Tốc độ phát triển kinh tế và sự tiến bộ xã hội trên thế giới ngày càng tăng trưởng, kéo theo sự gia tăng về các vấn đề môi trường. Những thảm hoạ về sự cố môi trường, thiên tai đã gây nên những tổn thất to lớn về người và của ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Nhằm tạo ra những giải pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường, toàn thế giới nhất trí rằng kinh tế, xã hội, các nguồn lực và môi trường phải được phát triển hài hoà. Hội nghị thượng đỉnh Rio de Janerio, Braxin năm 1992 đã chuyển chủ đề “Bảo vệ môi trường” của Hội nghị Liên hợp quốc năm 1972 ở Stockholm sang những vấn đề liên quan đến môi trường và phát triển, lấy mục tiêu “Phát triển bền vững” làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của các quốc gia - Chương trình nghị sự 21 ra đời.
Sự thay đổi chủ đề: “Bảo vệ môi trường” sang chủ đề “Phát triển bền vững” thể hiện bước nhảy vọt trong nhận thức về tầm quan trọng của việc lồng ghép công tác BVMT vào chương trình xây dựng và phát triển đất nước của mỗi quốc gia. Tinh thần và ý tưởng chung trong chương trình nghị sự 21 của Việt nam (Vietnam Agenda 21) là thực hiện và chuyển những chiến lược phát triển bền vững thành những chương trình hành động cụ thể, khả thi và hiện thực, trong đó chương trình hành động bảo vệ môi trường phải được lồng ghép trong chương trình, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, quy hoạch đất đai, quy hoạch hạ tầng cơ sở, kiến trúc cảnh quan, văn hoá của đất nước
Quy hoạch môi trường đang được quan tâm và chú trọng nhiều hơn trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu và báo cáo về các vấn đề lồng ghép như lồng ghép đất đai, lồng ghép đói nghèo và môi trường, lồng ghép môi trường vào quy hoạch phát triển.
Tuy nhiên trong phạm vi nhỏ hơn đó là lồng ghép sinh thái môi trường thì chưa được rõ ràng và còn ít nghiên cứu, cần chỉ ra những chức năng sinh thái môi trường nào quan trọng cần được lồng ghép vào quy hoạch phát triển KTXH. Nhận thấy vai trò quan trọng của việc lồng ghép chức năng sinh thái môi trường vào trong dự án quy hoạch, tôi chọn đề tài “Lồng ghép chức năng sinh thái môi trường với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội”.
Đề tài được thực hiện với các mục tiêu:
- Lựa chọn những chức năng sinh thái môi trường để lồng ghép vào Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH huyện Mỹ Đức.
- Đề xuất những định hướng nâng cao hiệu quả lồng ghép.
94 trang |
Chia sẻ: tuantu31 | Lượt xem: 697 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lồng ghép chức năng sinh thái môi trường với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - Xã hội huyện Mỹ đức, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
LƯƠNG XUÂN TOÀN
LỒNG GHÉP CHỨC NĂNG SINH THÁI MÔI TRƯỜNG VỚI
QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------
LƯƠNG XUÂN TOÀN
LỒNG GHÉP CHỨC NĂNG SINH THÁI MÔI TRƯỜNG VỚI
QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Khoa học Môi trường
Mã số: 60 85 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Hoàng Xuân Cơ
Hà Nội - 2014
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc nhất tới PGS.TS. Hoàng Xuân Cơ - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy, các cô Khoa Môi trường - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình dạy dỗ, chỉ bảo và truyền đạt kiến thức chuyên môn trong suốt quá trình học tập và đào tạo.
