Một trong những vấn đề cơ bản và cấp bách đang được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm trong công cuộc đổi mới hiện nay đó là việc tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện nhà nước XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả. Trong bộ máy Nhà nước, cán bộ, công chức phải thật sự là công bộc
tận tuỵ phục vụ nhân dân.
Pháp luật cán bộ, công chức là một hệ thống những QPPL điều chỉnh các
quan hệ xã hội về cán bộ, công chức. Quy định vị trí vai trò của cán bộ, công chức
trong bộ máy Nhà nước; quy định chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công
chức; quy định việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trong quá
trình thực thi nhiệm vụ, công vụ sẽ phát sinh cả quyền lợi và nghĩa vụ từ hai phía là
nhà nước và cán bộ công chức. Để điều chỉnh được mối quan hệ này thì phải có
pháp luật cán bộ, công chức. Do đó, pháp luật cán bộ, công chức có vai trò hết sức
quan trọng trong cả quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện bộ máy Nhà nước.
Đặc biệt, trong quá trình chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân. Pháp luật cán bộ, công chức là phương tiện để thể chế hoá
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy Nghị quyết
Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:
Xây dựng và ban hành văn bản pháp quy về chế độ công vụ, công
chức. Định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm thẩm quyền, quyền lợi và kỷ luật
công chức hành chính. Quy định các chế độ đào tạo, tuyển dụng, sử dụng
công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình
độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, vừa giác ngộ về chính trị có
tinh thần trách nhiệm, tận tuỵ, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi
thi hành công vụ [13, tr.132]
115 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4021 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lịch sử phát triển và phương hướng hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Lịch sử phát triển và phương hướng
hoàn thiện pháp luật cán bộ, công
chức ở Việt Nam hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những vấn đề cơ bản và cấp bách đang được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm trong công cuộc đổi mới hiện nay đó là việc tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện nhà nước XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả. Trong bộ máy Nhà nước, cán bộ, công chức phải thật sự là công bộc
tận tuỵ phục vụ nhân dân.
Pháp luật cán bộ, công chức là một hệ thống những QPPL điều chỉnh các
quan hệ xã hội về cán bộ, công chức. Quy định vị trí vai trò của cán bộ, công chức
trong bộ máy Nhà nước; quy định chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công
chức; quy định việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trong quá
trình thực thi nhiệm vụ, công vụ sẽ phát sinh cả quyền lợi và nghĩa vụ từ hai phía là
nhà nước và cán bộ công chức. Để điều chỉnh được mối quan hệ này thì phải có
pháp luật cán bộ, công chức. Do đó, pháp luật cán bộ, công chức có vai trò hết sức
quan trọng trong cả quá trình xây dựng, phát triển và hoàn thiện bộ máy Nhà nước.
Đặc biệt, trong quá trình chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân. Pháp luật cán bộ, công chức là phương tiện để thể chế hoá
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy Nghị quyết
Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:
Xây dựng và ban hành văn bản pháp quy về chế độ công vụ, công
chức. Định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm thẩm quyền, quyền lợi và kỷ luật
công chức hành chính. Quy định các chế độ đào tạo, tuyển dụng, sử dụng
công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình
độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, vừa giác ngộ về chính trị có
tinh thần trách nhiệm, tận tuỵ, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi
thi hành công vụ [13, tr.132].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX lại tiếp tục khẳng định:
Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, bảo đảm
tính nghiêm túc, trung thực trong thi tuyển cán bộ, công chức trước
hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý về đường lối, chính sách, về kiến
thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp xếp đội ngũ cán bộ,
công chức theo đúng chức danh tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá
chất lượng cán bộ, công chức kịp thời thay thế cán bộ, công chức yếu
kém, thoái hoá. Tăng cường cán bộ, có chế độ chính sách đào tạo, bồi
dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn [14, tr.135].
Điều đó khẳng định tầm quan trọng và vai trò to lớn của pháp luật CBCC.
