Để đạt được những thành tựu to lớn và những bước tiến vượt bậc những thay
đổi đó là bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế nước ta đó chính là
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Từ đất nước có nền kinh tế tiểu nông và nghèo nàn vậy để xoá bỏ đói nghèo
lạc hậu và trở thành một đất nước có nền kinh tế phát triển thì sự tất yếu là phải đổi
mới phải công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Tại đại hội Đảng lần thứ VIII Đảng ta đã khẳng định “Xây dựng đất nước
thành một nước công nghiệp hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đời sống vật chất
và tinh thần cao. Có như vậy thì quốc phòng an ninh mới vững chắc, dân giầu nước
mạnh xã hội công bằng văn minh. Mục tiêu đó là sự cụ thẻ hoá về học thuyết Mác –
Lênin về hình thái kinh tế – xã hội và hoàn cảnh ở Việt Nam. Đó cũng chính là mục
tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta.
15 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1837 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Mục tiêu công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Mục tiêu công nghiệp hoá - hiện
đại hoá ở nước ta
A. Giới thiệu đề tài
Để đạt được những thành tựu to lớn và những bước tiến vượt bậc những thay
đổi đó là bước ngoặt lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế nước ta đó chính là
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Từ đất nước có nền kinh tế tiểu nông và nghèo nàn vậy để xoá bỏ đói nghèo
lạc hậu và trở thành một đất nước có nền kinh tế phát triển thì sự tất yếu là phải đổi
mới phải công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Tại đại hội Đảng lần thứ VIII Đảng ta đã khẳng định “Xây dựng đất nước
thành một nước công nghiệp hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đời sống vật chất
và tinh thần cao. Có như vậy thì quốc phòng an ninh mới vững chắc, dân giầu nước
mạnh xã hội công bằng văn minh. Mục tiêu đó là sự cụ thẻ hoá về học thuyết Mác –
Lênin về hình thái kinh tế – xã hội và hoàn cảnh ở Việt Nam. Đó cũng chính là mục
tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta.
B. Nội dung
I. Nhận định của Mác và Lênin về hình thái kinh tế xã hội
Có nhiều cách tiếp cận và nghiên cứu lịch sử phát triển kinh tế xã hội từ trước
thời Mác với những ý tưởng khác nhau và nhận thức khác nhau. Chẳng hạn theo nhà
duy tâm Hê - ghen (1770-18361) phân chia xã hội thành 3 thời kỳ: phương đông, cổ
đại và Gree –ma-ni. Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng của giai đoạn mông muội –
dã man – gia tưởng và văn minh. Mỗi ý tưởng đều có điểm hợp lý nhất định nhưng
chưa đánh giá được một cách tổng thể còn có hạn chế.
Nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật để nghiên
cứu lịch sử xã hội một cách tổng thể đó là duy vật lịch sử và hình thái kinh tế xã hội.
Nó là biểu hiện tập chung về duy vật lịch sử, lý luận về hình thái kinh tế xã hội
nghiên cứu lịch sử trên cơ sở lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng, tức là tất cả các yếu tố cấu thành: kinh tế, chính trị, văn hoá
xã hội và khoa khọc kỹ thuật ... Học thuyết của Mác đã cho ta nhận biết rõ hơn về
quá trình phát triển của lịch sử tự nhiên theo trật tự từ thấp đến cao. Xã hội nguyên
thuỷ, chiếm hữu nô lệ phong kiến, tư bản và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đó chính là sự phát triển và diệt vong của mỗi giai đoạn, cái cũ lạc hậu sẽ mất
đi và xuất hiện một phương thức sản xuất mới hoàn thiện hơn để thay thế. Đó là sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng.
1. Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Vậy lực lượng sản xuất là quan hệ con người với tự nhiên là sự chinh phục tự
nhiên của con người qua từng giai đoạn. Lực lượng sản xuất quyết định phương thức
sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất thể hiện
ở sự sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý, trao đổi và phân phối sản phẩm trong
đó sở hữu tư liệu sản xuất quyết định các quan hệ khác. Quan hệ sản xuất do con
người tạo ra song nó hình thành một cách khách quan không phụ thuộc yếu tố chủ
quan của con người.
Quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất biểu hiện:
Sản xuất vật chất không ngừng phát triển bao giờ cũng bắt đầu bằng sự phát
triển của lực lượng sản xuất trước hết là công cụ phát triển dẫn đến mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất đòi hỏi sự khách quan. Xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay thế bằng
quan hệ sản xuất mới.
Quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất (phù hợp)
nhưng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (tương đối ổn định) thì
quan hệ sản xuất lại kìm hãm lực lượng sản xuất (không phù hợp). Phù hợp và không
phù hợp đó là khách quan và phổ biến ở mọi phương thức sản xuất. Mác đã dùng mối
quan hệ này như “Quan hệ song trùn” giưa 2 “Sự trao đổi chất” con người với tự
nhiên, (lực lượng sản xuất ) và con người với con người là (quan hệ sản xuất ) quan
hệ biện chứng này được Mác và Ăngghen.
Đây là một quy luật cơ bản chỉ rõ động lực và xu thế phát triển của lịch sử.
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu lao động khi công cụ được sử
dụng bởi một cá thể để sản xuất thì đó là sản xuất cá nhân, khi nhiều người sử dụng
một máy móc thiết bị hiện đại để sản xuất thì sản xuất mang tính xã hội.
Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở khoa học kỹ thuật, phân công lao
động, quản lý và phân phối... quyết định sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản
xuất. Như Mác nói “cái cối xay = tay cho xã hội Tư bản”. Để nâng cao hiệu quả sản
xuất tiết kiệm sức lao động con người thì cần có trình độ khoa học, thiết bị kỹ thuật
hiện đại. Từ đó đòi hỏi quan hệ sản xuất phải thích ứng với môi trường nếu không nó
sẽ kìm hãm, phá hoại lực lượng sản xuất. Biểu hiện này là biểu hiện giai cấp đối
kháng.
Lịch sử chứng minh sự phát triển của lực lượng sản xuất loại người đã trải qua
4 giai đoạn theo đó là 4 cuộc cách mạng dẫn đến sự ra đời hình thái kinh tế xã hội.
Để trống lại thiên nhiên con người hợp nhau lại theo cộng đồng đó là xã hội nguyên
thuỷ. Công cụ bằng kim loại thay thế đồ đá lực lượng sản xuất phát triển sẽ mở sản
phẩm thặng dư ra đời sản xuất tư hữu chiếm hữu nô lệ. Mâu thuẫn gay gắt nô lệ và
chủ nô sự ra đời của giai cấp phong kiến. Lực lượng sản xuất dần mang nhiều yếu tố
xã hội tô tiến thay thế tô hiện vật, tô lao dịch quan hệ sản xuất phong kiến chật hẹp bị
thay thế bằng sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự tiến bộ về khoa khọc kỹ thuật, người dân
có trí thức và chuyên môn dẫn đến mâu thuẫn gay gắt chế độ sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa giải quyết vấn đề này đòi hỏi quan hệ sản xuất mới quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa. Theo Mác “Do có lực lượng sản xuất mới loài người phát triển sản xuất
cho mình, làm ăn cho mình và quan hệ cho mình”
“Quan hệ sản xuất bị chi phối bởi lực lượng sản xuất nhưng cũng có những tác
động nhất định với lực lượng sản xuất, khi phù hợp với lực lượng sản xuất nó thúc
đẩy lực lượng sản xuất. Sự phù hợp thể hiện ở nội dung cả 3 mặt của quan hệ sản
xuất thích ứng với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phải
tạo được điều kiện sản xuất và kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động đảm bảo trách
nhiệm từ sản xuất mở rộng, mở ra sau những điều kiện thích hợp cho việc kích thích
vật chất tinh thần.
Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là
quy luật chung của sự phát triển xã hội.
2. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tâng gồm quan hệ sản xuất đang giữ vị trí thống trị nền kinh tế nhóm
quan hệ sản xuất tần dư và quan hệ sản xuất mới là mầm mống quan hệ sản xuất sau.
