Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa thị trường theo chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng từ Đại hội VI (12/1986), Việt Nam bắt đầu thực hiện mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, đem lại những thành quả to lớn về kinh tế và xã hội. Nền kinh tế nước ta có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Song cũng trong bối cảnh kinh tế đó, các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rộng đến các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Chính vì vậy, tranh chấp xảy ra trong thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời.
Pháp luật Việt Nam nói chung, cũng như pháp luật thương mại nói riêng đã quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương lượng, hoà giải, toà án hay trọng tài. Trên thế giới, phương thức giải quyết bằng trọng tài được áp dụng rất rộng rãi nhưng ở Việt Nam thì phương thức giải quyết tranh chấp này vẫn còn những hạn chế nhất định. Nguyên nhân chủ yếu là do pháp luật nước ta còn những quy định chưa phù hợp và chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tế, trong đó tiêu biểu là các quy định về việc hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại trong quá trình giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên nước ta đang từng bước hoàn thiện phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài, tiêu biểu là sự ra đời của Luật trọng tài thương mại năm 2010 cơ bản đã khắc phục được những điểm chưa phù hợp của Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
Nước ta đang thực hiện chủ trương khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài thương mại khi phát sinh tranh chấp giữa các bên. Vấn đề trên xuất phát từ nhu cầu của các chủ thể kinh doanh, các thể nhân, pháp nhân muốn giải quyết việc tranh chấp của mình một cách thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả, đồng thời cũng góp phần giảm tải công việc cho Toà án. Toà án và trọng tài thương mại tồn tại độc lập nhau nhưng có mối quan hệ hỗ trợ mật thiết với nhau. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật trọng tài, đặc biệt là quy định rõ ràng về mối quan hệ hỗ trợ của Cơ quan tư pháp đối với trọng tài là một vấn đề cấp thiết. Từ những lập luận trên, Người viết đã chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
22 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2452 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa thị trường theo chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng từ Đại hội VI (12/1986), Việt Nam bắt đầu thực hiện mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, đem lại những thành quả to lớn về kinh tế và xã hội. Nền kinh tế nước ta có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Song cũng trong bối cảnh kinh tế đó, các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rộng đến các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Chính vì vậy, tranh chấp xảy ra trong thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời.
Pháp luật Việt Nam nói chung, cũng như pháp luật thương mại nói riêng đã quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương lượng, hoà giải, toà án hay trọng tài. Trên thế giới, phương thức giải quyết bằng trọng tài được áp dụng rất rộng rãi nhưng ở Việt Nam thì phương thức giải quyết tranh chấp này vẫn còn những hạn chế nhất định. Nguyên nhân chủ yếu là do pháp luật nước ta còn những quy định chưa phù hợp và chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tế, trong đó tiêu biểu là các quy định về việc hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại trong quá trình giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên nước ta đang từng bước hoàn thiện phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài, tiêu biểu là sự ra đời của Luật trọng tài thương mại năm 2010 cơ bản đã khắc phục được những điểm chưa phù hợp của Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
Nước ta đang thực hiện chủ trương khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài thương mại khi phát sinh tranh chấp giữa các bên. Vấn đề trên xuất phát từ nhu cầu của các chủ thể kinh doanh, các thể nhân, pháp nhân muốn giải quyết việc tranh chấp của mình một cách thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả, đồng thời cũng góp phần giảm tải công việc cho Toà án. Toà án và trọng tài thương mại tồn tại độc lập nhau nhưng có mối quan hệ hỗ trợ mật thiết với nhau. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật trọng tài, đặc biệt là quy định rõ ràng về mối quan hệ hỗ trợ của Cơ quan tư pháp đối với trọng tài là một vấn đề cấp thiết. Từ những lập luận trên, Người viết đã chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Phạm vi nghiên cứu:
Quy định pháp luật về trọng tài thương mại rất rộng do đó việc nghiên cứu, tìm tài liệu còn hạn chế, đề tài nghiên cứu có giới hạn, thời gian làm đề tài ngắn, thêm vào đó trong thời gian làm đề tài thì Luật trọng tài thương mại 2010 mới có hiệu lực và được áp dụng vào thực tế chưa lâu (thời gian từ khi bắt đầu làm luận văn đến khi báo cáo luận văn) nên Người viết chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về cơ chế hỗ trợ của Cơ quan tư pháp (Toà án, Cơ quan thi hành án) đối với hoạt động của trọng tài thương mại trong quá trình giải quyết tranh chấp, cụ thể được quy định trong Luật trọng tài thương mại 2010 trên cơ sở so sánh với PLTTTM 2003, Luật mẫu Uncitral và Luật trọng tài của một số nước trên thế giới.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Luận văn hướng tới mục đích là làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về trọng tài thương mại hiện hành trong việc hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại của Cơ quan tư pháp, nêu lên thực trạng, bất cập của pháp luật, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiệnn pháp luật về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại của Cơ quan tư pháp.
Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài, Người viết sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp liệt kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích luật viết, tổng hợp để thực hiện việc nghiên cứu đề tài.
Nghiên cứu qua sách báo và tạp chí, những bài bình luận khoa học pháp lý về vấn đề hỗ trợ tư pháp đới với hoạt động của trọng tài thương mại.
Bố cục của luận văn
Luận văn trình bày gồm những phần:
Mục lục.
Lời mở đầu.
Chương 1: Khái quát chung về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và sự cần thiết của việc hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại.
Chương 2: Cơ sở lý luận và pháp lý về việc hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về hỗ trợ tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại.
Kết luận vấn đề.
Danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HỖ TRỢ TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Khái quát chung về trọng tài thương mại
Khái niệm trọng tài thương mại
Trọng tài là thể thức giải quyết tranh chấp theo đó các bên đưa những tranh chấp ra trước một trọng tài viên hoặc ủy ban trọng tài để giải quyết và trọng tài sau khi xem xét vụ việc sẽ đua ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt của trọng tài viên, với tư cách là một bên tứ ba độc lập nhằm chấm dứt các xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết buộc các bên tham gia tranh chấp phải thực hiện.
Theo Pháp lệnh trọng tài thương mại được Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI thông qua ngày 25 tháng 2 năm 2003, có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm 2003 (PLTTTM 2003) được hiểu là: Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy định.
Theo Luật trọng tài thương mại 2010 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2011 (sau đây gọi tắt là Luật trọng tài thương mại 2010) được hiểu là: Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010.
Có thể hiểu rằng, trọng tài là thể thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận đưa các tranh chấp ra trước một trọng tài viên hoặc ủy ban trọng tài để giải quyết và trọng tài sau khi xem xét vụ việc sẽ đưa ra một phán quyết ràng buộc các bên tranh chấp theo một trình tự tố tụng nhất định.
Đặc điểm của trọng tài thương mại
Từ những mô hình tổ chức và hoạt động của trọng tài thương mại của một số nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam, có thể đưa ra một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, trọng tài thương mại là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động theo pháp luật và quy chế về trọng tài thương mại. Thuật ngữ trọng tài phi Chính phủ không có nghĩa là cơ quan trọng tài này sẽ không chịu sự quản lý, giám sát của Nhà nước. Phi Chính phủ là để phân biệt với một cơ quan tài phán Nhà nước, có quyền lực Nhà nước. Nhà nước không can thiệp sâu vào các hoạt động của các cơ quan trọng tài, nhưng sẽ thực hiện vai trò quản lý của mình thông qua hệ thống các quy định pháp luật, cũng như những tác động khác như tham gia điều ước quốc tế, đào tạo, hỗ trợ kinh phí và cơ sở vật chất… Các quy định của Nhà nước nói chung đều có tác động theo hai hướng tích cực, tiêu cực đến hiệu quả giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, trọng tài là sự kết hợp của hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Trước tiên, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của pháp luật về trọng tài. Cũng giống như các phương thức giải quyết tranh chấp khác, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng có một số nguyên tắc nhất định. Một trong những nguyên tắc cơ bản của trọng tài đó là thẩm quyền được hình thành từ ý chí thoả thuận của các bên tranh chấp. Ý chí đó thường được thể hiện dưới dạng các thoả thuận bằng văn bản hay còn gọi là thoả thuận trọng tài. Do vậy, thoả thuận trọng tài giữa các bên chính là luật trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho trọng tài. Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, bắt buộc các bên đương sự phải thi hành. Do đó, nhìn ở một gốc độ nào đó thì quyết định của trọng tài cũng có tính chất như quyết định của cơ quan tài phán công.
