Quản lý tài chính là một bộ phận quan trọng của quản lý kinh doanh doanh nghiệp
và cũng là kiểu quản lý mang tính tổng hợp đối với hoạt động sản xuất kinh doanh sử dụng
hình thức giá trị. Cùng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
nước ta, sự đi sâu cải cách thể chế doanh nghiệp và quản lý kinh doanh, quản lý tài chính
ngày càng được nhân viên quản trị coi trọng, vị trí của nhân viên quản trị ngày càng được
nâng cao.
Hiện nay nước ta đã tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO, đang ở trong giai
đoạn hội nhập với nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp cần phải không ngừng điều chỉnh
kết cấu sản phẩm và kết cấu ngành nghề. Do phạm vi, quy mô lưu thông hàng hoá và lưu
động tiền vốn ngày càng lớn, nên doanh nghiệp không những cần phải kinh doanh sản
phẩm mà còn cần tiến hành kinh doanh tiền tệ. Là nhà quản lý kinh doanh, không nắm
được kiến thức về tài chính, không hiểu bản chất kinh doanh, không biết quản lý tài chính
thì rất khó có thể trở thành nhà quản lý có hiệu quả. Do đó, quản lý tài chính là chủ đề luôn
luôn được nhân viên quản trị doanh nghiệp coi trọng, tìm hiểu, học tập và áp dụng.
Xuất phát từ nhận thức đó, qua một thời gian thực tập tại công ty cổ phần đầu tư và
phát triển công nghệ Phương Nam, tìm hiểu về thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty
cũng như thu thập thông tin về hoạt động của công ty trong những năm gần đây, và được
sự giúp đỡ tận tình của các cô, các chị trong phòng kế toán của công ty em đã tìm hiểu và
nghiên cứu đề tài “ Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở công ty cổ
phần đầu tư và phát triển công nghệ Phương Nam”
94 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2286 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở công ty cổ phần đầu tư và phát triển công nghệ Phương Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
tài chính ở công ty cổ phần đầu tư và phát
triển công nghệ Phương Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Quản lý tài chính là một bộ phận quan trọng của quản lý kinh doanh doanh nghiệp
và cũng là kiểu quản lý mang tính tổng hợp đối với hoạt động sản xuất kinh doanh sử dụng
hình thức giá trị. Cùng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
nước ta, sự đi sâu cải cách thể chế doanh nghiệp và quản lý kinh doanh, quản lý tài chính
ngày càng được nhân viên quản trị coi trọng, vị trí của nhân viên quản trị ngày càng được
nâng cao.
Hiện nay nước ta đã tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO, đang ở trong giai
đoạn hội nhập với nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp cần phải không ngừng điều chỉnh
kết cấu sản phẩm và kết cấu ngành nghề. Do phạm vi, quy mô lưu thông hàng hoá và lưu
động tiền vốn ngày càng lớn, nên doanh nghiệp không những cần phải kinh doanh sản
phẩm mà còn cần tiến hành kinh doanh tiền tệ. Là nhà quản lý kinh doanh, không nắm
được kiến thức về tài chính, không hiểu bản chất kinh doanh, không biết quản lý tài chính
thì rất khó có thể trở thành nhà quản lý có hiệu quả. Do đó, quản lý tài chính là chủ đề luôn
luôn được nhân viên quản trị doanh nghiệp coi trọng, tìm hiểu, học tập và áp dụng.
Xuất phát từ nhận thức đó, qua một thời gian thực tập tại công ty cổ phần đầu tư và
phát triển công nghệ Phương Nam, tìm hiểu về thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty
cũng như thu thập thông tin về hoạt động của công ty trong những năm gần đây, và được
sự giúp đỡ tận tình của các cô, các chị trong phòng kế toán của công ty em đã tìm hiểu và
nghiên cứu đề tài “ Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở công ty cổ
phần đầu tư và phát triển công nghệ Phương Nam”
Nội dung chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em gồm 3 chương:
Chương I. Cơ sở lý luận về quản lý tài chính doang nghiệp.
Chương II. Thực trạng công tác quản lý tài chính ở công ty cổ phần đầu tư và
phát triển công nghệ Phương Nam.
