Nói đến thị trường chứng khoán (TTCK), người ta thường nghĩ ngay đến thị trường thứ cấp hoặc Sở Giao dịch chứng khoán, mà rất ít khi đề cập đến thị trường sơ cấp. Tuy nhiên, trên thực tế, thị trường sơ cấp lại là một bộ phận không thể tách rời của thị trường chứng khoán. Hơn thế nữa, nó là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán. Tính chất và quy mô của thị trường sơ cấp sẽ quy định phạm vi và tính chất của thị trường thứ cấp. Chính vì vậy, để phát triển thị trường chứng khoán, công việc đầu tiên và vô cùng quan trọng là xây dựng và phát triển thị trường sơ cấp.
Khác với thị trường thứ cấp là nơi các chứng khoán được mua bán lại, thì thị trường sơ cấp là thị trường mua bán lần đầu các chứng khoán, vì vậy thị trường sơ cấp còn có tên gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành với sự tham gia của các công ty chứng khoán
Là một ngân hàng thương mại quốc doanh lớn của Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNO&PTNT VN) không ngừng thực hiện việc chuyển đổi hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường. Từ khi có chủ trương của Nhà nước về xây dựng TTCK ở Việt Nam, nhận thức được vai trò của TTCK trong nền kinh tế nói chung và với hoạt động của ngân hàng nói riêng, các nhà lãnh đạo NHNO&PTNT VN đã xác định chủ trương tham gia TTCK.
77 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2834 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng khoán NHNO&PTNT Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Nói đến thị trường chứng khoán (TTCK), người ta thường nghĩ ngay đến thị trường thứ cấp hoặc Sở Giao dịch chứng khoán, mà rất ít khi đề cập đến thị trường sơ cấp. Tuy nhiên, trên thực tế, thị trường sơ cấp lại là một bộ phận không thể tách rời của thị trường chứng khoán. Hơn thế nữa, nó là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán. Tính chất và quy mô của thị trường sơ cấp sẽ quy định phạm vi và tính chất của thị trường thứ cấp. Chính vì vậy, để phát triển thị trường chứng khoán, công việc đầu tiên và vô cùng quan trọng là xây dựng và phát triển thị trường sơ cấp.
Khác với thị trường thứ cấp là nơi các chứng khoán được mua bán lại, thì thị trường sơ cấp là thị trường mua bán lần đầu các chứng khoán, vì vậy thị trường sơ cấp còn có tên gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành với sự tham gia của các công ty chứng khoán
Là một ngân hàng thương mại quốc doanh lớn của Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNO&PTNT VN) không ngừng thực hiện việc chuyển đổi hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường. Từ khi có chủ trương của Nhà nước về xây dựng TTCK ở Việt Nam, nhận thức được vai trò của TTCK trong nền kinh tế nói chung và với hoạt động của ngân hàng nói riêng, các nhà lãnh đạo NHNO&PTNT VN đã xác định chủ trương tham gia TTCK.
Chính vì vậy, ngày 20/12/2000 công ty chứng khoán NHNO&PTNT đã chính thức ra đời và đi vào hoạt động. Cho đến ngày hôm nay, cùng với những bước thăng trầm của thị trường, Công ty chứng khoán NHNO&PTNT ngày càng chứng tỏ vị thế của mình trong khối các công ty chứng khoán trên mọi lĩnh vực hoạt động. Nhằm mục đích nâng cao chất lượng hoạt động của công ty, đặc biệt là trong nghiệp vụ bảo lãnh, đại lý phát hành tạo điều kiện cho sự phát triển thị trường sơ cấp nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung, trong thời gian thực tập tại công ty chứng khoán NHNO&PTNT VN em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Nâng cao chất lượng bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng khoán NHNO&PTNT VN”.
Đề tài của em được nghiên cứu theo cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về chất lượng bảo lãnh phát hành của Công ty chứng khoán
Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty chứng khoán NHNO&PTNT VN
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh phát hành tại công ty chứng khoán NHNO&PTNT VN
Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Trần Đăng Khâm đã nhiệt tình hướng dẫn giúp đỡ em trong quá trình định hướng và viết đề tài Chuyên đề thực tập. Em xin cảm ơn các phòng ban của công ty, đặc biệt Phòng Phân tích và Kinh doanh đã tạo điều kiện giúp đỡ và cung cấp số liệu giúp em hoàn thành báo cáo.
CHƯƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm công ty chứng khoán
1.1.1.1 Khái niệm công ty chứng khoán
Mục tiêu của việc hình thành thị trường chứng khoán là thu hút vốn đầu tư dài hạn cho việc phát triển kinh tế và tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Do vậy, để thúc đẩy thì trường chứng khoán hoạt động một cách có trật tự, công bằng và hiệu quả cần phải có sự ra đời và hoạt động của các công ty chứng khoán. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán thế giới cho thấy thời tiền sử của thị trường chứng khoán, các nhà môi giới hoạt động cá nhân độc lập với nhau. Sau này, cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, chức năng và quy mô hoạt động giao dịch của các nhà môi giới tăng lên đòi hỏi sự ra đời của các công ty chứng khoán là sự tập hợp có tổ chức của các nhà môi giới riêng lẻ.
Theo quyết định số 27/2007 của Bộ Tài chính về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán thì công ty chứng khoán được định nghĩa là “tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán, bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán.”
Căn cứ vào loại hình kinh doanh chứng khoán nhất định mà công ty chứng khoán thực hiện, người ta có thể chia công ty chứng khoán thành các loại sau:
Công ty môi giới chứng khoán: là công ty chứng khoán chỉ đơn thuần thực hiện lệnh mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng phí.
Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: bảo lãnh phát hành chứng khoán là nghiệp vụ hoạt động chính của công ty chứng khoán và họ sẽ thu phí hoặc hưởng chênh lệch giá từ hoạt động này.
Công ty kinh doanh chứng khoán: là loại công ty chứng khoán dùng chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự doanh, có nghĩa là tự bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh.
Công ty trái phiếu: là công ty chứng khoán chuyên mua bán các loại trái phiếu
Công ty chứng khoán không tập trung: là các công ty chứng khoán hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và đóng vai trò là nhà tạo là nhà tạo lập thị trường.
1.1.1.2. Đặc điểm của công ty chứng khoán
Là một chủ thể kinh doanh, công ty chứng khoán cũng có những đặc điểm tương đồng với tổ chức và hoạt động của các công ty khác nói chung. Tuy nhiên, do đặc thù của mình công ty chứng khoán có một số điểm đặc biệt sau:
Thứ nhất, công ty chứng khoán đóng vai trò là một trung gian tài chính. Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, không phải tự họ đi bán số chứng khoán mà họ định phát hành. Họ không thể làm tốt được việc đó bởi họ không có bộ máy chuyên môn. Cần có những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán cho họ. Đó là các công ty chứng khoán, với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, và bộ máy tổ chức thích hợp, thực hiện được vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành. Các công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà các cổ phiếu và trái phiếu được lưu thông buôn bán tấp nập trên thị trường chứng khoán, và qua đó, một lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ việc tập hợp những nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng. Mặt khác, do thông tin bất cân xứng trên thị trường nên các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường luôn mắc phải tình trạng thiếu thông tin và gặp phải nhiều rủi ro trong giao dịch mua bán. Với vai trò là một trung gian tài chính chuyên nghiệp, công ty chứng khoán giúp các nhà đầu tư; các tổ chức, cá nhân tiếp cận được nguồn thông tin nhanh hơn, rẻ hơn, chính xác hơn và hạn chế những rủi ro trong kinh doanh chứng khoán.
Thứ hai, hoạt động của công ty chứng khoán là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Xuất phát từ nhiều mâu thuẫn lợi ích trên thị trường, như xung đột lợi ích giữa công ty chứng khoán với nhà đầu tư, xung đột lợi ích giữa công ty chứng khoán với cán bộ nhân viên cho nên hoạt động nói chung của công ty chứng khoán phải chịu ràng buộc của nhiều điều kiện, quy tắc. Theo quy định của Việt Nam, để thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, công ty chứng khoán phải đáp ứng một số yêu cầu như:
Điều kiện về vốn
Nghiệp vụ
Quy định cũ
(NĐ 144/2003)
Quy định mới
(NĐ 14/2007)
Môi giới
3 tỷ VND
25 tỷ VND
Tự doanh
12 tỷ VND
100 tỷ VND
Bảo lãnh phát hành
22 tỷ VND
165 tỷ VND
Tư vấn đầu tư
3 tỷ VND
10 tỷ VND
Quản lý danh mục đầu tư
3 tỷ VND
-
Tư vấn tài chính+ lưu ký
-
-
Tổng cộng
43 tỷ VND
300 tỷ VND
Điều kiện về nhân lực
Có đủ số nhân viên có chứng chỉ hành nghề
Giám đốc (TGĐ)
Nhân viên nghiệp vụ
Điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề
Có trình độ đại học
Có các chứng chỉ đào tạo về chứng khóan
Vượt qua kỳ thi sát hạch của Uỷ Ban Chứng Khoán
Làm việc cho một công ty chứng khoán
Thứ ba, hoạt động của công ty chứng khoán thường xuyên bị kiểm tra, kiểm soát. Thị trường chứng khoán là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn tới môi trường đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung. Mặt khác, thị trường chứng khoán là một thị trường cao cấp, nơi tập trung của nhiều đối tượng tham gia với các mục đích, sự hiểu biết và lợi ích khác nhau; các giao dịch các sản phẩm tài chính được thực hiện với giá trị rất lớn. Đặc tính đó khiến cho thị trường chứng khoán cũng là môi trường dễ xảy ra các hoạt động kiếm lời không chính đáng thông qua các hoạt động gian lận, không công bằng, gây tổn thất cho các nhà đầu tư; tổn thất cho thị trường và cho toàn bộ nền kinh tế. Với khả năng về vốn, thông tin, kinh nghiệm… các hoạt động xấu của công ty chứng khoán có thể gây ra ảnh hưởng rất nghiêm trọng cho sự phát triển của thị trường.