Trên cơ sở định hướng từ các văn bản, nghị quyết của Đảng, nhà nước ta đã ban
hành nhiều VBQPPL tạo thành một hệ thống pháp luật CBCC mà bước đột phá đầu
tiên là việc UBTVQH ban hành pháp lệnh CBCC ngày 26/02/1998. Sau một thời
gian thực hiện pháp lệnh CBCC năm 1998 bộc lộ một số hạn chế trong quá trình
quản lý, sử dụng đội ngũ CBCC. Do đó, UBTVQH đã ban hành pháp lệnh sửa đổi,
bổ sung năm 2002 và hiện nay là pháp lệnh CBCC sửa đổi, bổ sung năm 2003.
Trong suốt cả quá trình từ khi thành lập nước VNDCCH cho đến hiện nay
pháp luật CBCC nói chung và pháp lệnh CBCC nói riêng đã phần nào bám sát các
nhiệm vụ chính trị, đã cụ thể hoá được chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và nhà nước về công tác cán bộ.
Ngay sau khi thành lập nước VNDCCH Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc
lệnh 76/SL ban hành quy chế công chức Việt Nam mặc dù do hoàn cảnh chiến
tranh, quy chế không được áp dụng nhưng nó vẫn có giá trị cho việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật cán bộ, công chức sau này. Trong điều kiện đất nước vừa có hoà
bình, vừa có chiến tranh các VBQPPL về cán bộ, công chức là cơ sở pháp lý quan
trọng để nhà nước quản lý có hiệu quả đối với đội ngũ cán bộ, công nhân, viên
chức. Do đó, pháp luật cán bộ, công chức thời kỳ này có tác dụng huy động được
đông đảo cán bộ, công chức tham gia vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho
CNXH đồng thời đóng góp công sức vào công cuộc giải phóng miền Nam.
Trong hơn 20 năm đổi mới, pháp luật cán bộ, công chức đã có bước phát
triển nhất định xuất phát từ đường lối đổi mới và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền. Có thể khẳng định rằng, pháp luật cán bộ, công chức qua các thời kỳ lịch sử
đã theo kịp tiến trình đổi mới toàn diện của đất nước tạo ra một đội ngũ cán bộ,
công chức cán bộ, công chức ngày càng trưởng thành, có phẩm chất đạo đức, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ góp phần vào công cuộc cải cách hành chính và xây dựng
BMNN Việt Nam trong sạch vững mạnh.
Tuy nhiên, pháp luật cán bộ, công chức trong các thời kỳ lịch sử cũng như
hiện nay còn bộc lộ một số hạn chế như: Số lượng các VBQPPL về cán bộ, công
chức được ban hành khá nhiều nhưng hiệu lực pháp lý không cao; pháp luật còn
thiếu tính ổn định chưa tương xứng với yêu cầu của một nền công vụ hiện đại; pháp
lệnh cán bộ, công chức năm 1998 dù đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng vẫn
còn tản mạn, chắp vá; hệ thống các VBQPPL còn thiếu tính đồng bộ, nhiều chồng
chéo, không thống nhất. Vì vậy, pháp luật cán bộ, công chức qua các giai đoạn lịch
sử vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng
một đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng, vừa chuyên.
Mục tiêu chung của chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2001-2010 là: “Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc
của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước”.
Một trong những mục tiêu cụ thể của chương trình là hoàn thiện hệ thống thể
chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Vì thế, việc đổi mới hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách về cán
bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước là
một yêu cầu cần thiết. Mặt khác, chúng ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, là thành viên của tổ chức thương mại Thế giới đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công
chức ngoài phẩm chất, năng lực chuyên môn nghiệp vụ còn phải có trình độ quản lý
nhà nước, ngoại ngữ, tin học, am hiểu luật pháp và thông lệ quốc tế được trang bị
kiến thức về hội nhập đòi hỏi pháp luật cán bộ, công chức phải được hoàn thiện
theo xu hướng đó.
Xuất phát từ những lý do như trên mà tác giả đã chọn đề tài “Lịch sử phát
triển và phương hướng hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện
nay”, để nghiên cứu, viết luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề pháp luật CBCC, hoàn thiện pháp luật CBCC đã được một số tác giả
quan tâm nghiên cứu. Trên thực tế hiện nay đã có các công trình khoa học nghiên
cứu và đề cập đến vấn đề này như sau:
- “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức nhà nước ở nước ta’’
của tác giả Nguyễn Văn Tâm, luận án PTS luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 1997.