Thứ ba, theo pháp luật của nhiều nước và theo pháp luật Việt Nam điều ghi nhận sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc tổ chức và hoạt động của trọng tài thương mại. Tòa án hỗ trợ trọng tài về các nội dung như: thông qua trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài thương mại, Tòa án đảm bảo các quyết định của trọng tài thương mại được thực thi trên thực tế khi các bên tranh chấp không tự nguyện thi hành, Tòa án hỗ trợ trọng tài trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên tài sản, cấm chuyển dịch quyền sở hữu tài sản đang tranh chấp, chỉ định trọng tài viên. Nhìn chung, mỗi quốc gia áp dụng các quy tắc tố tụng trọng tài khác nhau nhưng về cơ bản các quy tắc này cũng có nhưng điểm chung do hầu hết các trung tâm trọng tài trên thế giới đều xây dựng dựa trên khuôn mẫu của Luật trọng tài mẫu UNCITRAL Luật trọng tài mẫu quốc tế của UNCITRAL thông qua tháng 12/1966 tại khóa họp thứ XXI Đại hội đồng liên hiệp quốc.
.
Thứ tư, trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức cơ bản đó là trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế.
Thứ năm, phán quyết của trọng tài thương mại có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo trước bất kì cơ quan, tổ chức nào. Trọng tài chỉ xét xử 1 lần và phán quyết có giá trị chung thẩm, và nếu không bị hủy thì phán quyết được chuyển sang ngay Cơ quan thi hành án. Đó chính là lý do doanh nghiệp thích giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vì tranh chấp được giải quyết rất nhanh. Hai bên có thể thỏa thuận yêu cầu trọng tài giải quyết trong 1 - 2 tháng, còn nếu đưa ra Tòa án có thể mất vài năm.
Phân loại trọng tài thương mại
Nhìn chung, trọng tài ở nhiều nước trên thế giới thường tổ chức dưới hai hình thức là trọng tài Ad-hoc (trọng tài vụ việc) và trọng quy chế (trọng tài thường trực). Trọng tài Việt Nam cũng được phân thành hai hình thức bao gồm:
Trọng tài Ad-hoc (trọng tài vụ việc): là hình thức trọng tài do các bên thành lập để giải quyết cho từng vụ tranh chấp mà họ yêu cầu. Sau khi vụ việc đã được giải quyết xong thì trọng tài Ad-hoc sẽ tự giải tán.
Trọng tài quy chế (trọng tài thường trực): là hình thức trọng tài có tổ chức, hoạt động thường xuyên, có điều lệ, có quy tắc tố tụng riêng, có bản danh sách trọng tài viên.
Cả hai điều được thành lập để giải quyết các tranh chấp mà các bên thỏa thuận lựa chọn và trong những lĩnh vực pháp luật cho phép (hoặc không cấm) đều là tổ chức phi chính phủ (không có tính chất quyền lực nhà nước). Giữa chúng có các điểm khác nhau cơ bản sau:
- Về mặt thời gian: trọng tài thường trực hoạt động thường xuyên, trong khi đó trọng tài sự việc chỉ được các bên thành lập để giải quyết một tranh chấp nhất định và khi giải quyết xong thì chấm dứt hoạt động.
- Về quy chế tổ chức và hoạt động: trọng tài thường trực có quy chế tổ chức và hoạt động định sẵn (các bên tranh chấp không có quyền tham gia xây dựng, sửa đổi) trong khi đó quy tắc thành lập và hoạt động của trọng tài vụ việc do các bên xây dựng.
- Về quy tắc tố tụng: trọng tài thường trực có quy tắc tố tụng riêng của mình (đối với một số tổ chức trọng tài thường trực, khi các bên lựa chọn các tổ chức này thì có nghĩa là các bên chọn quy tắc tố tụng của tổ chức đó, đối với một số tổ chức khác, các bên có thể lựa chọn các quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài thường trực khác) trong khi đó trọng tài sự việc không có quy tắc tố tụng định sẵn mà các bên phải thỏa thuận xây dựng (có thể thỏa thuận chọn quy tắc tố tụng của trọng tài thường trực nào đó để áp dụng thay cho việc xây dựng).
- Về đội ngũ trọng tài: trọng tài thường trực có sẵn đội ngũ trọng tài viên để các bên lựa chọn, còn trọng tài sự việc không có (các bên phải thỏa thuận trên cơ sở phù hợp với pháp luật).