Kiến trúc thượng tầng hình thành trên tổng hợp quan hệ sản xuất hợp thành cơ
cấu kinh tế chế độ xã hội, cơ sở hạ tầng là toàn bộ tư tưởng xã hội, chính trị, đạo đức
tôn giáo....
ở xã hội bao giờ cũng có đối kháng giai cấp nảy sinh từ cơ sở hạ tầng. Mâu
thuẫn kinh tế và xung đột kinh tế nảy sinh từ kiến trúc thượng tầng đó là sự đối kháng
giai cấp. Giai cấp thống trị kinh tế sẽ thống trị chính trị và thiết lập cả sự thống trị tư
tưởng với xã hội, tất cả đó là quan hệ của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng thể hiện ở các mặt:
Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó. Mâu thuẫn trong xã hội xuất
phát trực tiếp và gián tiếp từ cơ sở hạ tầng từ đó tạo ra kiến trúc thượng tầng tương
ứng.
Cơ sở hạ tầng thay đổi dẫn đến sự thay đổi kiến trúc thượng tầng qua đó xã
hội chuyển từ hình thái này sang hình thái khác đương nhiên trong đó còn giữ lại một
số kiến trúc thượng tầng gắn liền với cơ sở kinh tế nảy sinh từ nó.
b. Tính độc lập tương đối của kiến trúc thượng tầng và tác động trở lại với cơ
sở hạ tầng:
Kiến trúc thượng tầng không chỉ phụ thuộc một chiều vào cơ sở hạ tầng mà
còn có tác động qua lại giữa chúng và sự ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng kiến trúc
thượng tầng cũ.
Kiến trúc thượng tầng ngày một tăng lên tác động mạnh đến tiến trình lịch sử.
Trong tư bản chủ nghĩa thì kiến trúc thượng tầng áp đảo cơ sở hạ tầng trong xã hội
chủ nghĩa kiến trúc thượng tầng bảo vệ cơ sở hạ tầng xây dựng xã hội mới kiến trúc
thượng tầng xã hội chủ nghĩa.
Tác động qua lại kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng sẽ có 2 mặt đối lập.
Nếu nó phù hợp thì sẽ thúc đẩy phát triển của xã hội nếu kiến trúc thượng tầng là cơ
sở của nền kinh tế lỗi thời nó sẽ kìm hãm kinh tế xã hội tuy nhiên nó sớm muộn sẽ bị
diệt vong thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới phù hợp hơn.
II. công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Hình thái kinh tế xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
ở Việt Nam, tình tất yếu và thực trạng của nước ta trong công cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế xã hội – xã hội chủ nghĩa.
1. Hình thái kinh tế xã hội là tất yếu.
Như đã nêu trrên loài người đã trải qua 5 thời kỳ hình thái kinh tế qua mỗi
hình thái như vậy một hình thái mới tiến bộ và văn minh hơn hình thái cũ.
Một hình thái kinh tế xã hội, tồn tại được thì chúng cũng phải có mặt tốt của
nó mà chúng ta không thể phủ nhận nhưng cũng không chấp nhận mặt yếu kém và
thô thiển của nó. Đâu tiên là hình thái kinh tế tự nhiên xã hội nguyên thuỷ đặt nền
mòng cho sự phát triển của lịch sử loài người nhưng con người còn hoang dã chỉ
sống phụ thuộc vào tự nhiên chưa biết sản xuất và chăn nuôi. Xã hội chiếm hữu nô lệ
biết tích luỹ của cải cho xã hội nhưng mối quan hệ của chế độ này là hoàn toàn bóc
lột nô lệ là công cụ của chủ nô. Sang chế độ phong kiến thì vẫn còn bóc lột nhưng
được tự do hơn. Sự ra đời của sản phẩm thặng dư là sự ra đời của tư bản chủ nghĩa
nhưng bóc lột sự phát triển thựng dư là bóc lột một tinh vi nhất mặc dù vậy tư bản
chủ nghĩa tạo ra tất nhiều của cải không những vậy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
không còn là sản xuất Nông nghiệp mà con người đã tiếp cận với công nghiệp, những
thành tựu khoa học kỹ thuật, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Mặc dù
vậy thì sản phẩm phân bổ không công bằng sự đối kháng giữa 2 giai cấp bóc lột và bị
bóc lột nảy sinh. Từ đó phải có nền văn minh đảm bảo công bằng cho xã hội.
