô mạng tâm khối I, ô mạng tâm đáy A, B, C và ô mạng
tâm mặt F.
Hình 2. 3: Năm ô mạng tinh thể hai chiều
23
Luận văn Thạc sĩ Hóa Học Nguyễn Thị Tuyết Nhung
Hình 2. 4: Bảy hệ tinh thể ba chiều
Ba phương
Bốn phương
Lập phương
Trựcphương
(Trực thoi)
Lục phương
Ba nghiêng
Một nghiêng
24
Luận văn Thạc sĩ Hóa Học Nguyễn Thị Tuyết Nhung
Chỉ số Miller của nút mạng tinh thể là để mô tả các nút mạng, các mặt, các
hướng trong tinh thể. Chỉ số Miller chỉ vị trí của một mặt được xác định bởi 3 điểm
mà mặt đó cắt 3 trục tọa độ. Chỉ số Miller càng nhỏ thì khoảng cách giữa hai mặt kế
nhau càng lớn và mật độ nút mạng càng lớn (Hình 2.5)
2.2. Cấu trúc của MOFs [13, 19-21]
Vật liệu khung cơ kim (MOFs) là các khối đa diện kim loại – hữu cơ được lắp
ráp từ những khối cấu trúc thứ cấp vô cơ và các đường nối ligand hữu cơ tạo thành
khung sườn trung hòa. Các nhà nghiên cứu đang tìm ra những quy luật cho phép dự
đoán trước cấu trúc MOF dự định tổng hợp. Một khi những quy luật này được làm
sáng tỏ sẽ tạo ra khả năng lớn cho sự thiết kế những vật liệu lỗ xốp phục vụ cho
những nhu cầu riêng biệt.
Ở những cấu trúc được tạo thành từ những cầu nối hữu cơ hai chức sẽ tạo ra một
loại khối cấu trúc thứ cấp và một loại liên kết. Hình thái mạng lưới tạo thành theo
kiểu mẫu này sẽ được phân loại như sau: khối đa giác đều (regular), khối đa giác
gần như đều (quasiregular), khối đa giác đều một nửa (semiregular). Hiện nay, các
nghiên cứu chỉ giới hạn ở những cấu trúc có tính đối xứng cao. Ở đó khoảng cách
giữa các vertex không liên kết không ngắn hơn chiều dài của các cầu nối hữu cơ. Có
khoảng 20 mạng lưới thuộc loại cấu trúc này đã được xác định và mô tả rất rõ.
Trong hóa học mạng lưới, thông thường các mạng lưới sẽ được cấu thành từ
những cầu nối hữu cơ đa chức (nhiều hơn hai chức). Ở đó khối cấu trúc thứ cấp và
mạng lưới được mở rộng tương ứng sẽ có hai loại vertex và một loại liên kết. Cũng
trong giới hạn của sự nghiên cứu, chỉ chú ý đến những cấu trúc có tính đối xứng
Hình 2. 5: Mô tả cách xác định chỉ số Miller
25
Luận văn Thạc sĩ Hóa Học Nguyễn Thị Tuyết Nhung
cao, có 32 mạng lưới thuộc loại cấu trúc này đã được xác định và mô tả. Tuy nhiên
cũng trong sự giới hạn này, vẫn còn những cấu trúc mạng lưới chưa được biết đến.
Cấu trúc khung sườn của vật liệu MOF được đặc điểm hóa bởi hai góc quan
trọng. Đó là góc giữa các liên kết trong khối cấu trúc thứ cấp (η) và góc giữa hai
nhóm chức của cầu nối hữu cơ (θ) (Hình 2.6-2.7) [13].
Khi các khối cấu trúc thứ cấp được liên kết với nhau bởi các cầu nối hữu cơ sẽ
hình thành nên các đa diện (Hình 2.8 -2.14).
Hình 2. 6: Biểu diễn một số khối cấu trúc thứ cấp và góc η của chúng [13]
Hình 2. 7: Biểu diễn góc θ giữa các liên kết của các cầu nối ligand hữu cơ [13]
26
Luận văn Thạc sĩ Hóa Học Nguyễn Thị Tuyết Nhung
Hình 2. 8: Cấu trúc dạng tứ diện và hình IRMOF – 51 dựa vào khối tứ diện [13]
Hình 2. 9: Cấu trúc dạng bát diện và [In6(2,5-pdc)12]6– (2,5–pdc =2,5-
pyridinedicarboxylate) dựa vào khối bát diện [13]
Hình 2. 10: Cấu trúc dạng lập phương và [L8Ru8(bpy)12]16+(L=1,4,7-
trithionane;bpy=4,4’-bipyridine) dựa vào khối lập phương [13]
27
Luận văn Thạc sĩ Hóa Học Nguyễn Thị Tuyết Nhung
Hình 2.11: Cấu trúc dạng cuboctahedron và MOP – 1 dựa vào khối cuboctahedron [13]
Hình 2.12: Cấu trúc dạng heterocube và khối cấu trúc thứ cấp {Co(H2O)3(CN)3} dựa vào khối
heterocube [13]
Hình 2.13: Cấu trúc dạng Rhombic Dodecahedron và khung
[(Me3tacn)8Cr8Ni6(CN)24]12+(Me3tacn=N,N’,N’’-trimethyl-1,4,7-triazacyclononane) dựa vào
khối Rhombic Dodecahedron [13]
28
Luận văn Thạc sĩ Hóa Học Nguyễn Thị Tuyết Nhung
2.2.1. Ligand tạo MOFs
Những ligand dùng cho tổng hợp MOFs là những hợp chất hữu cơ đa chức phổ
biến là carboxylate, phosphonic, sulfonic và các dẫn xuất của nitơ như pyridine.