Đây là một công trình khoa học tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật về công chức nhà nước nhằm tạo môi
trường pháp lý ổn định cho chế độ công chức nhà nước phù hợp với tình hình, đặc
điểm của hệ thống chính trị nước ta.
- “Pháp luật về công chức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc
sĩ của tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh, bảo vệ tại Viện Nhà nước pháp luật năm
2005.
Đây là một công trình trình bày cơ sở lý luận về công chức, pháp luật về công
chức Việt Nam; nghiên cứu thực trạng pháp luật công chức Việt Nam; những điểm
mạnh và những vấn đề còn tồn tại của pháp luật công chức Việt Nam và tác giả đã
đề xuất một số kiến nghị nhằm từng bước hoàn thiện pháp luật về công chức.
- “Hoàn thiện pháp luật về công chức hành chính ở Việt Nam hiện nay”, luận
văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Minh Triết bảo vệ tại học viện Chính trị guốc gia Hồ
Chí Minh, năm 2003.
Công trình này đã đưa ra một số vấn đề cơ bản có tính lý luận về công chức
hành chính nhà nước đồng thời có phân tích đánh giá tổng quát thực trạng pháp luật
đưa ra kiến nghị giải pháp hoàn thiện.
- “Đổi mới và hoàn thiện chế độ công chức Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay”, của tác giả Trịnh Xuân Toản, luận án thạc sĩ luật học bảo vệ tại Viện Nghiên
cứu nhà nước và pháp luật, năm 1997.
- “Hoàn thiện pháp luật công chức ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay” của
tác giả Mai Lan Hương, luận án thạc sĩ luật học bảo vệ tại Học viện Hành chính
quốc gia, năm 1999.
Công trình đã nêu những nội dung cơ bản về pháp luật công chức nhà nước,
trọng tâm là đánh giá chế độ công chức cũng như pháp luật công chức hiện hành
trên cơ sở pháp lệnh cán bộ công chức mới ban hành năm 1998. Đồng thời có đề
xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật công chức nhà nước.
Ngoài ra còn có các công trình khoa học có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
đến vấn đề pháp luật cán bộ công chức và hoàn thiện pháp luật cán bộ công chức.
- “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của tác giả PGS, TS Nguyễn Phú
Trọng và PGS, TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001.
- “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức” của TS
Thang Văn Phúc và TS Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên) Nxb Chính trị guốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005.
- “Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay” của tác
giả Tô Tử Hạ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- “Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý cán bộ, công chức nhà nước” của Thang
Văn Phúc, Tạp chí Cộng sản, số 22+23 - 2003.
- “Đổi mới, hoàn thiện về cán bộ, công chức nhà nước” của tác giả Trịnh
Xuân Toản, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4 - 2003.
- “Vài suy nghĩ về công tác quản lý đội ngũ, cán bộ công chức trong bộ máy nhà
nước” của Ngọc Giang và Phạm Thắng của Tạp chí Quản lý nhà nước.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa” của TS Nguyễn Minh Phương, Tạp chí Lý luận chính trị,
tháng 1 - 2006.
- “Đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta” của tác giả Nguyễn Văn Vinh. Tạp
chí Hoạt động khoa học, số 4 - 2002.
- “Về xây dựng cơ cấu ngạch công chức trong các cơ quan hành chính nhà
nước” của tác giả Vũ Đăng Minh, Tạp chí Quản lý nhà nước.
- “Hoàn thiện pháp luật về công vụ, công chức và trách nhiệm pháp lý của
công chức” của tác giả Thái Vĩnh Thắng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2 - 2005.
- “Công tác kế hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức hiện nay” của tác
giả Ngô Thành Can, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 12 - 2002.
- “Những điểm mới của pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh
cán bộ cán bộ, công chức” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà, Tạp chí Quản lý nhà
nước.
- “Những quan điểm cơ bản xây dựng đội ngũ công chức hành chính Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” của tác giả Chu Văn Thành và Hà Quang Ngọc,
Tạp chí Cộng sản, số 19 - 2003.