Chương III. Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính ở công ty
cổ phần đầu tư và phát triển công nghệ Phương Nam.
Do thời gian thực tập hạn hẹp và trình độ, chuyên môn còn hạn chế nên bài chuyên
đề tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy
PGS.TS Phan Kim Chiến và các thầy cô trong khoa để bài chuyên đề tốt nghiệp của em
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1. Tài chính doanh nghiệp
1.1. Khái niệm
Khi nhắc đến tài chính trong doanh nghiệp, người ta thường liên hệ nó với công
việc kế toán, tức là ghi sổ sách, tính toán sổ sách và lập các biểu bảng báo cáo tài chính.
Đó là nhận thức sai lầm về khái niệm tài chính.
Khái niệm tài chính, hiểu theo nghĩa thông thường thì đó là những hoạt động huy
động vốn, sử dụng, phát triển và quản lý tiền vốn. Có nghĩa là doanh nghiệp cần tích luỹ
vốn, sau đó đầu tư vào hoạt động sản xuất và kinh doanh làm số tiền đó tăng lên - tức là
tiền sinh tiền. Từ đó, doanh nghiệp có được lợi nhuận thông qua hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên, nhà doanh nghiệp không được hưởng toàn bộ lợi nhuận này mà phải
phân phối một phần cho ngân sách nhà nước, nhân viên và cả nội bộ doanh nghiệp. Những
hoạt động nói trên đã hình thành nên tài chính doanh nghiệp.
Dưới góc độ quản lý thì tài chính là hoạt động huy động, sử dụng, sắp xếp, phân
phối vốn và là các mối quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế.
1.2. Bản chất của tài chính doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải đảm bảo sự phối hợp
đồng bộ, ăn khớp về những hoạt động liên quan đến thị trường hàng hoá dịch vụ, thị
trường vốn, thị trường lao động và tổ chức nội bộ trong doanh nghiệp, nhằm tạo ra sự tăng
trưởng, đạt được tỷ suất lợi nhuận tối đa. Chính trong quá trình đó đã làm nảy sinh hàng
loạt những quan hệ kinh tế với các chủ thể khác thông qua sự vận động của vốn tiền tệ.
Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước:
Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ nhà nước cấp phát, hỗ trợ vốn và góp vốn cổ phần
theo những nguyên tắc và phương thức nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh và phân
chia lợi nhuận. Đồng thời, các mối quan hệ tài chính này còn phản ánh những quan hệ kinh
tế dưới hình thức giá trị phát sinh khi thực hiện quá trình phân phối và phân phối lại tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân giữa ngân sách nhà nước với các doanh nghiệp.
Điều này được thể hiện thông qua các khoản thuế mà doanh nghiệp có nghĩa vụ pháp lý
phải nộp cho ngân sách nhà nước. Lợi nhuận của doanh nghiệp đạt được phụ thuộc rất lớn
vào chính sách thuế. Mặt khác, sự thay đổi về chính sách tài chính vĩ mô của nhà nước sẽ
làm thay đổi môi trường đầu tư, từ đó cũng ảnh hưởng đến cơ cấu vốn kinh doanh, chi phí
hoạt động của từng doanh nghiệp, chẳng hạn như chính sách đầu tư , hỗ trợ tài chính của
nhà nước đối với doanh nghiệp.
Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính.
Doanh nghiệp thực hiện quá trình trao đổi mua bán các sản phẩm nhằm thoả mãn
mọi nhu cầu về vốn của mình. Trong quá trình đó , Doanh nghiệp luôn phải tiếp súc với thị
trường tài chính mà chủ yếu là thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Thị trường tiền tệ: thông qua các hệ thống ngân hàng, Doanh nghiệp có thể tạo
được nguồn vốn ngắn hạn và trung hạn để tài trợ cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình. Bên cạnh đó, mỗi doanh nghiệp phải mở tài khoản tại một ngân hàng nhất định
và thực hiện các giao dịch mua bán qua chuyển khoản.
