Hiệu quả là vấn đề được các nhà nghiên cứu kinh tế cũng như các nhà quản lý kinh
doanh quan tâm hàng đầu.
Hiệu quả theo cách duy nhất được hiểu là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan
hệ giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Nếu chi phí bỏ ra càng ít và kết quả mang lại càng
nhiều thì điều đó có ý nghĩa hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại.
Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường để thực hiện nghiêm ngặt chế độ
hạch toán kinh tế, đảm bảo lấy doanh thu bù đắp được chi phí và có lãi đòi hỏi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp phải có hiệu quả cao để doanh nghiệp có thể đứng vững và phát
triển trong nền kinh tế có nhiều thành phần, có cạnh tranh và quan hệ quốc tế với nước ngoài
ngày càng được mở rộng.
Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh có thể hiểu là một phạm trù kinh tế biểu
hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu phản ánh trình độ khai thác các nguồn
lực( nhân tài, vật lực, nguồn vốn )và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái
sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp nước ta hiện nay được đánh giá trên hai phương diện là hiệu quả kinh tế và
hiệu quả xã hội.
Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp phản ánh sự đóng góp của doanh nghiệp vào việc
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân.
78 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2265 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lý luận chung về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Lý luận chung về hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Chương I
một số lý luận chung về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1.1. KháI niệm, ý nghĩa của hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Hiệu quả là vấn đề được các nhà nghiên cứu kinh tế cũng như các nhà quản lý kinh
doanh quan tâm hàng đầu.
Hiệu quả theo cách duy nhất được hiểu là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan
hệ giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Nếu chi phí bỏ ra càng ít và kết quả mang lại càng
nhiều thì điều đó có ý nghĩa hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại.
Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường để thực hiện nghiêm ngặt chế độ
hạch toán kinh tế, đảm bảo lấy doanh thu bù đắp được chi phí và có lãi đòi hỏi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp phải có hiệu quả cao để doanh nghiệp có thể đứng vững và phát
triển trong nền kinh tế có nhiều thành phần, có cạnh tranh và quan hệ quốc tế với nước ngoài
ngày càng được mở rộng.
Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh có thể hiểu là một phạm trù kinh tế biểu
hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu phản ánh trình độ khai thác các nguồn
lực( nhân tài, vật lực, nguồn vốn…)và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái
sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp nước ta hiện nay được đánh giá trên hai phương diện là hiệu quả kinh tế và
hiệu quả xã hội.
Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp phản ánh sự đóng góp của doanh nghiệp vào việc
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân. Còn hiệu quả xã
hội của doanh nghiệp được biểu hiện thông qua hoạt động góp phần nâng cao trình độ văn
hoá xã hội và lĩnh vực thoả mãn nhu cầu hàng hoá - dịch vụ, góp phần nâng cao văn minh xã
hội…Tiêu chuẩn của hiệu quả xã hội là sự thoả mãn nhu cầu có tính chất xã hội trong sự
tương ứng với các nguồn nhân tài, vật lực ảnh hưởng tới mục đích đó. Hiện nay hiệu quả xã
hội của hoạt động kinh doanh được đánh giá thông qua các bịên pháp xã hội của Nhà nước
trong từng thời kỳ.
Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có khi mâu thuẫn, có khi thống nhất với nhau.
Nếu doanh nghiệp có lãi thì đời sống nhân viên được cải thiện, đồng thời doanh nghiệp sẽ
nộp ngân sách để thực hiện các mục tiêu xã hội như: Xây dựng công trình công cộng, xoá đói
giảm nghèo…. Như vậy, doanh nghiệp vừa đạt được hiệu quả kinh doanh vừa đạt hiệu quả xã
hội. Nếu doanh nghệp có hiệu quả kinh tế kém thì cũng không đạt được hiệu quả xã hội.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước được giao nhiệm vụ kinh doanh nhằm mục đích
phục vụ hải đảo, miềm núi thì chi phí rất cao làm cho giá thanh toán trở thành đặc biệt, cao
hơn giá thị trường chấp nhận hoặc giá chỉ đạo của Nhà nước do đó doanh nghiệp sẽ thua lỗ.