Trên đây là những công trình, tài liệu làm nguồn tư liệu tham khảo có giá trị
mang tính lý luận và thực tiễn cao. Nhưng các công trình chỉ dừng lại nghiên cứu ở
góc độ lý luận chung các vấn đề về pháp luật cán bộ, công chức; vấn đề xây dựng,
hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức mà chưa có công trình nào đề cập đến vấn
đề về lịch sử pháp triển của pháp luật cán bộ, công chức qua các thời kỳ lịch sử ở
nước ta. Vì vậy, chúng tôi mong muốn việc nghiên cứu đề tài này góp phần nhỏ bé
vào việc tổng kết các giai đoạn lịch sử của pháp luật cán bộ, công chức để giải
quyết những vấn đề mà thực tiễn hiện nay đang đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản có tính lý luận về pháp luật
CBCC; phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về CBCC qua các thời kỳ lịch sử ở
Việt Nam, đặc biệt là trong những năm gần đây. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu,
phân tích, đánh giá, luận văn đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
CBCC ở Vệt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Xem xét giải quyết một số vấn đề có tính lý luận cơ bản về pháp luật CBCC
như: Khái niệm pháp luật cán bộ, công chức; đặc điểm; những tiêu chí đánh giá pháp luật
cán bộ, công chức qua các giai đoạn; những thành tựu của pháp luật CBCC trên thế giới
Việt Nam có thể tham khảo.
- Làm rõ quá trình hình thành phát triển và thực trạng pháp luật cán bộ công chức
qua các thời kỳ lịch sử ở Việt Nam
- Đưa ra các quan điểm, giải pháp để hoàn thiện pháp luật CBCC ở nước ta
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Pháp luật về cán bộ, công chức là một lĩnh vực rộng, liên ngành, có sự tham
gia điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau, nhưng trong khuôn khổ của luận văn
chỉ giới hạn nghiên cứu pháp luật CBCC dưới góc độ lý luận lịch sử nhà nước và
pháp luật.
CBCC theo quy định hiện nay có phạm vi rất rộng, không chỉ trong bộ máy
hành chính nhà nước mà cả trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, trong
các tổ chức đảng, đoàn thể. Luận văn đề cập đến các vấn đề có liên quan đến
CBCC ở tất cả các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở trong các
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức đảng, đoàn thể.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Cùng với các quan điểm
của Đảng và nhà nước ta về xây dựng, hoàn thiện nhà nước và pháp luật nói chung
và pháp luật về CBCC nói riêng.
Các phương pháp được sử dụng trong luận văn là các phương pháp của truyền
thống của khoa học xã hội: Phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp hệ thống, phương
pháp so sánh, phương pháp xã hội học.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật CBCC ở Việt Nam.
- Khái quát được quá trình phát triển của pháp luật CBCC qua các thời kỳ cách
mạng ở Việt Nam, đồng thời đưa ra những nhận xét, đánh giá về hệ thống pháp luật
CBCC hiện hành.
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật CBCC Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
có liên quan đến pháp luật CBCC như: Phân tích để làm rõ khái niệm pháp luật
CBCC; phân tích các đặc điểm cũng như đưa ra tiêu chí đánh giá pháp luật CBCC
đồng thời, tổng kết đánh giá pháp luật CBCC qua các thời kỳ lịch sử ở Việt Nam
cũng như pháp luật CBCC hiện hành trên cơ sở đó để đưa ra phương hướng, giải
pháp hoàn thiện pháp luật CBCC. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài
liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, giúp các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền trong việc nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện pháp luật CBCC ở Việt Nam hiện
nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
những vấn đề lý luận về quá trình phát triển
và phương hướng hoàn thiện pháp luật cán bộ,
công chức ở Việt Nam
1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm pháp luật cán bộ, công chức
Nhà nước XHCN ra đời đòi hỏi phải xây dựng một đội ngũ CBCC nhằm
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, đáp ứng
cho sự vận hành của BMNN. Cùng với quá trình tổ chức nhân sự là việc ban hành
các VBQPPL, điều chỉnh các quan hệ công vụ, quy định các vấn đề liên quan đến việc
thiết lập các chức vụ, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của CBCC và nhiều vấn đề
khác có liên quan đến hoạt động công vụ của Nhà nước.