Nhân đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các anh chị làm việc tại văn phòng Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức, phòng Tài nguyên môi trường huyện Mỹ Đức, Ban Quản lý rừng đặc dụng Hương Sơn đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình điều tra, thu thập thông tin, số liệu để hoàn thành bản luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và người thân đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2014
Học viên
Lương Xuân Toàn
MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt
BQL Ban quản lý
BVMT Bảo vệ môi trường
ĐDSH Đa dạng sinh học
ĐHQG Đại học Quốc gia
ĐMC Đánh giá môi trường chiến lược
ĐTM Đánh giá tác động môi trường
HST Hệ sinh thái
KTXH Kinh tế - xã hội
NXB Nhà xuất bản
TNMT Tài nguyên môi trường
UBND Ủy ban nhân dân
WHO Tổ chức Y tế Thế giới
Danh mục bảng
Bảng 1. Các loại đất huyện Mỹ Đức 16
Bảng 2. Giá trị sản xuất các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản huyện Mỹ Đức năm 2013 20
Bảng 3. Sản lượng lúa của huyện Mỹ Đức năm 2013 20
Bảng 4. Diện tích trồng cây hoa màu huyện Mỹ Đức năm 2013 21
Bảng 5. Thống kê chăn nuôi của huyện Mỹ Đức năm 2013 21
Bảng 7. Diện tích trồng lúa của huyện Mỹ Đức năm 2013 41
Bảng 8. Diện tích trồng cây hoa màu huyện Mỹ Đức năm 2013 41
Bảng 9: Thực trạng đất khu dân cư nông thôn huyện Mỹ Đức năm 2010 43
Bảng 10. Mục tiêu cơ cấu kinh tế của huyện Mỹ Đức đến năm 2020 và 2030 47
Bảng 11. Các mục tiêu phát triển xã hội của huyện Mỹ Đức đến năm 2020 và 2030 47
Bảng 12. Quy mô của hồ chứa Quan Sơn 64
Bảng 13. Hiện trạng hệ thống các kênh chính của huyện Mỹ Đức 65
Bảng 14. Thành phần thực vật rừng đặc dụng Hương Sơn 67
Bảng 15. Các họ thực vật giàu loài nhất tại rừng đặc dụng Hương Sơn 68
Bảng 16: Các loài thực vật quí hiếm có ở rừng đặc dụng Hương Sơn 69
Bảng 17. Thành phần loài hệ động vật rừng đặc dụng Hương Sơn 70
Bảng 18. Tổng hợp tài nguyên thú rừng đặc dụng Hương Sơn 71
Bảng 19. Tổng hợp tài nguyên chim rừng đặc dụng Hương Sơn 71
Bảng 20. Các loài động vật quý hiếm có giá trị bảo tồn cao 72
Danh mục hình
Hình 1. Bản đồ hành chính huyện Mỹ Đức 11
Hình 2: Mơ Vân Nam được trồng ở Hương Sơn 33
Hình 3: Hình ảnh cây mơ Hương Tích 33
Hình 4 và hình 5: Rau sắng chùa Hương được trồng trong rừng 34
Hình 6: HST rừng trồng tại Hương Sơn 36
Hình 7: Vườn cây ăn quả của người dân ở xã Phúc Lâm 36
Hình 8 và hình 9: Hình ảnh hồ Quan Sơn chụp ở xã Hợp Tiến 38
Hình 10 và hình 11: Sông Đáy đoạn qua xã Hương Sơn 39
Hình 12 và hình 13: Cây trồng vụ đông của người dân ở xã Lê Thanh 42
Hình 14 và hình 15: Những chiếc thuyền phục vụ mùa lễ hội 57
Hình 16: Du khách ngắm cảnh trên dòng suối Yến 58
Hình 17: Khách nước ngoài mua vé thăm quan chùa Hương 58
Hình 18: Trụ sở làm việc của Ban quản lý Rừng đặc dụng Hương Sơn 67
MỞ ĐẦU
Tốc độ phát triển kinh tế và sự tiến bộ xã hội trên thế giới ngày càng tăng trưởng, kéo theo sự gia tăng về các vấn đề môi trường. Những thảm hoạ về sự cố môi trường, thiên tai đã gây nên những tổn thất to lớn về người và của ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Nhằm tạo ra những giải pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường, toàn thế giới nhất trí rằng kinh tế, xã hội, các nguồn lực và môi trường phải được phát triển hài hoà. Hội nghị thượng đỉnh Rio de Janerio, Braxin năm 1992 đã chuyển chủ đề “Bảo vệ môi trường” của Hội nghị Liên hợp quốc năm 1972 ở Stockholm sang những vấn đề liên quan đến môi trường và phát triển, lấy mục tiêu “Phát triển bền vững” làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của các quốc gia - Chương trình nghị sự 21 ra đời.