Vì vậy, doanh nghiệp không đạt được hiệu quả kinh tế, nhưng thực hiện được hiệu quả xã hội.
Tuy nhiên việc xác định hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội chỉ là tương đối vì có thể chỉ tiêu
phản ánh đồng thời hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Vì vậy, để đánh giá hiệu quả kinh
doanh người ta không đánh giá hiệu quả kinh tế một cách độc lập mà còn xem xét cả hiệu quả
xã hội.
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì quá trình hoạt động kinh doanh phải đem lại
hiệu quả.Và điều mà các doanh nghiệp quan tâm nhất là hiệu quả kinh tế bởi vì có hiệu quả
kinh tế thì doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển được.
Trong khoá luận này, khi nói đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ xét trên
phương diện hiệu quả kinh tế. Ta có thể mô tả hiệu quả kinh tế bằng công thức sau:
Hiệu quả
kinh tế
Kết quả đạt được
=
Hao phí các nguồn lực cần thiết gắn với kết quả đạt được
1.1.2 ý nghĩa của hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Như chúng ta đã biết, mục đích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là lợi nhuận
hay nói rộng hơn là tăng hiệu quả kinh tế trong hoạt động kinh doanh của mình. Hiệu quả
kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp nhằm đạt hiệu quả cao
nhất mà biểu hiện cụ thể của nó là lợi nhuận và chi phí thấp nhất. Lợi nhuận là khoản còn lại
sau khi doanh nghiệp đã trừ đi mọi khoản chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh. Nhờ
thu được lợi nhuận doanh nghiệp mới có điều kiện để tái sản xuất và mở rộng sản xuất. Từ đó
không những tạo điều kiện để nâng cao đời sống của chính công nhân viên trong doanh
nghiệp mà còn nâng cao điều kiện để phục vụ khách hàng, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
Do vậy, một yêu cầu đặt ra đối với bất kì doanh nghiệp và các nhà quản lý là cần thiết phải
đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh để tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó có các biện pháp thích hợp phát huy các nhân tố
tích cực và hạn chế các nhân tố tiêu cực.
1.1.3 Sự cần thiết nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN trong nền
kinh tế thị trường
Đối với nền kinh tế quốc dân, việc các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó góp phần phân bổ nguồn lực quốc gia
một cách hợp lý, tránh lãng phí trong khi các nguồn lực là có hạn.
Đối với doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh như thế nào là yếu tố
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp.Vì trong nền kinh tế thị trường
cạnh tranh gay gắt có nhiều doanh nghiệp cùng tham gia cung cấp các sản phẩm dịch vụ, thị
phần bị chia nhỏ các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để tăng kết quả thu được trên một đơn
vị chi phí bỏ ra điều đó đồng nghĩa với việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp luôn luôn tìm cách nâng cao hiệu quả kinh doanh, bằng mọi biện pháp để
tăng hệ số so sánh giữa các kết quả vào các thời kỳ khác nhau.
Với người lao động, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng có ý nghĩa to lớn vì
một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả mới có điều kiện tốt để chăm lo cho người lao động về
các mặt như: chế độ lương thoả đáng, các điều kiện làm việc tốt, các chính sách cho người
lao động phù hợp….Như vậy, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh có ý nghĩa tạo động
lực cho người lao động.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN
Các nhân tố có thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN
bao gồm các nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan. Trong phạm vi bài viết khoá luận
này, chỉ xin đưa ra một số nhân tố cơ bản.