Hình thái kinh tế chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội bước đầu vừa phát huy
thành quả của chủ nghĩa tư bản đồng thời khắc phục mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
Đây là hình thái kinh tế đỉnh cao của văn minh loài người, một hình thái, một xã hội
mà quyền lực trong tay mọi người, tất cả phục vụ lợi ích chung, tất cả đều bình đẳng
không còn bóc lột. Quan hệ sản xuất đựơc xây dựng trên cơ sở của lực lượng sản
xuất và phát triển cao cơ sở hạ tầng phụ hợp kiến trúc thượng tầng.
Đi lên chủ nghĩa xã hội nhân loại đã được chứng kiến một quốc gia, một dân
tộc do điều kiện lịch sử của mình đã bỏ qua 1,2 giai đoạn nào đó để tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội. Một xã hội tuyệt đỉnh đó chính là văn hoá. Song văn hoá là một
nước có một nền kinh tế tiểu nông vì vậy muốn thoát khỏi nghèo nàn để trở thành
một quốc gia có nền kinh tế phát triển thì nước ta cần công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước.
2. Mục đích của công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Đại hội Đảng lần VIII Đảng ta khẳng định xây dựng đất nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở kỹ thuật hiện đại. Cơ cấu kinh tế lập hiến quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
và tinh thần cao quốc phòng an ninh vững chắc, dân giầu nước mạnh xã hội công
bằng văn minh. Nước ta chuyển sang thời kỳ mới thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện đang là mục tiêu của toàn thế giới.
Đối với nước ta theo tư tưởng cơ bản của học thuyết Mác về hình thái kinh tế
nhận thức một cách khoa học và sâu sắc về cơ sở lý luận của công nghiệp hoá - hiện
đại hoá ở nước ta là tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại thay thế cho nền kinh tế Nông
nghiệp lạc hậu, quá trình dịch chuyển kinh tế gắn với đổi mới, về công nghiệp tạo
nền tàng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và lâu bền cho nền kinh tế quốc doanh.
Vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất bên cạnh đó xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Đặc biệt là xây dựng Nhà nước chủ nghĩa xã hội do dân và vì dân
3. Kinh tế Việt Nam những khó khăn của công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Những nhận thức sai lầm về công nghiệp hoá của quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cuối những năm 70 khủng hoảng kinh tế xã hội với khó khăn lạm phát phi mã. Khi
đó là do tư duy lý luận lạc hậu, lý luận giữa thực tiễn và tư duy cũ cách quá xa. Công
nghiệp hoá - hiện đại hoá theo mô hình tập trung quan liêu bao cấp dẫn đến sự trí tuệ,
ỷ lại, lười nhác phụ thuộc vào Nhà nước, lợi dụng sơ hở mưu lợi cá nhân, đục nước
béo cò. Dẫn đến không có sự cạnh tranh, không công phát minh sáng kiến chậm học
hỏi....
Sản phẩm không đủ chất và lượng càng dẫn đến lạm phát kìm hãm sự phát
triển đất nước. Dựa trên cơ sở lý luận khoa khọc là sự vượt trượt kiến trúc thượng
tầng với cơ sở hạ tầng.
Điều mà chúng ta đã mắc sai lầm là vì chúng ta rút ngắn thời kỳ quá độ, tuyệt
đối hoá nhân tố chủ quan chưa thật sự thấu đáo về công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa và công nghiệp hoá - hiện đại hoá dẫn đến kìm hoãm nền kinh tế, vay nợ, lạm
phát trầm trọng. Đó là do tư tưởng chủ quan duy ý chí nông nổi đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Cụ thể: Về Nông nghiệp lạc hậu làm lãng phí đâta, sức lao động, thiếu thốn
lương thực do nông dân chây lười ỷ lại, công cụ lạc hậu thô sơ từ đó ảnh hưởng đến
nền công nghiệp nước nhà.