Sự thay đổi chủ đề: “Bảo vệ môi trường” sang chủ đề “Phát triển bền vững” thể hiện bước nhảy vọt trong nhận thức về tầm quan trọng của việc lồng ghép công tác BVMT vào chương trình xây dựng và phát triển đất nước của mỗi quốc gia. Tinh thần và ý tưởng chung trong chương trình nghị sự 21 của Việt nam (Vietnam Agenda 21) là thực hiện và chuyển những chiến lược phát triển bền vững thành những chương trình hành động cụ thể, khả thi và hiện thực, trong đó chương trình hành động bảo vệ môi trường phải được lồng ghép trong chương trình, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, quy hoạch đất đai, quy hoạch hạ tầng cơ sở, kiến trúc cảnh quan, văn hoá của đất nước
Quy hoạch môi trường đang được quan tâm và chú trọng nhiều hơn trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu và báo cáo về các vấn đề lồng ghép như lồng ghép đất đai, lồng ghép đói nghèo và môi trường, lồng ghép môi trường vào quy hoạch phát triển.
Tuy nhiên trong phạm vi nhỏ hơn đó là lồng ghép sinh thái môi trường thì chưa được rõ ràng và còn ít nghiên cứu, cần chỉ ra những chức năng sinh thái môi trường nào quan trọng cần được lồng ghép vào quy hoạch phát triển KTXH. Nhận thấy vai trò quan trọng của việc lồng ghép chức năng sinh thái môi trường vào trong dự án quy hoạch, tôi chọn đề tài “Lồng ghép chức năng sinh thái môi trường với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội”.
Đề tài được thực hiện với các mục tiêu:
- Lựa chọn những chức năng sinh thái môi trường để lồng ghép vào Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH huyện Mỹ Đức.
- Đề xuất những định hướng nâng cao hiệu quả lồng ghép.
Chương 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học về lồng ghép chức năng sinh thái môi trường với quy hoạch tổng thể phát triển KTXH
1.1.1. Lồng ghép chức năng sinh thái môi trường
- Một số khái niệm
+ Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật.
+ Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
+ Quy hoạch bảo vệ môi trường là việc phân vùng môi trường để bảo tồn, phát triển và thiết lập hệ thống hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường gắn với hệ thống giải pháp bảo vệ môi trường trong sự liên quan chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát triển KTXH nhằm bảo đảm phát triển bền vững.
+ Đánh giá môi trường chiến lược là việc phân tích, dự báo tác động đến môi trường của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển để đưa ra giải pháp giảm thiểu tác động bất lợi đến môi trường, làm nền tảng và được tích hợp trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nhằm bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững.
+ Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó.
+ Lồng ghép là một quá trình tích hợp một cách có hệ thống một giá trị, ý tưởng hay một chủ đề có lựa chọn trong tất cả phạm vi của một lĩnh vực công việc hay của một hệ thống. Việc lồng ghép là một quá trình lặp đi, lặp lại để thay đổi văn hoá và thông lệ của các thể chế (cơ quan).
+ Hệ sinh thái là một tổ hợp động của các quần xã thực vật, động vật và vi sinh vật và môi trường vô sinh của các quần xã đó, tương tác với nhau như một đơn vị chức năng. Các HST không có ranh giới cố định; thay vào đó, các thông số của các HST được đặt ra để xem xét vấn để khoa học, quản lý hoặc chính sách. Tuỳ theo mục đích phân tích, một cái hồ duy nhất, một khu vực chứa nước hoặc toàn bộ vùng, có thể là một HST.
+ Đánh giá tổng hợp HST là đánh giá điều kiện và các xu thế trong một HST; các dịch vụ mà HST đó cung cấp (như nước sạch, thức ăn, lâm sản và kiểm soát lũ); cũng như các phương án lựa chọn để phục hồi, bảo tồn hoặc tăng cường sử dụng bền vững HST đó thông qua các phương pháp nghiên cứu lồng ghép giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
+ Sinh thái môi trường là môn học thuộc ngành môi trường học. Nó nghiên cứu mối quan hệ tương tác không chỉ giữa các cá thể sinh vật, mà còn giữa tập thể, giữa cộng đồng với các điều kiện môi trường tự nhiên bao quanh nó.
+ Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH vùng, lãnh thổ là luận chứng phát triển KTXH và tổ chức không gian các hoạt động KTXH hợp lý trên lãnh thổ nhất định trong một thời gian xác định.
- Lồng ghép chức năng sinh thái môi trường
Khi nói đến chức năng cần nhận rõ chức năng là các đối tượng, hiện tượng được phát sinh, phát triển từ các đối tượng, hiện tượng có trước theo một quy luật tự nhiên nhất định và theo các mục tiêu nhất định của con người. Chức năng sinh thái của lãnh thổ sinh thái có đa chức năng mà trước hết là chức năng môi trường sống tự nhiên và nhân tạo thuộc các thành phần cấu trúc lãnh thổ. Các chức năng của nền địa chất, địa hình, đất, sinh vật, thủy văn, khí hậu đều là các chức năng môi trường sống của con người và các hệ sinh vật. Con người và sinh vật sống nhờ nền địa chất, địa hình, đất, sinh vật, nước và không khí. Chức năng sinh thái quan trọng thứ hai là năng suất sinh học của đa dạng các loài sinh vật trong quần xã của HST. Sự chuyển hóa vật chất và năng lượng trong HST được biểu hiện bởi năng suất sinh học của quần xã trong HST. Chức năng sinh thái thứ ba có ý nghĩa cũng rất quan trọng đó là chức năng KTXH. Sự cung cấp tài nguyên của môi trường (của các thành phần cấu trúc lãnh thổ) là điều kiện rất quan trọng, có khi là chủ yếu, là cơ sở vật chất cho sự phát triển của xã hội loài người, cho sự phát triển các ngành kinh tế nông, lâm, ngư, công nghiệp, thương mại, du lịch và đặc biệt là các HST, các công trình hạ tầng do con người xây dựng có ý nghĩa về mặt KTXH và thẩm mỹ. Các chức năng KTXH là các chức năng tự nhiên và nhân tạo được sử dụng vào các mục đích phát triển KTXH và đó là cơ sở để phân loại các lãnh thổ sinh thái theo mục đích sử dụng cho sư phát triển KTXH của loài người. Chức năng thứ tư là chứa đựng, chuyển hóa các chất thải của con người thải ra trong quá trình phát triển KTXH
Quy mô hoạt động của các chức năng sinh thái tự nhiên thường được trùng khớp, đồng nhất với quy mô cấu trúc lãnh thổ tự nhiên ở trong cùng cấp đó, nhưng chức năng sinh thái thuộc về KTXH có khi được xác định khác nhau trên cùng quy mô lãnh thổ hoặc có quy mô nhỏ hơn ngay trong quy mô cấu trúc của lãnh thổ tự nhiên.
Theo phạm vi rộng, phát triển bền vững phụ thuộc vào việc lồng ghép thành công môi trường với quy hoạch kinh tế và ra quyết định, một quy trình được gọi là lồng ghép môi trường. Những nỗ lực ban đầu vào những năm 1990 để lồng ghép môi trường với quy hoạch quốc gia - ví dụ, thông qua các báo cáo về chiến lược giảm đói nghèo (PRSP) - nhằm đảm bảo các quyết định và kế hoạch về kinh tế phải cân nhắc đến các ưu tiên về môi trường và cũng như đề cập đến tác động của các hoạt động của con người đến các dịch vụ và tài sản môi trường.
Bằng chứng cho thấy, những cố gắng ban đầu để lồng ghép môi trường với quy hoạch quốc gia đã đạt được những thành công nhất định. Một loạt công trình đánh giá có ảnh hưởng của Ngân hàng thế giới cho thấy, hầu hết các báo cáo chiến lược giảm đói nghèo được các nước nghèo nhất thông qua trong những năm 1990, đã không nêu được đầy đủ sự đóng góp của môi trường đối với giảm đói nghèo và tăng trưởng kinh tế.
Lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường vào các quyết định sử dụng các nguồn lực trong hoạt động kinh tế, xã hội là cách thức bảo vệ môi trường có nguồn gốc từ yêu cầu phát triển bền vững, nguyên tắc phòng ngừa trong bảo vệ môi trường và nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của cộng đồng vào các quyết định có liên quan tới môi trường.