1.2.1 Các nhân tố khách quan
Các nhân tố khách quan có thể ảnh hưởng đến hiệu quả HĐSXKD là những nhân tố
bên ngoài tác động đến HĐSXKD của DN mà không thể điều chỉnh được, nhưng DN cần
hiểu rõ để có thể nắm bắt được cơ hội và lường trước các nguy cơ. Môi trường vĩ mô và môi
trường ngành bao gồm các nhân tố khách quan có thể ảnh hưởng đến hiệu quả HĐSXKD của
DN. Cụ thể là:
1.2.1.1 Môi trường kinh tế
Môi trường này có ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của mọi DN.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như hiện nay của đất nước ta trong những năm gần đây (7-
8%/ năm) là một trong những tác động tích cực tới toàn bộ nền kinh tế, kinh tế phát triển
mạnh, doanh thu của người dân cao hơn, đời sống của nhân dân cải thiện, nhu cầu về nhà mới,
đẹp là tất yếu, tạo điều kiện tốt cho các
công ty xây dựng có những hợp đồng mới. Mặt khác, nước ta đang trong quá trình xây dựng
công nghiệp hoá, các công ty, xí nghiệp, khu công nghiệp phát triển mạnh, giao thông cần cải
thiện, điều đó cũng đồng nghĩa là có nhiều cơ hội hơn cho công ty. Nền kinh tế tăng trưởng
nóng lại luôn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, cũng ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. Trong những năm gần đây, chỉ số giá luôn ở
mức cao, các nguyên vật liệu đầu vào cũng tăng cao nhất là xăng dầu, thép, làm cho chi phí
xây dựng cũng tăng rất nhanh, điều này làm cho lợi nhuận của các công ty xây dựng sẽ bị
giảm. Vì vậy, các DN cần có kế hoạch cung ứng, dự trữ, sử dụng NVL sao cho hợp lý, tránh
lãng phí, tiết kiệm chi phí để nâng cao hiệu quả HĐSXKD.
1.2.1.2 Môi trường công nghệ
Trong những năm gần đây, công nghệ đã phát triển mạnh ở Việt Nam, các cuộc
chuyển giao công nghệ diễn ra mạnh. Các DN có cơ hội tiếp cận với nhiều công nghệ sản
xuất mới tiên tiến. Yêu cầu tất yếu và khách quan đối với mỗi DN
là làm sao phải đổi mới công nghệ cho phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Tuy nhiên, DN cũng cần quan tâm đến vấn đề lựa chọn công nghệ sao cho phù hợp với nhân
lực công nghệ, tránh việc sử dụng công nghệ quá hiện đại, không cần thiết mà trình độ về
hiểu biết và sử dụng công nghệ còn yếu, như vậy sẽ gây lãng phí lớn.
1.2.1.3 Môi trường chính trị, luật pháp
Chính trị ổn định là điều kiện tốt để cho các doanh nghiệp đầu tư và xây dựng và
ngược lại. Tình hình chính trị nước ta được coi là khá ổn định, được các nước đánh giá là môi
trường đầu tư ổn định, do vậy là cơ hội đối với doanh nghiệp.
Luật đầu tư nước ta trong những năm gần đây cũng được điều chỉnh một cách hợp lý
với yêu cầu thực tiễn, thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư nhanh hơn, là điều kiện để tiến hành
thi công nhanh hơn, thời gian chờ đợi được rút ngắn. Tuy nhiên, hệ thống luật nước ta chưa
ổn định, còn sửa đổi, vì vậy, trong kinh doanh công ty cần nắm rõ luật để ứng xử cho phù hợp
tránh xảy ra tranh chấp kinh tế.
1.2.1.4 Môi trường tự nhiên, xã hội, văn hoá
Tài nguyên nước ta được coi là khá dồi dào: gang thép, quặng, dầu mỏ…là nguồn
cung cấp các nguyên vật liệu đầu vào cho các công ty xây dựng. Song những tài nguyên đó
cũng đang đứng trên nguy cơ cạn kiệt do khai thac nhiều và không hợp lý, vì vậy công ty
cũng đối mặt với sự tăng giá các nguyên vật liệu và năng lượng trong những năm gần đây.