Chúng đóng vai trò là cầu nối liên kết các SBU với nhau hình thành nên vật liệu
MOFs với lượng lớn lỗ xốp bên trong. Cấu trúc của ligand như loại nhóm chức,
chiều dài liên kết, góc liên kết góp phần quan trọng quyết định hình thái và tính chất
của vật liệu MOFs được tạo thành [47]. Hình 2.14 minh họa cấu trúc của một số
ligand phổ biến dùng trong tổng hợp MOFs.
29
Luận văn Thạc sĩ Hóa Học Nguyễn Thị Tuyết Nhung
2.2.2. Ion kim loại chuyển tiếp
Kim loại chuyển tiếp có nhiều obitan hóa trị, trong đó có nhiều obitan trống và có
độ âm điện lớn hơn kim loại kiềm và kiềm thổ nên có khả năng nhận cặp electron vì
vậy khả năng tạo phức của các nguyên tố chuyển tiếp (nhóm B) rất rộng và đa dạng.
Đa số các hợp chất phối trí của kim loại chuyển tiếp đều có màu và nghịch từ.
Nhiều ion kim loại chuyển tiếp có thể tạo phức hoặc tạo mạng lưới với các ligand
hữu cơ khác nhau. Nguyên tử của nguyên tố có thể có hai loại hóa trị: hóa trị chính
(số oxi hóa) và hóa trị phụ (số phối trí). Dựa vào số phối trí ta có thể phân loại các
kim loại chuyển tiếp như sau:
Hình 2.14: Cấu trúc một số ligand dùng trong tổng hợp MOFs [22], [47]
30
Luận văn Thạc sĩ Hóa Học Nguyễn Thị Tuyết Nhung
Số phối trí = 2: gồm các ion như Cu+, Ag+, Au+ và Hg+, phân lớp d của các ion
này có cấu hình electron là 10. Khuynh hướng các ion này tạo phức hợp là dạng
thẳng.
Số phối trí = 3: chỉ có một vài ion kim loại chuyển tiếp có số phối trí 3. Hầu hết
các phức chất có công thức thực nghiệm là ML3 (M: ion kim loại, L: ligand), trong
thực tế có dạng bát diện. Trong cấu trúc của mạng lưới lai hóa, ion kim loại chuyển
tiếp có số phối trí 3 thường không được sử dụng.
Số phối trí = 4: đây là một trong những số phối trí thường được sử dụng trong
cấu trúc mạng lưới lai hóa. Dạng hình học tiêu biểu của ion có số phối trí 4 là tứ
diện hoặc vuông phẳng. Ví dụ, các ion Zn2+, Co2+, Fe2+ và Mn2+ có khuynh hướng
tạo dạng tứ diện. Khi ion kim loại có cấu trạng d8 thì thường có dạng vuông phẳng.
Mạng lưới lai hóa có chứa ion kim loại có dạng tứ diện hoặc vuông phẳng có
khuynh hướng tạo ra cấu trúc 2D, 3D.
Số phối trí = 5: ion kim loại có số phối trí 5 thường có dạng hình học là lưỡng
tháp tam giác đều hoặc lưỡng tháp tứ giác đều. Cả hai loại hình phối trí đều được
biết đến trong cấu trúc mạng lưới.
Số phối trí = 6: rất quan trọng trong phức chất và mạng lưới. Điển hình, ion kim
loại số phối trí 6 có dạng bát diện hoặc bát diện bị xoắn.
Số phối trí = 7: thường không liên quan tới phức chất và mạng lưới.
Số phối trí cao hơn: ion kim loại với số phối trí 8 có thể được tìm thấy trong một
số phức chất phối trí. Ion kim loại với số phối trí 9 có dạng lăng trụ tam giác. Ion
kim loại với số phối trí 10, 11 hoặc 12 đôi khi cũng thấy trong phức chất kim loại có
chứa ion họ lantan và actini. Việc sử dụng chúng trong tổng hợp mạng lưới chưa
được nghiên cứu.