1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Trong quá trình phát triển nền kinh tế xã hội, công việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là một trong những vấn đề then chốt nhất. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước về phát triển đất nước, đặc biệt được sự hỗ trợ của nguồn vốn ngân sách Nhà nước (NSNN), các tổ chức quốc tế và nguồn huy động từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh Quảng Bình, công tác đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) ở thành phố Đồng Hới thời gian qua đã có nhiều khởi sắc, góp phần làm cho diện mạo của đô thị ngày một đổi mới. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị từng bước hiện đại hoá và hệ thống "điện, đường, trường, trạm" ngày càng được đồng bộ hoá đã tạo tiền đề cho KT-XH thành phố không ngừng tăng trưởng, hoà nhập chung vào sự phát triển của tỉnh và cả nước. Bên cạnh những kết quả đạt được của việc sử dụng vốn NSNN cho đầu tư xây dựng cơ bản, còn có những tồn đọng và hạn chế như: đầu tư manh mún, dàn trải.dẫn đến kém hiệu quả và làm thất thoát nguồn vốn của Nhà nước. Đồng Hới là một thành phố có nền kinh tế với xuất phát điểm thấp, việc huy động nguồn vốn đầu tư từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh còn hạn chế, chủ yếu dựa vào nguồn hỗ trợ của ngân sách Trung ương và khai thác quỹ đất, nên việc tiết kiệm và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư (VĐT) nói chung và đầu tư XDCB từ nguồn vốn ngân sách nói riêng càng mang tính cấp thiết. Về yếu kém trong đầu tư và sử dụng vốn NSNN, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nhận định: “Đầu tư của Nhà nước còn dàn trải, hiệu quả chưa cao, thất thoát nhiều. Lãng phí chi tiêu NSNN còn nghiêm trọng”. Nghị quyết của Đại hội nêu rõ: “Phải xoá bỏ cơ chế “xin cho”, nếu còn cơ chế này thì sẽ phát sinh tiêu cực Đồng thời phải cải cách thủ tục hành chính, phân cấp đầu tư hợp lý. Trong lĩnh vực XDCB phải chấn chỉnh từ khâu dự toán, thiết kế đến thi công”.
Từ những cơ sở trên đặt ra yêu cầu, cần phải sử dụng hiệu quả vốn đầu tư XDCB từ NSNN, đây là vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn không thể giải quyết triệt để cùng một lúc. Để góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và hoàn thiện việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn NSNN cho đầu tư XDCB, tác giả đã chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở thành phố Đồng Hới" để làm luận văn thạc sỹ kinh tế.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thuộc NSNN cho đầu tư XDCB ở thành phố Đồng Hới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá những lý luận về sử dụng vốn đầu tư XDCB thuộc NSNN.
- Xây dựng chỉ tiêu và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn XDCB thuộc NSNN ở thành phố Đồng Hới.
- Chống thất thoát vốn NSNN trong đầu tư XDCB.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn XDCB thuộc NSNN ở thành phố Đồng Hới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vốn của NSNN cho đầu tư XDCB.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung
Nghiên cứu và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB, bao gồm nhiều nội dung và lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian nên đề tài tập trung nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn NSNN do thành phố Đồng Hới quản lý đầu tư vào xây dựng cơ bản từ năm 2001 đến 2007.
- Về không gian
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành điều tra nghiên cứu các công trình đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới.
- Về thời gian
+ Số liệu thứ cấp: đề tài nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong đầu tư XDCB từ năm 2001 - 2006.
+ Số liệu sơ cấp: điều tra các công trình đang xây dựng từ năm 2001 đến 2007 có sử dụng vốn NSNN, trên cơ sở đó đề xuất các định hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN trên địa bàn thành phố Đồng Hới từ nay đến năm 2015.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp và phân tích thống kê số liệu thứ cấp theo thời gian
- Phương pháp điều tra, thu thập sơ cấp từ các đơn vị cơ sở, sử dụng các phép kiểm định thống kê và phân tích số liệu đa biến nhằm xác định những nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN về đầu tư XDCB.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo.