Thị trường vốn: thông qua thị trường này các doanh nghiệp có thể tạo được nguồn
vốn dài hạn bằng cách phát hành chứng khoán của công ty như cổ phiếu, kỳ phiếu,… Mặt
khác, doanh nghiệp có thể tiến hành kinh doanh chứng khoán trên thị trường này để kiếm
lời.
Quan hệ tài chính của doanh nghiệp với các thị trường khác.
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác
trên thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường sức lao động. Tại các thị trường này doanh
nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao động, v.v… Thông
qua đây, doanh nghiệp còn có thể xác định lượng nhu cầu hàng hoá, và dịch vụ cần thiết
cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất,
tiếp thị nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường.
Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp.
Bao gồm các mối quan hệ tài chính như:
Quan hệ của những doanh nghiệp mẹ và doanh nghiệp con.
Quan hệ của những doanh nghiệp với người hoặc nhóm người có khả năng chi
phối ra quyết định, hoạt động của doanh nghiệp đó thông qua các cơ quan quản lý doanh
nghiệp.
Quan hệ của những doanh nghiệp với quản lý doanh nghiệp.
Quan hệ của những doanh nghiệp với người lao động.
Các mối quan hệ này được biểu hiện thông qua chính sách tài chính của doanh
nghiệp như sau:
- Chính sách phân phối thu nhập cho người lao động.
- Chính sách chia lãi cho các Cổ Đông.
- Chính sách cơ cấu nguồn vốn.
- Chính sách đầu tư và cơ cấu đầu tư.
Nhìn chung, các quan hệ kinh tế nêu trên đã khái quát hoá toàn bộ những khía cạnh
về sự vận động của vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc trưng của sự
vận động của vốn luôn luôn gắn liền chặt chẽ với quá trình phân phối các nguồn tài chính
của doanh nghiệp và xã hội nhằm tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của doanh
nghiệp phục vụ cho quá trình kinh doanh.
Trên cơ sở đó, có thể định nghĩa bản chất của tài chính doanh nghiệp là hệ thống
các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn lực tài chính, được thực
hiện thông qua các quá trình huy động và sử dụng các loại vốn, quỹ tiền tệ nhằm phục vụ
cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Chức năng của tài chính doanh nghiệp
2.1. Tổ chức huy động chu chuyển vốn, đảm bảo cho sản xuất kinh doanh được tiến
hành liên tục.
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nên có nhu
cầu về vốn, tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà vốn được duy động từ những nguồn
sau:
- Ngân sách Nhà nước cấp.
- Vốn cổ phần.
- Vốn liên doanh.
- Vốn tự bổ sung.
- Vốn vay.
Nội dung của chức năng này:
- Căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất, định chức mức tiêu chuẩn để xác định nhu cầu vốn
cần thiết cho sản xuất kinh doanh.
- Cân đối giữa nhu cầu và khả năng về vốn.
Nếu nhu cầu lớn hơn khả năng về vốn thì doanh nghiệp phải huy động thêm vốn (
tìm nguồn tài trợ với chi phí sử dụng vốn thấp nhưng đảm bảo có hiệu quả).
Nếu nhu cầu nhỏ hơn khả năng về vốn thì doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất
hoặc tìm kiếm thị trường để đầu tư mang lại hiệu quả.
- Lựa chọn nguồn vốn và phân phối sử dụng vốn hợp lý để sao cho với số vốn ít
nhất nhưng mang lại hiệu quả cao nhất.
2.2. Chức năng phân phối thu nhập của tài chính doanh nghiệp
Thu nhập bằng tiền từ bán sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ, lợi tức cổ phiếu, lãi
cho vay, thu nhập khác của doanh nghiệp được tiến hành phân phối như sau:
Bù đắp hao phí vật chất, lao động đã tiêu hao trong quá trình sản xuất kinh doanh
bao gồm:
- Chi phí vật tư như nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực, công cụ lao động
nhỏ,…
- Chi phí khấu hao tài sản cố định.
- Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền (kể cả các khoản thuế gián
thu).
Phần còn lại là lợi nhuận trước thuế được phân phối tiếp như sau:
- Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật định ( hiện nay tính bằng 28% trên
thu nhập chịu thuế).