Thứ tư, đặc điểm về vốn- tài sản. Công ty chứng khoán không được phép huy động tiền gửi. Ngoài ra, trong quá trình kinh doanh Công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh, ngoại trừ trường hợp số tiền đó dùng phục vụ cho giao dịch của khách hàng. Công ty chứng khoán phải tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với tài sản của mình. Công ty chứng khoán không được dùng chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp để vay vốn trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản. Về tài sản, tài sản của Công ty chứng khoán chủ yếu là tài sản tài chính gồm có: cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chính phủ,… có đặc điểm là giá trị không ổn định và dễ thay đổi.
Thứ năm, đặc điểm về sản phẩm cung cấp. Công ty chứng khoán cung cấp các sản phẩm dịch vụ đặc trưng đó lầ các sản phẩm dịch vụ tài chinh. Chúng có đặc điểm chung là:
Sản phẩm không có tính hữu hình
Là kết quả của quá trình nghiên cứu, thu thập thông tin hay là kết quả của hoạt động trí tuệ
Sản phẩm có chu kỳ sống ngắn không ổn định
Sản phẩm dễ bị đánh cắp và sao chép
Cạnh tranh nhau chủ yếu ở chất lượng dịch vụ.
Cuối cùng, về tổ chức- hoạt động. Mô hình tổ chức kinh doanh của công ty chứng khoán ở mỗi nước đều có những đặc điểm riêng tùy theo đặc điểm của hệ thống tài chính và sự cân nhắc lợi hại của những người làm công tác quản lý nhà nước. Hiện nay các công ty chứng khoán ở các nước được tổ chức theo hai mô hình phổ biến là công ty chứng khoán đa năng và công ty chứng khoán chuyên doanh.
Mô hình công ty chứng khoán đa năng.
Theo mô hình này, kinh doanh chứng khoán chỉ là một mảng hoạt động của một tổ chức tài chính mà tổ chức này còn thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh khác trên thị trường tài chính như các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại, các nghiệp vụ bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Có hai loại công ty chứng khoán đa năng:
- Công ty chứng khoán đa năng toàn phần: Đây là hình thức mà các ngân hàng hay các tổ chức tài chính lớn được phép thực hiện đồng thời nhiều hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính bao gồm cả việc kinh doanh chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình này là ngân hàng có thể kết hợp được nhiều hình thức kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng việc đa dạng hóa đầu tư. Các ngân hàng có thể tận dụng những ưu thế vốn có của mình về vốn, cơ sở vật chất, mạng lưới khách hàng...để thực hiện kinh doanh chứng khoán, mô hình này cũng giúp cho các ngân hàng tăng khả năng chịu đựng trước những biến động bất thường của thị trường tài chính.