3.4. Kết cấu luận văn
Tên luận văn " Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở thành phố Đồng Hới"
Ngoài các phần mở đầu, kiến nghị và kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn bao gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn về đầu tư XDCB và vai trò vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn NSNN.
Chương 2: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng sử dụng vốn NSNN cho đầu tư XDCB ở thành phố Đồng Hới thời kỳ 2001 - 2007.
Chương 4: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho đầu tư XDCB ở thành phố Đồng Hới.
134 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4927 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở Thành phố Đồng Hới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Trong quá trình phát triển nền kinh tế xã hội, công việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là một trong những vấn đề then chốt nhất. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước về phát triển đất nước, đặc biệt được sự hỗ trợ của nguồn vốn ngân sách Nhà nước (NSNN), các tổ chức quốc tế và nguồn huy động từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh Quảng Bình, công tác đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) ở thành phố Đồng Hới thời gian qua đã có nhiều khởi sắc, góp phần làm cho diện mạo của đô thị ngày một đổi mới. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị từng bước hiện đại hoá và hệ thống "điện, đường, trường, trạm" ngày càng được đồng bộ hoá đã tạo tiền đề cho KT-XH thành phố không ngừng tăng trưởng, hoà nhập chung vào sự phát triển của tỉnh và cả nước. Bên cạnh những kết quả đạt được của việc sử dụng vốn NSNN cho đầu tư xây dựng cơ bản, còn có những tồn đọng và hạn chế như: đầu tư manh mún, dàn trải...dẫn đến kém hiệu quả và làm thất thoát nguồn vốn của Nhà nước. Đồng Hới là một thành phố có nền kinh tế với xuất phát điểm thấp, việc huy động nguồn vốn đầu tư từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh còn hạn chế, chủ yếu dựa vào nguồn hỗ trợ của ngân sách Trung ương và khai thác quỹ đất, nên việc tiết kiệm và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư (VĐT) nói chung và đầu tư XDCB từ nguồn vốn ngân sách nói riêng càng mang tính cấp thiết. Về yếu kém trong đầu tư và sử dụng vốn NSNN, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nhận định: “Đầu tư của Nhà nước còn dàn trải, hiệu quả chưa cao, thất thoát nhiều. Lãng phí chi tiêu NSNN… còn nghiêm trọng”. Nghị quyết của Đại hội nêu rõ: “Phải xoá bỏ cơ chế “xin cho”, nếu còn cơ chế này thì sẽ phát sinh tiêu cực…Đồng thời phải cải cách thủ tục hành chính, phân cấp đầu tư hợp lý. Trong lĩnh vực XDCB phải chấn chỉnh từ khâu dự toán, thiết kế đến thi công”.
Từ những cơ sở trên đặt ra yêu cầu, cần phải sử dụng hiệu quả vốn đầu tư XDCB từ NSNN, đây là vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn không thể giải quyết triệt để cùng một lúc. Để góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và hoàn thiện việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn NSNN cho đầu tư XDCB, tác giả đã chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở thành phố Đồng Hới" để làm luận văn thạc sỹ kinh tế.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thuộc NSNN cho đầu tư XDCB ở thành phố Đồng Hới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá những lý luận về sử dụng vốn đầu tư XDCB thuộc NSNN.
- Xây dựng chỉ tiêu và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn XDCB thuộc NSNN ở thành phố Đồng Hới.
- Chống thất thoát vốn NSNN trong đầu tư XDCB.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn XDCB thuộc NSNN ở thành phố Đồng Hới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vốn của NSNN cho đầu tư XDCB.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung
Nghiên cứu và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB, bao gồm nhiều nội dung và lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian nên đề tài tập trung nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn NSNN do thành phố Đồng Hới quản lý đầu tư vào xây dựng cơ bản từ năm 2001 đến 2007.
- Về không gian
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành điều tra nghiên cứu các công trình đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới.
- Về thời gian
+ Số liệu thứ cấp: đề tài nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong đầu tư XDCB từ năm 2001 - 2006.