- Bù lỗ năm trước không được trừ vào lợi nhuận trước thuế (nếu có).
- Nộp thuế vốn (nếu có).
- Trừ các khoản chi phí không hợp lý, hợp lệ.
- Chia lãi cho đối tác góp vốn.
- Trích vào các quỹ doanh nghiệp.
2.3. Chức năng giám đốc (kiểm soát) đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Giám đốc tài chính là việc thực hiện kiểm soát quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ
tiền tệ của doanh nghiệp.
Cơ sở của giám đốc tài chính:
- Xuất phát từ tính quy luật phân phối sản phẩm quyết định (ở đâu có phân phốí
tài chính thì ở đó có giám đốc tài chính).
- Xuất phát từ tính mục đích của việc sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh.
Muốn cho đồng vốn có hiệu quả cao, sinh lời nhiều thì tất yếu phải giám đốc tình
hình tạo lập sử dụng quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp.
Nội dung
- Thông qua chỉ tiêu vay trả, tình hình nộp thuế cho Nhà nước mà Nhà nước,
Ngân hàng biết được tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp tốt hay chưa tốt.
- Thông qua chỉ tiêu giá thành, chi phí mà biết được doanh nghiệp sử dụng vật tư,
tài sản, tiền vốn tiết kiệm hay lãng phí.
- Thông qua chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận (tỷ suất lợi nhuận doanh thu, giá thành,
vốn) mà biết được doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không?
3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế tồn tại khách quan trong nền kinh tế
hàng hoá - tiền tệ. Sự vận động của nó một mặt phải tuân theo những quy luật kinh tế
khách quan, mặt khác do tài chính doanh nghiệp là các quan hệ nằm trong hệ thống những
quan hệ kinh tế gắn liền với hoạt động kinh doanh nên tài chính doanh nghiệp còn phải
chịu sự chi phối bởi các mục tiêu và phương hướng kinh doanh của các chủ thể doanh
nghiệp. Nhưng đến lượt mình, tài chính doanh nghiệp lại có tác động theo hướng thúc đẩy
hay kìm hãm hoạt động kinh doanh. Trên góc độ này, tài chính doanh nghiệp được xem là
một trong những công cụ có vai trò quan trọng trong quản lý kinh doanh.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp được biểu hiện qua các mặt sau:
Tổ chức huy động và phân phối sử dụng các nguồn lực tài chính có hiệu quả.
Đối với một doanh nghiệp, vốn là yếu tố vật chất cho sự tồn tại và phát triển. Do
vậy, vấn đề tổ chức huy động và phân phối sử dụng sao cho có hiệu quả trở thành nhiệm
vụ rất quan trọng đối với công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị
trường, vốn cũng là một loại hàng hoá, cho nên việc sử dụng vốn của doanh nghiệp đều
phải trả giá một khoản chi phí nhất định. Vì thế, doanh nghiệp cần phải chủ động xác định
nhu cầu vốn cần huy động, từ đó có kế hoạch hình thành cơ cấu nguồn vốn tài trợ cho hoạt
động kinh doanh một cách hiệu quả.
Song song với quá trình huy động vốn, đảm bảo vốn tài chính doanh nghiệp còn có
vai trò tổ chức phân phối sử dụng để đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất – đây là vấn đề có
tính quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh “khắc nghiệt”
theo cơ chế thị trường trong kinh doanh, tính hiệu quả của việc sử dụng vốn được biểu
hiện ra là:
Về mặt kinh tế: lợi nhuận tăng,vốn của doanh nghiệp không ngừng được bảo
toàn và phát triển.
Về mặt xã hội: các doanh nghiệp không chỉ làm tròn nghĩa vụ của mình đối với
Nhà nước mà còn không ngừng nâng cao mức thu nhập của người lao động.
Để đạt được các yêu cầu trên đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động nắm bắt tín hiệu
của thị trường, lựa chọn phương án kinh doanh thích hợp và hiệu quả. Trên cơ sở phương
án kinh doanh đã được xác định, doanh nghiệp tổ chức bố trí sử dụng vốn theo phương
châm: Tiết kiệm, Nâng cao vòng quay và khả năng sinh lời của đồng vốn.