Cơ cấu dân cư nước ta thay đổi, dân số ngày càng tăng, nhu cầu về nhà ở, các công
trình giao thông: đường xá, trường học, bệnh viện… cũng tăng, là cơ hội cho công ty xây
dựng.
Đời sống của người dân được nâng cao, văn hoá tiêu dùng cũng khác, yêu cầu về các
công trình xây dựng cũng cao hơn, chú trọng đến tính thẩm mỹ và chất lượng hơn,do vậy DN
cần nắm bắt được thị hiếu mới của khách hàng và xu hướng chung của toàn xã hội.
1.2.1.5 Môi trường ngành
Các đối thủ cạnh tranh:
Các đối thủ cạnh tranh trong ngành bao gồm các tổ chức, cá nhân cùng cung cấp 1 loại hàng
hoá và dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng mục tiêu của DN. Trong thời kì công nghiệp
hoá- hiện đại hóa của nước ta hiện nay thì nhu cầu về xây dựng là rất lớn và một yêu cầu tất
yếu là các DN xây dựng cũng tăng lên, điều này đồng nghĩa với sự cạnh tranh gay gắt giữa
các DN để giành lấy khách hàng. Đặc biệt là với những công ty còn non trẻ thì áp lực cạnh
tranh lại càng lớn, trước những DN có thế lực cả về tài chính lẫn kinh nghiệm, và có nguy cơ
bị rút khỏi ngành nếu không nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Hơn nữa, thị trường xây
dựng được đánh giá là thị trường tiềm năng, vì thế cũng tiểm ẩn các đối thủ cạnh tranh trong
tương lai. Các DN luôn bị áp lực từ các đối thủ cạnh tranh hiện tại và các đối thủ cạnh tranh
tiềm ẩn. Vì vậy, các DN cần phân tích điểm mạnh, điểm yếu của mình để đưa ra các chiến
lược cạnh tranh hợp lý.
áp lực từ các nhà cung ứng
Do nguồn tài nguyên đang ngày càng khan hiếm, các nguyên vật liệu khó có thể thay
thế nên các nhà cung ứng đang ngày càng gây áp lực cho các công ty xây dựng cả về giá cả,
chất lượng, thời hạn và phương thức thanh toán.
Giá cả năng lượng tăng nhanh, các nhà cung ứng đầu cơ tạo tình trạng khan hiếm giả
đẩy giá sản phẩm tăng cao gây nhiều khó khăn cho công ty xây dựng.
áp lực từ phía khách hàng
Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, công ty phải chịu một sức ép lớn từ phía khách
hàng vì có quá nhiều nhà thầu để chủ đầu tư có thể lựa chọn và với phương châm “ khách
hàng là thượng đế” thì các công ty đều phải đàm phán, thương lượng với khách hàng để đi
đến sự thống nhất có lợi cho cả 2 bên. Các khách hàng thường đưa các sức ép như: thời gian
thi công, bàn giao công trình, chất lượng công trình, tư vấn thiết kế, giám sát …
1.2.2 Các nhân tố chủ quan
1.2.2.1 Nhân tố về quản lý
Bộ máy quản lý gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả cao sẽ cho phép doanh nghiệp sử dụng
hợp lý và tiết kiệm các yếu tố vật chất của quá trình sản xuất kinh doanh, giúp lãnh đạo doanh
nghiệp đề ra những quyết định chỉ đạo kinh doanh chính xác, kịp thời và nắm bắt được thời
cơ. Muốn đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao đòi hỏi doanh nghiệp phải chú ý tới
nhiều nhân tố trong đó có vấn đề về quản lý. Quản lý tốt tức là đã tạo được sự phối hợp hoạt
động nhịp nhàng giữa các phòng ban, phân xưởng, khai thác tối đa tiềm năng về lao động, tạo
điều kiện cho mọi người, mọi khâu, mọi bộ phận phát huy đầy đủ quyền chủ động sáng tạo
trong sản xuất kinh doanh. Để quản lý tốt, doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ quản lý
nhanh nhạy, nhiệt tình và có kinh nghiệm
1.2.2.2 Nhân tố con người
Nhân tố con người trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đóng vai trò cực kỳ
quan trọng, vì con người là chủ thể của quá trình sản xuất kinh doanh, trực tiếp tham gia vào
hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, nhân tố con người ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả sản
xuất kinh doanh. Doanh nghiệp nào có đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, thể hiện ở trình độ phân
công lao động hợp lý thì hiệu quả của lao động sẽ tăng, còn ngược lại, sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng do xảy ra tình trạng nơi thiếu lao động nơi thừa lao
động...Bên cạnh đó, tay nghề của mỗi người lao động cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới kết
quả sản xuất của doanh nghiệp, vì nếu người lao động có tay nghề cao thì sản phẩm của họ
làm ra sẽ đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, giảm phế phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu. Trong
trường hợp ngược lại, lượng hao phí nguyên vật liệu sẽ lớn, phế phẩm nhiều,...làm tăng chi
phí sản xuất dẫn đến giảm hiệu quả kinh doanh.