Hạn chế của mô hình là các tổ chức tài chính, ngân hàng đồng thời thực hiện nhiều nghiệp vụ kinh doanh, do đó, thiếu khả năng chuyên sâu trong hoạt động kinh doanh chứng khoán, làm giảm hiệu quả hoạt động trên thị trường chứng khoán. Đồng thời, do không có sự tách bạch giữa hoạt động của ngân hàng với hoạt động kinh doanh chứng khoán, trong điều kiện môi trường pháp luật không lành mạnh, các ngân hàng dễ gây nên tình trạng lũng loạn thị trường, làm cho các biến động trên thị trường chứng khoán gây những tác động mạnh tới thị trường tiền tệ có thể gây nên các cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Việc không tách bạch giữa các nguồn vốn cũng dễ dàng dẫn tới tình trạng các ngân hàng sử dụng tiền tiết kiệm của dân cư để kinh doanh chứng khoán, khi thị trường chứng khoán biến động theo chiều hướng xấu ngân hàng sẽ mất khả năng chi trả và dẫn đến những vụ sụp đổ hàng loạt. Khủng hoảng tài chính 1929- 1933, và cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay chính là minh chứng cho hạn chế của mô hình kinh doanh chứng khoán đa năng toàn phần, khi mà các ngân hàng đầu tư được phép thực hiện nhiều nghiệp vụ kinh doanh từ cho vay đến môi giới, phát hành chứng khoán.
- Công ty chứng khoán đa năng một phần: đây thực chất là các ngân hàng hay các tổ chức tài chính lớn, việc kinh doanh chứng khoán của họ không được thực hiện một cách trực tiếp mà thông qua hình thức công ty mẹ, công ty con. Các công ty con được thành lập để thực hiện việc kinh doanh chứng khoán và chúng được hạch toán độc lập tách rời với hoạt động kinh doanh của công ty mẹ. Mô hình này có ưu điểm là góp phần giúp cho công ty chứng khoán tận dụng được lợi thế của công ty mẹ đồng thời hạn chế sự can thiệp quá sâu có thể dẫn đến tiêu cực của công ty mẹ.
Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh
Theo mô hình này, thì các hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán được thực hiện bởi các công ty chứng khoán độc lập, có trình độ chuyên môn sâu trong thị trường chứng khoán. Hoạt động của các công ty chứng khoán này được tách biệt rõ ràng với các hoạt động của ngân hàng và các trung gian tài chính khác.
Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được rủi ro trong hệ thống ngân hàng, các công ty chứng khoán có điều kiện hơn khi được chuyên môn hóa trong các lĩnh vực hoạt động, nhờ đó tạo điều kiện tốt cho thị trường phát triển. Tuy nhiên, các công ty chứng khoán kiểu này thường có một hạn chế chung là qui mô về vốn thường không lớn, dễ bị chi phối, thâu tóm bởi các công ty, tập đoàn tài chính lớn.
1.1.2 Các hoạt động chủ yếu
1.1.2.1.Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán, đây là hoạt động phổ biến nhất của các công ty chứng khoán. Trong đó công ty chứng khoán thay mặt khách hàng tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán để hưởng hoa hồng. Với hoạt động môi giới công ty có thể giúp khách hàng mua bán trên thị trường tập trung hay thị trường OTC nhưng khách hàng phải chịu trách nhiệm hoàn toàn với kết quả giao dịch của mình.
Hiện nay, khi thị trường chứng khoán ngày càng phát triển thì hoạt động môi giới không chỉ đơn thuần là việc mua bán hộ khách hàng như trước nữa. Trong thị trường chứng khoán hiện đại, người môi giới có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự thành công của khách hàng. Trong nhiều trường hợp người môi giới phải đáp ứng nhu cầu tâm lý của khách hàng khi cần thiết: trở thành người bạn, người chia sẻ bớt những lo âu, căng thẳng của khách hàng, đồng thời họ cũng phải có những lời khuyên hợp lý, đúng lúc cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư luôn có quyết định tỉnh táo.
Hoạt động môi giới có vai trò rất quan trọng đối với công ty chứng khoán. Đồng thời cũng dễ xảy ra tranh chấp và xung đột lợi ích. Nó đòi hỏi những người hành nghề môi giới không chỉ đáp ứng được các kỹ năng nghiệp vụ mà những người này cần phải có tư cách đạo đức tốt, có thái độ công tâm trong công việc nhằm mang lại lợi ích tối đa cho khách hàng và công ty. Người môi giới tuyệt nhiên không bao giờ được xúi dục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên đưa ra những lời khuyên hợp lý nhằm giảm thiệt hại và tối đa hóa lợi ích cho khách hàng.
1.1.2.2.Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua bán các chứng khoán cho chính mình nhằm mục đích thu lợi. Hoạt động tự doanh của Công ty có thể được thực hiện trên thị trường giao dịch tập trung hay thị trường OTC. Ngoài các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán, hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán còn bao gồm các hoạt động như cho vay chứng khoán, repo chứng khoán, mua bán các công cụ trên thị trường phái sinh…Công ty chứng khoán muốn thực hiện hoạt động tự doanh phải có nguồn vốn đủ lớn đáp ứng được các yêu cầu của pháp luật, ngoài ra tự doanh chứng khoán là hoạt động có mức độ rủi ro cao do đó đội ngũ nhân viên của công ty phải có kinh nghiệm, trình độ chuyên môn cao, có khả năng phân tích thị trường.