Tạo lập các đòn bẩy tài chính để kích thích điều tiết các hoạt động kinh tế
trong doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn luôn cần có sự phối hợp đồng bộ của
nhiều người, nhiều bộ phận với nhau đặt trong các mối quan hệ kinh tế. Vì vậy, nếu sử
dụng linh hoạt, sáng tạo các quan hệ phân phối của tài chính để tác động đến các chính
sách tiền lương, tiền thưởng và các chính sách khuyến khích vật chất khác sẽ có tác động
tích cực đến việc tăng năng suất; kích thích tiêu dùng, tăng vòng quay vốn và cuối cùng là
tăng được lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu người quản lý phạm phải những sai
lầm trong việc sử dụng các đòn bẩy tài chính và tạo nên cơ chế quản lý tài chính kém hiệu
quả, thì chính tài chính doanh nghiệp lại trở thành “vật cản” gây kìm hãm hoạt động kinh
doanh.
Kiểm tra đánh giá hiệu quả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Xuất phát từ vấn đề có tính nguyên lý là : khi đầu tư vốn kinh doanh bất kỳ nhà
doanh nghiệp nào cũng đều mong muốn đồng vốn của mình mang lại hiệu quả kinh tế cao
nhất, do vậy với tư cách là một công cụ quản lý hoạt động kinh doanh tài chính nhất thiết
phải có vai trò kiểm tra để nâng cao tính tiết kiệm và hiệu quả cảu đồng vốn.
Tài chính doanh nghiệp thực hiện kiểm tra bằng đồng tiền và tiến hành thường
xuyên liên tục thông qua phân tích các chỉ tiêu tài chính. Cụ thể các chỉ tiêu đó là chỉ tiêu
tài chính, chỉ tiêu về các khả năng thanh toán, chỉ tiêu đặc trưng về hoạt động, sử dụng các
nguốn lực tài chính; chỉ tiêu đặc trưng về khả năng sinh lời,… Bằng việc phân tích các chỉ
tiêu tài chính cho phép doanh nghiệp có căn cứ quan trọng để đề ra kịp thời các giải pháp
tối ưu làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp, cụ thể:
Đảm bảo cung ứng đủ vốn cho quá trình kinh doanh.
Sử dụng vốn có hiệu quả.
Giảm thấp chi phí kinh doanh và giá thành sản phấm.
Nâng cao tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.Khái niệm quản lý tài chính doanh nghiệp
Quản lý tài chính dựa trên quy luật vận động vốn, đồng thời cần tuân thủ theo quy
định pháp luật. Thực hiện dự đoán, lên kế hoạch, giám sát, hạch toán và phân tích sự hình
thành vốn, sử dụng và phân phối vốn. Nâng cao hiệu quả vận động vốn, thực hiện công tác
quản lý bảo đảm vốn được gia tăng.
Thực chất của quản lý tài chính là quản lý mang tính tổng hợp những hoạt động
kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp bằng cách vận dụng hình thức giá trị.
2. Mục tiêu của quản lý tài chính doanh nghiệp
Một doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như: tối đa hoá
lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu trong ràng buộc tối đa hóa lợi nhuân, tối đa hoá hoạt động
hữư ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp…Song tất cả các mục tiêu cụ thể đó đều nhằm
một mục tiêu bao trùm nhất là tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu hay tối đa hoá
tài sản doanh nghiệp.
Tối đa hoá tài sản doanh nghiệp cũng còn gọi là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp là
chỉ doanh nghiệp áp dụng chính sách tài chính tối ưu để không ngừng tăng nhanh tài sản
doanh nghiệp và làm cho tổng giá trị doanh nghiệp đạt mức tối đa thông qua việc tăng
trưởng nguồn vốn có tình đến những giá trị thời gian và sự đền bù của rủi ro.
Coi tối đa hoá tài sản doanh nghiệp làm mục tiêu quản lý tài chính doanh nghiệp có
những ưu điểm sau:
Mục tiêu tối đa hoá tài sản doanh nghiệp có thể khắc phục những hành vi
ngắn hạn trong quá trình theo đuổi lợi nhuận.