Do nhân tố con người có tầm quan trọng, đòi hỏi doanh nghiệp phải có kế hoạch đào tạo tay
nghề cho lao động, đảm bảo quyền làm chủ của mỗi cá nhân, chăm lo tới đời sống vật chất và
tinh thần cho công nhân viên, đồng thời có hình thức thưởng phạt hợp lý nhằm khuyến khích
người lao động có ý thức trách nhiệm, gắn bó, tâm huyết với doanh nghiệp, và từ đó luôn sẵn
sàng làm việc hết khả năng.
1.2.2.3 Yếu tố tài chính
Bất kì một DN nào muốn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cũng cần phải
quản lý tốt tình hình tài chính để đưa ra các quyết định tài chính quan trọng có liên quan đến
sự tồn tại và phát triển của DN như: quyết định đầu tư, quyết định huy động vốn, quyết định
về phân phối, ngân quỹ…
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, nhà DN phải xử lý các quan hệ tài chính thông qua
phương thức giải quyết 3 vấn đề quan trọng sau:
Thứ nhất, nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với loại hình sản xuất
kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của DN và là cơ sở để dự toán
vốn đầu tư.
Thứ hai, nguồn vốn đầu tư mà DN có thể khai thác là nguồn nào?
Thứ ba, vấn đề quản lý hoạt động tài chính hàng ngày của DN sẽ được quản lý như
thế nào? Chẳng hạn, việc thu tiền từ khách hàng và trả tiền cho nhà cung cấp? Đây là các
quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ tới quản lý tài sản lưu động của
DN.
1.3 hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN
Để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh một cách chính xác và có cơ sở
khoa học, người ta thường sử dụng hệ thống chỉ tiêu phù hợp gồm:
+ Chỉ tiêu tổng hợp
+ Chỉ tiêu chi tiết
Từ đó vận dụng các phương pháp thích hợp để đánh giá theo hệ thống.
1.3.1. Các chỉ tiêu tổng hợp
1.3.1.1 Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo dạng hiệu số
Theo chỉ tiêu này, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh được biểu hiện chủ yếu
dưới dạng lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong kì:
Tổng lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí
Căn cứ vào số lợi nhuận cụ thể đạt được, doanh nghiệp có thể đánh giá được hoạt động sản
xuất kinh doanh có hiệu quả hay không?