Yêu cầu phát triển bền vững đến nay được coi là một trong những giá trị phổ quát cần được đảm bảo bởi bất kỳ mô hình phát triển kinh tế nào trên thế giới. Phát triển bền vững được Ủy ban thế giới về Môi trường và phát triển (WCED) định nghĩa là “sự phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Yêu cầu phát triển bền vững được hiểu một cách giản lược là yêu cầu phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo vệ thỏa đáng môi trường sinh thái. Điều này cũng có nghĩa rằng, mọi hoạt động kinh tế, xã hội đều phải tính đúng, tính đủ các chi phí cho việc bảo vệ môi trường. Nói cách khác, yêu cầu bảo vệ môi trường phải được tôn trọng trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội, mọi dự án sản xuất, tiêu thụ và phát triển.
Nguyên tắc phòng ngừa đòi hỏi giảm thiểu tối đa nguy cơ sản sinh ra tác nhân làm thiệt hại đến môi trường (gây ô nhiễm, suy thoái môi trường) thay cho việc xử lý các chất gây ô nhiễm đã được sản sinh từ quá trình sản xuất, sinh hoạt của con người. Việc lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường ngay từ giai đoạn ra quyết định của con người sẽ góp phần giúp cho người ra quyết định cân nhắc đầy đủ hơn lợi và hại từ quyết định của mình, tính tới các lợi ích môi trường để từ đó có ứng xử phù hợp theo hướng giảm thiểu các hành vi gây hại cho môi trường.
Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của cộng đồng vào quá trình ra các quyết định quan trọng liên quan tới môi trường đòi hỏi bất cứ khi nào một chủ thể có các quyết định có thể ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường nơi một cộng đồng dân cư đang sinh sống thì đều phải có sự tham vấn ý kiến hợp lý của cộng đồng dân cư đó. Nguyên tắc này xuất phát từ thực tế vấn đề môi trường về cơ bản là vấn đề của cộng đồng dân cư. Các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường nói chung chính là các ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe, tài sản và các lợi ích khác của cộng đồng dân cư. Sự tham gia của cộng đồng vào các quá trình ra quyết định liên quan tới môi trường chính là một biện pháp đảm bảo sự hài hòa về lợi ích của các chủ thể có liên quan đồng thời góp phần ngăn ngừa các xung đột, tranh chấp không đáng có trong tương lai.
Như vậy, lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường vào các loại quyết định trong cuộc sống của con người phải được coi là một hệ quả tự nhiên của yêu cầu phát triển bền vững và đáp ứng nguyên tắc phòng ngừa trong việc bảo vệ môi trường và nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của cộng đồng vào quá trình bảo vệ môi trường. Lồng ghép chức năng sinh thái môi trường với quy hoạch tổng thể phát triển KTXH cũng không phải là một ngoại lệ.
1.1.2. Cơ sở pháp lý
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã thể hiện khá đầy đủ yêu cầu phát triển bền vững, loại phát triển mà theo giải thích của Luật này là “phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường” (Khoản 4 Điều 3 Luật BVMT 2014). Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã có nhiều nội dung cụ thể theo hướng các yêu cầu về bảo vệ môi trường được lồng ghép vào từng loại hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt của con người (chẳng hạn bảo vệ môi trường đối với các dự án quy hoạch phát triển KTXH, bảo vệ môi trường đối với các dự án đầu tư, bảo vệ môi trường trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ, bảo vệ môi trường làng nghề, bảo vệ môi trường trong sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, v.v..)
Từ năm 2007, Việt Nam đã chính thức tham gia WTO, chính thức tham gia trên sân chơi quốc tế. Trong bối cảnh đó, trên phạm vi toàn quốc, chúng ta hiện nay đang tập trung thực hiện bốn chương trình lớn mang tính toàn cầu:
i/ Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam (ban hành ngày 17 tháng 8 năm 2004)
ii/ Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu đến năm 2020 (NTP-RCC) (ban hành ngày 02 tháng 12 năm 2008)
iii/ Kế hoạch thực hiện chiến lược quốc gia phòng chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020 (KCQ) (ban hành ngày 29 tháng 9 năm 2009).