Một công ty chứng khoán đồng thời thực hiện hai hoạt động tự doanh bằng vốn của mình và đại diện mua bán cho khách hàng rất dễ dấn đến việc xung đột về lợi ích giữa việc thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường, pháp luật của các nước đều yêu cầu có sự tách biệt rõ ràng giữa hai hoạt động này. Để được phép thực hiện hoạt động tự doanh chứng khoán công ty chứng khoán phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Tách biệt quản lý: Các công ty chứng khoán phải có sự tách biệt rõ giữa hai nghiệp vụ tự doanh và môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm tách biệt về: yếu tố con người; quy trình nghiệp vụ; vốn- tài sản của khách hàng và của chính công ty.
- Ưu tiên khách hàng: Pháp luật các nước đều yêu cầu các công ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khách hàng khi thực hiện hoạt động tự doanh. Điều đó có nghĩa là khi thực hiện giao dịch lệnh của khách hàng phải luôn được ưu tiên thực hiện trước lệnh tự doanh của công ty. Nguyên tắc này sẽ đảm bảo sự công bằng cho khách hàng trong quá trình thực hiện giao dịch chứng khoán do các công ty chứng khoán có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các công ty có thể dự đoán trước diễn biến của thị trường và sẽ tranh mua hoặc tranh bán của khách hàng.
- Góp phần bình ổn và tạo lập thị trường: Hầu hết luật pháp các nước đều qui định tỷ lệ % chứng khoán mà các công ty phải nắm giữ để tiến hành giao dịch nhằm mục đích bình ổn giá cả trên thị trường- mua vào khi giá chứng khoán giảm và bán ra khi giá chứng khoán tăng. Các công ty chứng khoán còn đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường cho những chứng khoán mới, được phát hành lần đầu và chưa có thị trường giao dịch. Khi đó, các công ty chứng khoán thực hiện tự doanh thông qua việc mua bán chứng khoán, tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp hai.
Trên những thị trường chứng khoán chưa phát triển, các nhà tạo lập thị trường sử dụng nghiệp vụ mua bán chứng khoán trên thị trường OTC để tạo thị trường. Theo đó, họ liên tục có những báo giá để mua bán chứng khoán với các nhà kinh doanh chứng khoán khác. Như vậy sẽ duy trì một thị trường liên tục với chứng khoán mà họ kinh doanh.
1.1.2.3.Hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc công ty chứng khoán thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp cổ phần hay chính phủ phát hành chứng khoán ra công chúng. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán bao gồm ba giai đoạn. Giai đoạn trước khi phát hành, giai đoạn chào bán chứng khoán ra công chúng và giai đoạn sau khi phát hành.
Giai đoạn trước khi phát hành: Công ty chứng khoán sẽ tiến hành tư vấn tài chính cho doanh nghiệp, xác định phương thức phát hành chứng khoán phù hợp nhất với thực trạng của doanh nghiệp, tiến hành hoàn thiện các thủ tục pháp lý về phát hành chứng khoán, tìm kiếm các nhà đầu tư tiềm năng…
Giai đoạn chào bán chứng khoán ra công chúng: Tổ chức bán đấu giá, thực hiện phân phối chứng khoán một cách hợp lý, đảm bảo chứng khoán phát hành sẽ được bán hết.
Giai đoạn sau khi phát hành: công ty chứng khoán sử dụng các kỹ năng nghiệp vụ để bình ổn giá chứng khoán khi các chứng khoán này đã được đưa vào giao dịch trên thị trường.
Đại lý phát hành là việc tổ chức phát hành ủy thác cho một tổ chức khác thực hiện bán chứng khoán cho các nhà đầu tư.
Thông thường có 4 hình thức bảo lãnh khác nhau, các hình thức bảo lãnh phát hành gồm:
Cam kết chắc chắn: Công ty chứng khoán cam kết mua lại toàn bộ số chứng khoán mà doanh nghiệp được bảo lãnh phát hành sau đó thực hiện việc bán lại cho các nhà đầu tư. Đây là hình thức bảo lãnh mang tính rủi ro cao, nếu số chứng khoán phát hành không được bán hết thì công ty chứng khoán vẫn phải trả đủ số tiền bán chứng khoán cho khách hàng.
Cố gắng tối đa: đây là hình thức bảo lãn