Pháp luật CBCC là hệ thống các quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật
khác nhau do các cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương ban hành. Nó là
một hệ thống những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về CBCC,
gọi là quan hệ công vụ, là quan hệ của các cơ quan nhà nước trong việc lựa chọn
con người để uỷ thác, trao quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ và công vụ nhân danh
nhà nước. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ thì phát sinh cả quyền lợi và
nghĩa vụ từ hai phía là nhà nước và CBCC. Để bảo vệ được mối quan hệ này hay
nói cách khác là bảo vệ quyền và nghĩa vụ của hai bên thì phải có pháp luật điều
chỉnh nó. Pháp luật CBCC có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển
và hoàn thiện chế độ công vụ của Nhà nước. Chúng ta đang trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân điều đó đặt ra cho chúng
ta những nhiệm vụ to lớn và cấp bách trong tổ chức và hoạt động của BMNN. Đó là
cải cách nền hành chính theo hướng xây dựng một nền hành chính dân chủ trong
sạch, vững mạnh chuyên nghiệp, hiện đại hoá hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Muốn thực hiện được điều đó, chúng ta phải xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp
lý cho hoạt động của đội ngũ CBCC và xây dựng thể chế, cơ chế để quản lý CBCC
phù hợp với xu hướng cải cách, hoàn thiện BMNN hiện nay thông qua các quy
phạm pháp luật về CBCC.
Pháp luật CBCC có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho việc xây
dựng, phát triển và vận hành của chế độ CBCC. Vì vậy, hầu hết các nước trên thế
giới đều quan tâm, coi trọng việc xây dựng pháp luật CBCC. Sự ra đời của Nhà
nước gắn liền với chức năng tổ chức nhân sự, phải có một lớp người đặc biệt
chuyên làm chức năng quản lý và thực thi quyền lực để duy trì cho hoạt động của
BMNN.
Hiện nay đang có nhiều quan điểm khác nhau về pháp luật CBCC. Có ý kiến
cho rằng: Pháp luật CBCC là những chính sách về CBCC của Nhà nước. Có người lại
cho rằng: Pháp luật CBCC bao gồm các văn kiện có tính quy phạm liên quan đến việc
quản lý nhân sự trong chính sách của chế độ công chức nhà nước [8, tr.41].
Theo một số tác giả các nước xã hội chủ nghĩa trước đây do đặc điểm về chính
trị, một số văn bản của Đảng quy định về vấn đề CBCC cũng có hiệu lực như các quy
phạm pháp luật CBCC mà các cơ quan Đảng, chính quyền nhà nước cấp dưới có trách
nhiệm phải thi hành trong thực tiễn quản lý nhà nước.
Các quan điểm trên chưa đi sâu nghiên cứu ý nghĩa, nội dung, bản chất cũng
như hình thức của pháp luật CBCC nên chưa đưa ra được quan niệm có tính khái
quát nhất về vấn đề này.
Trên thực tế, đội ngũ CBCC là những con người, những nhân vật được nhà
nước lựa chọn, giao cho họ một nhiệm vụ cụ thể để họ hoàn thành chức năng quản
lý nhà nước. Đội ngũ này nhận sự "uỷ thác", "uỷ quyền" của Nhà nước, họ được lấy
danh nghĩa nhà nước để thi hành chức trách, nhiệm vụ vì thế, mà nảy sinh quan hệ
xã hội về CBCC nhà nước.
PGS,TS Phạm Hồng Thái đưa ra định nghĩa:
Pháp luật về công vụ, cán bộ, công chức nhà nước là tổng thể các
quy phạm pháp luật thể hiện dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy định các nguyên
tắc của chế độ công vụ, trật tự hoạt động công vụ, điều chỉnh các hoạt
động về công vụ, cán bộ, công chức bao gồm: Thiết lập các chức vụ cán
bộ, công chức; các quyền nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong quá trình
thực thi công vụ; việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật
cán bộ, công chức và các vấn đề khác trong chính sách cán bộ, công
chức nhà nước [51, tr.115].
Do pháp luật CBCC là lĩnh vực pháp luật liên ngành bao gồm các quy phạm
pháp luật trong các ngành luật như: Luật Lao động, Luật Hình sự, Luật Hành chính.
Trong đó, điều chỉnh các quan hệ xã hội trực tiếp liên quan tới CBCC ở các vấn đề
như: chế độ làm việc, chế độ nghỉ ngơi, chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội, ốm đau, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ thai sản, chế đ