iv/ Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020 (ban hành ngày 20 tháng 3 năm 2014)
Đây có thể được xem như bốn chương trình/kế hoạch quan trọng nhất cho Việt Nam trong thế kỷ 21 và để thực hiện một cách hiệu quả trong thực tế, cần phải quán triệt sâu sắc cách tiếp cận lồng ghép/tích hợp:
Trong chương trình Nghị sự 21 là yêu cầu tích hợp giữa ba lĩnh vực lớn nhất: kinh tế, xã hội và môi trường và các hợp phần của nó trên đặc thù văn hóa của các ngành, địa phương;
Trong NTP – RCC và KCQ là tích hợp các nhiệm vụ và giải pháp vào tất cả các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển của các bộ ngành và địa phương.
Tuy nhiên, theo tài liệu của nhóm nghiên cứu GS. TS. Lê Trọng Cúc [2010] trên thực tế, ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, phát triển, xóa đói giảm nghèo và quản lý môi trường thường được xem là các mục tiêu tách biệt. Các tác động tích lũy của chính sách, chương trình và dự án để đạt được các mục tiêu trung hạn và ngắn hạn gây nên những tác động tiêu cực tới môi trường đất, nước, không khí và gây ra hậu quả như ô nhiễm, biến đổi khí hậu, suy thoái đất và ảnh hưởng rất lớn tới người nghèo. Nguyễn Quang và Howard Stewart (2005) đánh giá về lồng ghép môi trường trong Chiến lược giảm nghèo toàn diện (CPRGS) của Việt Nam với trường hợp nghiên cứu điểm tại Đắc Lắc cho thấy, tình trạng tăng trưởng kinh tế nhanh phù hợp với trọng tâm của Chiến lược giảm nghèo toàn diện nhưng lại không bền vững và gây suy thoái môi trường làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo đói và khoảng cách giàu nghèo. Mặt khác, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường bức xúc liên quan đến nhiều ngành khác nhau. Đánh giá của ngân hàng thế giới (2005) nhận định rằng phát triển kinh tế của Việt Nam đi kèm với đô thị hóa, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhanh chóng, khai thác tài nguyên ngày một gia tăng và sự gia tăng áp lực tới môi trường. Mức độ và quy mô tác động môi trường ngày một gia tăng. Theo Bộ Tài nguyên và môi trường Việt Nam (MONRE) (2003), trong lĩnh vực lâm nghiệp, từ năm 1975 đến nay mối đe dọa tới ĐDSH của Việt Nam không những không giảm mà ngày càng gia tăng do phát triển cơ sở hạ tầng, mở rộng đất sản xuất nông nghiệp, khai thác gỗ thương phẩm, chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất, phát triển nuôi tôm, khai thác quá mức và hủy diệt, di dân. Thống kê của Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN) chỉ ra rằng số lượng loài động thực vật nguy cấp tăng từ 715 loài trong giai đoạn 1992 - 1996 tới 822 loài trong giai đoạn 2002 – 2007, theo sách đỏ của Việt Nam có tới gần 900 loài có nguy cơ tuyệt chủng (2007). Về lĩnh vực nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nhanh và làm thay đổi sử dụng tài nguyên ở quy mô lớn (Đặng Kim Sơn, 2006). Việc sử dụng phân bón hóa học ngày càng gia tăng và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người dân và gây ô nhiễm môi trường đất (MONRE, 2005). Đánh giá của Bộ kế hoạch và đầu tư (2006) cho thấy chất lượng môi trường ở các khu công nghiệp cả nước hiện nay đang ở mức ô nhiễm nặng và vẫn tiếp tục gia tăng, không những ảnh hưởng tới người lao động ở trong khu công nghiệp mà còn ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người ngoài khu công nghiệp. Đặc biệt tình trạng ô nhiễm nước thải, môi trường lao động đáng báo động. Vấn đề ô nhiễm không khí, tiếng ồn và rác thải ở mức cao tuy chưa đến mức độ báo động.
Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để lồng ghép môi trường hiệu quả nhất, yếu tố gì cản trở sự lồng ghép môi trường? Sáng kiến về lồng ghép môi trường trong quy hoạch và ra quyết định được Học viện Môi trường và Phát triển Anh Quốc (IIED) thực hiện đánh giá ở 10 nước (như Tanzania, Zambia, Kenya, Phil