4. Những giải pháp.
Để thực hiện tốt mục tiêu mà Đảng đã đề ra là công nghiệp hoá - hiện đại hoá
làm cho xã hội công bằng văn minh, chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội thì đi đôi với
củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất thì nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất.
Không chỉ dựa vào năng suất của Nông nghiệp mà còn phải phát triển mạnh cả công
nghiệp với công nghệ hiện đại, kỹ thuật cao quan trọng nữa là học thức của nhân dân
những người lao động có như vậy thì mới có thể hiện đại hoá nền kinh tế.
Rút kinh nghiệm từ những năm đầu đổi mới Đảng ta đã nhận thức một cách
đúng đắn hơn “không thể nhảy vọt khi chưa đựơc chuẩn bị đầy đủ. Phải luôn hướng
về học thuyết kinh tế xã hội của Mác.được đây mới là giai đoạn đầu của thời kỳ quá
độu lên chủ nghĩa xã hội và để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá phải có
những phù hợp hơn đúng đắn hơn. Tất cả xuất phát từ thực trạng những điều kiện và
thuận lợi trước mắt.
5. Những thuận lợi.
Nhờ chuyển giao công nghệ nên ta chỉ việc ứng dụng những thành tựu khoa
học công nghệ có thể chọn công nghệ mới phù hợp để phát triển.
Ta có những bài học từ các nước đi trước để tránh sai lầm.
Để hợp tác để tiến hành công nghiệp hoá chúng ta có một lực lượng lao động
dồi dào con người chúng ta có một chí thông minh sáng tạo tuyệt vời cộng với sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước.
6. Đường lối cụ thể của Nhà nước về công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Quán triệt quan điểm thực tiễn cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn của Mác – Lênin. Mục tiêu mà Đảng VIII đề ra là sự
hoà hợp cụ thể thống nhất về hình thức kinh tế xã hội. Luôn đúng đắn sáng tạo mối
quan hệ cơ bản, bản chất giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng. Sự đổi mới phức tạp phải có khoa khọc soi sáng. Thực tiễn
là cơ sở nhận thức của lý luận. Qua thực tiễn rồi mới có cơ sở để khẳng định thành lý
luận. Trong thời hiện đại mọi sự phát triển đều chịu sự tác động mạnh mẽ của khoa
khọc xã hội vì vậy con đường ngắn nhất để đuổi kịp các nước có nền kinh tế phát
triển là phải công nghiệp hoá gắn liền với giao thông công nghệ.
Đại hội Đảng khoá VII Đảng và Nhà nước ta đã có những nhận định đúng đắn
về vấn đề này như sau “trong xu hướng quốc tế hoá sản xuất và đồi sống khoa khọc
phải gắn liền với hiện đại hoá, nâng cao trình độ công nghệ... tận dụng thế của nước
đi sau chúng ta tập trung hết cho việc tiếp thu những thành tựu khoa khọc thế giới.
Nổ lực thúc đẩy những ngành mũi nhọn những điểm manh, tạo lợi thế cho
việc cạnh tranh cả về kinh tế cũng như về công nghệ cho sự phát triển nhanh và vững
chắc của nền kinh tế. Chuyển giao công nghệ, nhập công nghệ hiện đại đi đôi với
việc phát triển nội sinh là biện pháp hữu hiệu để cho nền kinh tế nước nhà hoà nhập
với nền kinh tế thế giới.
Đảng đưa ra một số giải pháp hữu hiệu trong công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào qua con đường trao đổi và mua
bán thị trường thế giới. Kênh chuyển giao công nghệ còn đươc thực hiện dưới hình
thức trao đổi thị trường, đào tạo huấn luyện các cán bộ khoa khọc, nhân viên kỹ thuật
công nhân lành nghề. Song phải có trình độ đầu tư cao, ham hiểu biết đảm bảo tốt
tích luỹ đầu tư trong nước, xuất nhập khẩu công nghệ phải tương đối cân bằng. Nâng
cao năng lực quản lý vĩ mô.