Vai trò của trọng tài thương mại
Trong kinh doanh, không một doanh nghiệp, cá nhân nào không muốn đạt được lợi nhuận cao nhất, cùng với sự đồi hỏi về giữ bí mật kinh doanh, vấn đề giải quyết tranh chấp diễn ra phải nhanh chóng và tiết kiệm chi phí nhất. Do đó, trọng tài là một phương thức giải quyết tối ưu mà họ có thể lựa chọn. Bên bên cạnh đó trọng tài góp phần làm giảm tải công việc cho Tòa án khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển thì các tranh chấp xảy ra ngày càng phổ biến.
Sự ra đời của trọng tài thương mại là một tất yếu trong việc đa dạng hoá các cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh trong vấn đề kinh tế. Theo đó, các nước trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng, ngoài Toà án, đều có một cơ quan tài phán khác là trọng tài thương mại.
Trọng tài thương mại giúp giải quyết nhanh gọn và hiệu quả các tranh chấp góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong mỗi quốc gia, và trên phạm vi quốc tế. Ở nước ta hiện nay, việc mở rộng khả năng, cơ hội cho các nhà sản xuất kinh doanhthì việc sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp sẽ thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam với cộng đồng quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội.
Khái quát chung về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Lịch sử hình thành và phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Sự hình thành và phát triển của trọng tài trước khi có Luật trọng tài thương mại 2010
Giai đoạn trước khi PLTTTM 2003 có hiệu lực
Trước khi có PLTTTM 2003, ở Việt Nam tồn tại hai loại hình trọng tài, bao gồm trọng tài kinh tế nhà nước và trọng tài phi Chính phủ.
Đối với trọng tài kinh tế nhà nước
Trọng tài kinh tế nhà nước là mô hình trọng tài do Nhà nước lập ra, có có chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước Ths. Vũ Ánh Dương: Dự án Luật trọng tài thương mại và sự tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, trang tin Tạp chí nghiên cứu lập pháp:
. Như vậy, thực chất, trọng tài kinh tế nhà nước là cơ quan của Nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý kinh tế, vừa thực hiện chức năng giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các tổ chức kinh tế nhà nước. Mô hình này được hình thành đầu tiên bằng Nghị định số 20/TTg Nghị định 20/TTg ngày 14 tháng 4 năm 1960 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tê nhà nước.
ngày 14/4/1960. Sau đó, được nâng lên bằng Pháp lệnh trọng tài kinh tế nhà nước năm 1990 Pháp lệnh trọng tài kinh tế nhà nước
, theo đó, trọng tài được tổ chức ở ba cấp, đó là trọng tài kinh tế nhà nước, trọng tài kinh tế tỉnh và trọng tài kinh tế huyện. Mô hình này tồn tại đến năm 1993 và bị thay thế bởi hệ thống Tòa án kinh tế theo Luật sửa đổi một số điều của Luật Tổ chức Tòa án năm 1993 Luật tổ chức Tòa án
. Bắt đầu từ thời điểm này, các Tòa án kinh tế sẽ giải quyết các tranh chấp kinh tế.
Đối với trọng tài phi chính phủ:
Trọng tài phi Chính phủ là là một tổ chức độc lập, không phu thộc vào hệ thống các cơ quan nhà nước. Nó có thể được thành lập ở dạng các công ty hoặc các hiệp hội trọng tài. Mô hình này phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường. Ví dụ: Hiệp hội trọng tài Mỹ, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản, Tòa án trọng tài quốc tế Luân Đôn.
Ở Việt Nam, trong giai đoạn này tồn tại hai mô hình trọng tài khác nhau, cụ thể là Hội đồng trọng tài ngoại thương và Trung tâm trọng tài kinh tế.
Hội đồng trọng tài ngoại thương
Năm 1963, Hội đồng trọng tài ngoại thương ra đời bằng Nghị định 59/CP ngày 30/4/1963 của Hội đồng Chính phủ về việc thanh lập Hộ đồng trọng tài ngoại thương. Tiếp sau sự ra đời của Hội đồng trọng tài ngoại thương là sự ra đời của Hội đồng trọng tài hàng hải khi Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định 153/CP ngày 5/10/1964 về việc thành lập Hội đồng trọng tài hàng hải. Hai tổ chức trọng tài trên có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong mua bán ngoại thương và hoạt động hàng hải có ít nhất một bên là chủ thể nước ngoài. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải được hợp nhất lại và đổi tên thành Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam (VIAC) đặt bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam bởi Quyết định 204-TTg ngày 28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.