Sở dĩ như vậy là vì nhân tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp không chỉ là lợi
nhuận hiện tại hay quá khứ mà dự đoán lợi nhuận tương lai ngày càng có ảnh hưởng lớn
đến giá trị doanh nghiệp. Với mục tiêu tối đa hoá tài sản doanh nghiệp, các nhà kinh doanh
buộc phải xem xét đến sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp, không ngừng tạo nên sự
tăng trưởng lợi nhuận mới trong tương lai.
Mục tiêu tối đa hoá tài sản không những xem xét lợi nhuận cao hay thấp mà
còn càng chú ý đến lưu lượng vốn nhiều hay ít.
Điều mà tối đa hóa tài sản doanh nghiệp mưu cầu đó là nhu cầu lượng tiền mặt đầu
vào không ngừng gia tăng và tốc độ quay vòng vốn ngày càng nhanh. Xét về sự tồn tại và
phát triển lâu dài của doanh nghiệp, vốn nhiều hay ít quan trọng hơn là lợi nhuận ít hay
nhiều. Doanh nghiệp chỉ có tăng nhanh lưu lượng tiền mặt đầu vào thì mới có thể liên tục
phát triển. Hơn nữa lưu lượng tiền mặt đầu vào lại xem xét nhân tố thời gian của tiền vốn
hay không, đồng thời tiến hành tính toán một cách khoa học trên nguyên tắc giá trị thời
gian của tiền vốn, hiệu quả doanh nghiệp đã được xác nhận càng chân thực hơn.
Mục tiêu tối đa hoá tài sản có lợi cho việc bảo vệ quyền lợi cơ bản cho nhà
đầu tư và cổ đông, có lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Tối đa hoá tài sản không ngoại trừ những doanh nghiệp có lợi nhuận cao. Muốn làm
cho vốn doanh nghiệp tăng nhanh, doanh nghiệp cần phải giữ được mức doanh lợi tương
đối cao nhưng phải là lãi thật. Khi lợi nhuận ngắn hạn và lợi nhuận lâu dài có xung đột,
nhà kinh doanh phải tính toán và đánh giá tầm quan trọng của hai loại lợi nhuận này, từ đó
lựa chọn phương án có lợi hơn cho việc gia tăng giá trị doanh nghiệp. Đặc biệt là đối với
sự phân chia lợi nhuận. Mục tiêu tối đa hoá tài sản doanh nghiệp sẽ làm cho nhà đầu tư, cổ
đông và nhà kinh doanh thận trọng khi lựa chọn những chính sách phân chia có thể giúp
công ty duy trì được thực lực phát triển lâu dài, đồng thời tránh được những chính sách
ngắn hạn “ăn hết chia sạch”.
Tóm lại, mục tiêu tối đa hoá tài sản có thể chỉ đạo nhà quản lý tài chính cân nhắc
lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, quan tâm đến quyền lợi của nhà đầu tư và của chủ
doanh nghiệp. Phân tích chi tiết, cụ thể quan hệ giữa các mức độ rủi ro và thù lao làm cho
kết cấu doanh nghiệp được tổ hợp tốt nhất, giá trị doanh nghiệp đạt mức độ cao nhất.
3.Vai trò của quản lý tài chính doanh nghiệp.
Tình hình tài chính doanh nghiệp lành mạnh là một trong những điều kiện tiên
quyết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách nhịp nhàng, đồng bộ,
đạt hiệu quả cao. Sự lành mạnh đó có được hay không phụ thuộc phần lớn vào khả năng
quản lý tài chính của doanh nghiệp.
Trong các hoạt động quản lý của doanh nghiệp thì quản lý tài chính luôn giữ một vị
trí quan trọng. Nó quyết định tính độc lập, sự thành công của một doanh nghiệp trong quá
trình kinh doanh. Đặc biệt trong môi trường kinh doanh quốc tế hiện nay, trong điều kiện
cạnh tranh ngày càng diễn ra khốc liệt trên phạm vi toàn thế giới, thì quản lý tài chính lại
càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Bằng các chỉ tiêu và sự nhạy