7. Những điểm thực tế của công nghiệp hoá - hiện đại hoá
a. Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế mới.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá không đơn thuần là sự phát triển mạnh mẽ của
ngành công nghiệp mà còn là quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế phù hợp với sự đổi
mới cơ bản về kinh tế và hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc doanh cụ thể là:
Đầu tiên là chuyển đổi cơ cấu công nông nghiệp và dịch vụ, phù hợp với kinh
tế thời mở cửa.
Hướng dịch chuyển đó là các ngành dịch vụ tăng nhanh, tỷ lệ sản lượng chiếm
phần lớn trong GDP .. tỷ trọng giá trị sản lượng Nông nghiệp giảm nhưng tỷ trọng
xuất hàng năm tăng. Nông nghiệp vẫn là hàng mũi nhọn khuyến khích đầu tư công
nghệ kỹ thuật cho sản phẩm Nông nghiệp phù hợp với sinh thái nước ta. Công nghiệp
hình thành một số ngành có công nghệ hiện đại hiệu quả kinh tế coa các ngành thuộc
kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước (than, dầu khí, thuỷ hải sản...). Nâng cao
trình độ và năng lực các ngành kỹ thuật, Ngân hàng và viễn thông. Giảm bớt một số
ngành không có nhiều triển vọng.
b. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá Nông nghiệp nông thôn:
Nước ta phân hoá là người dân làm Nông nghiệp, sản phẩm Nông nghiệp là
thế mạnh của nước ta hiện nay vì vậy cần có những nước đầu tư thích đáng.
áp dụng khoa khọc kỹ thuật vào Nông nghiệp, chọn giống phù hợp với điều
kiện sinh thái, chế biến tiêu thụ rau quả, phát triển ngành công nghiệp nhẹ có liên
quan như công cụ nhà nông, thuốc trừ sâu không độc hại.
Mạnh mẽ đầu tư cho nông dân vay vốn. Thu gom sản phẩm Nông nghiệp để
xã hội khuyến khích người lao động.
c. Xây dựng mới kết cấu hạ tầng kinh tế:
Kết cấu hạ tầng là nền móng cho một nền kinh tế phát triển. Cần đảm bảo cho
một cơ sở hạ tầng vững chắc để bước vào một trang sử mới của thời đại công nghiệp
hoá - hiện đại hoá. Hệ thống giao thông vận tải cần được nâng cấp, hiện đại hoá hệ
thống viễn thông điện khí hoá, cung cấp nước sạch cho nhân dân cụ thể, xây dựng
quốc lộ 1A, nhà máy thuỷ điện Hoà bình, gang théo Thái Nguyên, Xi măng Bỉm
sơm. Xây dựng trung tâm đại học, y tế thể dục, thể thao quốc gia....
d. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần:
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi sự tham gia của các thành phần kinh tế
sau những năm nước ta có chính sách mở cửa. Nền kinh tế của nước ta cộng với
những chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước đã cạnh tranh nhau tạo sự
phát triển có hiệu quả đẩy nước ta lên nấc thang công nghiệp hoá - hiện đại hoá xây
dựng đất nước xã hội chủ nghĩa.
C: Kết luận
Đất nước ta được ví như con rồng châu á cũng hoàn toàn không phải là sai hay
nói quá chỉ có điều con Rồng đó đang chuyển mình. Có nghĩa là cần công nghiệp hoá
- hiện đại hoá để có con Rồng kinh tế Việt Nam có được những thành tựu về phát
triển khoa khọc để con rồng ấy vươn mình lên tầm thế giới.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là vấn đề rất khó khăn và đa dạng vì vậy rất dễ
bị mắc bệnh chủ quan duy ý chí vì vậy đòi hỏi chúng ta phải sáng suôtài sản, linh
hoạt trong sự đổi