Trung tâm trọng tài kinh tế
Hàng loạt các trung tâm trọng tài kinh tế ra đời sau khi Nghị định 116/CP Nghị định 116/CP ngày 5 tháng 9 năm 1994 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế.
có hiệu lực. Có năm trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị định này: 02 trung tâm trọng tài tại thành phố Hà Nội, 01 trung tâm trọng tài tại thành phố Hồ Chí Minh, 01 trung tâm trọng tài tại thành phố Cần Thơ và 01 trung tâm trọng tài tại tỉnh Bắc Giang).
Như vậy, tuy các trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị định 116/CP mang bản chất là hình thức trọng tài phi Chính phủ, nhưng lại chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản khác nhhau. Cụ thể, VIAC hoạt động theo Quyết định 204/TTg, còn 05 trung tâm trọng tài lại được thành lập và hoạt đọng theo quy định của Nghị định 116/CP. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật điều chỉnh ở giai đoạn này đều có giá trị pháp lý thấp, mới dừng ở mức cao nhất là Nghị định. Nội dung văn bản còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ và chưa có cơ chế bảo đảm cần thiết để hành hành có hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng do cơ bản là do được ban hành trong bối cảnh nước ta đang chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì đây là một khái niệm hoàn toàn mới, chưa hề có trong thực tiễn Việt Nam. Đã có thời chúng ta loay hoay với những khái niệm như thế nào là trọng tài kinh tế, trọng tài thương mại, tiêu chí nào để xác định đó là tranh chấp khinh tế, tranh chấp kinh doanh hay tranh chấp thương mại TS. Dương Văn Hậu: Một số vấn đề và lý luận và thực tiễn của trọng tài thương mại Việt Nam, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật.
… Thêm vào đó, các văn bản pháp luật về trọng tài, chưa đề cập đến các chế định cơ bản của trọng tài như: vấn đề thỏa thuận trọng tài, sự hỗ trợ cần thiết của Cơ quan tư pháp… Hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực thương mại chưa đồng bộ, chưa điều chỉnh kịp thời các quan hệ thương mại phát sinh trong thực tiễn.
Giai đoạn từ khi Pháp lệnh trọng tài thương mại có hiệu lực
Pháp lệnh trọng tài thương mại được Quốc hội thông qua ngày 25/3/2003 và có hiệu lực ngày 1/7/2003, sau sáu năm chuẩn bị, soạn thảo trên mười dự thảo, tiến hành nhiều hội thảo lấy ý kiến. Sự ra đời của Pháp lệnh là một bước hoàn thiện đáng kể pháp luật về trọng tài thương mại ở nước ta. Về cơ bản Pháp lệnh đã khắc phục được những khiếm khuyết, hạn chế trong các quy định của pháp luật tròng tài thương mại mà theo đánh giá của nhiều nhà nguyên cứu chính những khiếm khuyết, hạn chế đó là nguyên nhân chủ yếu làm giảm sút đáng kể sự hấp dẫn của chế định trọng tài trong thực tiễn giải quyết tranh chấp nảy sinh trong quá trình kinh doanhTS. Nguyễn Thái Phúc: Một số ý kiến về Pháp lệnh trọng tài thương mại, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003.
. Trong bối cảnh Pháp lệnh được ban hành vào thời điểm Luật Thương mại 1997 vẫn đang có hiệu lực nhưng các nhà lập pháp đã mạnh dạn đưa khái niệm thương mại theo hướng mở, tương thích với Luật mẫu về trọng tài Thương mại UNICITRAL, mà không “bó buộc” trong 14 hành vi quy định trong Luật Thương mại 1997. Đây được coi là bước “đột phá” trong công tác lập pháp vào thời điểm này. Có thể nói, PLTTTM 2003 đã khắc phục hầu hết các bất cập trong các quy định trước đây đặc biệt là các quy định về sự hỗ trợ, giám sát của Tòa án, Cơ quan thi hành án trong quá trình giải quyết tranh chấp và thi hành quyết định trọng tài. Vấn đề này đã góp phần là cho các doanh nghiệp tin tưởng lựa chọn và sử dụng trọng tài nhiều hơn.
Sự hình thành và phát triển của trọng tài từ khi Luật trọng tài thương mại 2010 có hiệu lực cho đến nay:
Qua gần 10 năm thực hiện, PLTTTM 2003 đã bộc lộ không ít hạn chế, bất cập và cần được khắc phục kịp thời. Những vấn đề cần được xem xét hoàn thiện như: thỏa thuận