Phương pháp này có ưu điểm là tính toán đơn giản, thuận tiện do vậy dễ thực hiện
song cũng có nhiều nhược điểm như: không cho phép đánh giá được hết chất lượng hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp và không so sánh được kết qủa giữa các năm hoặc giữa các
doanh nghiệp. Thứ hai, không phản ánh được nguồn lực tiềm tàng của doanh nghiệp, cũng
như không phản ánh được bản chất của các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh ( qui mô, cơ cấu, lợi thế kinh doanh…). Thật vậy, giả sử xem xét chỉ tiêu lợi
nhuận với cách đánh giá ở dạng hiệu số có thể dẫn tới cách hiểu đơn giản và thông thường là
cứ kinh doanh đảm bảo thu bù chi là có lãi, là có hiệu quả. Mặc dù lợi nhuận của kết quả kinh
tế thu được sau khi trừ đi tất cả các khoản chi phí đã bỏ ra, nó cũng phản ánh ở mức độ nhất
định kết quả kinh doanh. Nhưng sự đánh giá như vậy là không chính xác bởi lẽ tổng mức lợi
nhuận thu được phụ thuộc vào cả sự phát triển theo chiều rộng và chiều sâu, tức là bằng cả
mở rộng quy mô doanh nghiệp, tăng lượng đầu tư vào và bằng cả tăng kết quả thu được trên
một đơn vị chi phí đầu tư. Tổng kết kết quả năm nay thu được có thể lớn hơn năm trước nhờ
tăng lượng đầu tư vào lớn hơn lượng tăng kết quả thu được.
13.1.2 Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo số tương đối
Hiện nay, chỉ tiêu này được hầu hết các nhà kinh tế công nhận và áp dụng rộng rãi
trong thực tế. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh được tính theo công thức:
Hiệu quả
kinh doanh
Kết quả đạt được
=
Hao phí các nguồn lực cần thiết gắn với kết
quả đạt được
Ưu điểm của cách này là ở chỗ, không những khắc phục được tất cả những nhược
điểm ở trên mà còn cho phép phản ánh hiệu quả một cách toàn diện. Với cách phản ánh và
cách đánh giá xác định hiệu quả ở dạng phân số hình thành nên một hệ thống chỉ tiêu phản
ánh hiệu quả từ mọi góc độ khác nhau từ tổng quát tới chi tiết. Tuy nhiên, sử dụng chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả ở dạng phân số có nhược điểm là phức tạp và đòi hỏi phải có một quan
điểm hợp lý trong việc sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả trong quản lý kinh tế.
1.3.2. Các chỉ tiêu chi tiết
Việc sử dụng các chi tiêu chi tiết sẽ khắc phục những nhược điểm của chi tiêu tổng
hợp, các chỉ tiêu này tạo điều kiện nghiên cứu toàn diện, phân tích sự ảnh hưởng tiêu cực hay
tích cực của các nhân tố tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống chỉ tiêu này
được xét dưới các góc độ khác nhau dưới đây:
1.3.2.1 Nhóm 1: Một số chỉ tiêu liên quan đến tỷ suất lợi nhuận:
Lợi nhuận tuyệt đối có thể không phản ánh đúng mức độ hiệu quả của sản xuất kinh
doanh vì chỉ tiêu này không chỉ chịu sự tác động của bản thân chất lượng công tác của doanh
nghiệp mà còn chịu ảnh hưởng của qui mô sản xuất của DN. Vì vậy, để đánh giá đúng đắn
kết quả kinh doanh của DN cần phải sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận
+ Tỷ suất lợi nhuận trên Tổng doanh thu : được tính như sau:
Tỷ suất lợi nhuận trên
tổng DT(DTT)
LNST( LNTT)
= x 100
Tổng DT( DT thuần)
Chỉ tiêu này phản ảnh trong 100 đồng doanh thu mà công ty thực hiện trong kì có bao
nhiêu đồng là lợi nhuận trước thuế hay lợi nhuận sau thuế.
+ Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản : được tính bằng công thức:
Tỷ suất lợi nhuận trên
tổng tài sản
LNST
= x 100
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết 100 đồng giá trị tài sản DN đã huy động có khả năng tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế.
+Tỷ suất lợi nhuận trên Vốn chủ sở hữu : được tính bằng công thức:
Tỷ suất lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu
LNST
= x 100
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu được đầu tư sau 1 năm sẽ thu được bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế
+Tỷ suất lợi nhuận trên Tổng giá thành : đ