+ Số liệu sơ cấp: điều tra các công trình đang xây dựng từ năm 2001 đến 2007 có sử dụng vốn NSNN, trên cơ sở đó đề xuất các định hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN trên địa bàn thành phố Đồng Hới từ nay đến năm 2015.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp và phân tích thống kê số liệu thứ cấp theo thời gian
- Phương pháp điều tra, thu thập sơ cấp từ các đơn vị cơ sở, sử dụng các phép kiểm định thống kê và phân tích số liệu đa biến nhằm xác định những nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN về đầu tư XDCB.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo.
3.4. Kết cấu luận văn
Tên luận văn " Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở thành phố Đồng Hới"
Ngoài các phần mở đầu, kiến nghị và kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn bao gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn về đầu tư XDCB và vai trò vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn NSNN.
Chương 2: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng sử dụng vốn NSNN cho đầu tư XDCB ở thành phố Đồng Hới thời kỳ 2001 - 2007.
Chương 4: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho đầu tư XDCB ở thành phố Đồng Hới.
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Khái niệm về đầu tư xây dựng cơ bản
Theo cách hiểu chung nhất, đầu tư là hoạt động bỏ vốn vào các lĩnh vực kinh tế xã hội (KT-XH) để mong thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau trong tương lai. Đầu tư hay hoạt động đầu tư là việc huy động các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai. Nguồn lực bỏ ra đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, tài sản vật chất khác [27]. Biểu hiện của tất cả nguồn lực bỏ ra nói trên gọi chung là VĐT. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường giao thông…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực. Có nhiều cách phân loại đầu tư, nhưng xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, người ta phân chia ra thành [5].
- Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người ta bỏ tiền ra cho vay hoặc mua chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu Chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu, trái phiếu công ty).
- Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lại lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán.
- Đầu tư tài sản vật chất và nguồn nhân lực: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh hoặc hoạt động xã hội khác.
- Đầu tư cơ bản: là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định (TSCĐ) đưa vào hoạt động trong các lĩnh vực KT - XH khác nhau. Trong hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư phải quan tâm đến các yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động. Khác với đối tượng lao động (nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm…) các tư liệu lao động (như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải…) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, biến đổi nó thành mục đích của mình. Xét về mặt tổng thể thì không một hoạt động đầu tư nào mà không cần phải có các TSCĐ, nó bao gồm toàn bộ cơ sở kỹ thuật đủ tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với giá cả từng thời kỳ.
Hoạt động đầu tư cơ bản thực hiện bằng cách tiến hành xây dựng mới các TSCĐ được gọi là đầu tư XDCB.
XDCB chỉ là một khâu trong hoạt động đầu tư XDCB. XDCB là các hoạt động cụ thể để tạo ra TSCĐ (như khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt….). Kết quả của hoạt động XDCB là các TSCĐ, có một năng lực sản xuất và phục vụ nhất định. Như vậy, XDCB là một quá trình đổi mới và tái sản xuất mở rộng có kế hoạch về các TSCĐ của nền kinh tế quốc dân trong các ngành sản xuất vật chất cũng như không sản xuất vật chất. Nó là quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho một quốc gia [5].
Đầu tư XDCB là hoạt đồng đầu tư nhằm tạo ra các công trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư, là lĩnh vực sản xuất vật chất tạo ra các TSCĐ và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội. Đầu tư XDCB là một hoạt động kinh tế.
1.1.2. Vai trò, đặc điểm và nội dung của đầu tư XDCB
1.1.2.1. Vai trò của đầu tư XDCB
Trước hết cần phải xác định rõ rằng đầu tư nói chung đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là động lực để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Nếu không có đầu tư thì không có phát triển.
Một là, đầu tư XDCB từ nguồn NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà nước trực tiếp tác động đến quá trình phát triển KT - XH, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Bằng việc cung cấp các dịch vụ công cộng như hạ tầng KT - XH, an ninh - quốc phòng…mà các thành phần kinh tế khác không muốn, không thể hoặc không đầu tư; các dự án đầu tư từ NSNN được triển khai ở các vị trí quan trọng, then chốt nhất đảm bảo cho nền KT - XH phát triển ổn định theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước, đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Về cầu, đầu tư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư chiếm khoảng 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của các nước trên thế giới. Đầu tư có tác động to lớn đến việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Đầu tư còn có mối quan hệ chặt chẽ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới cho thấy, nếu muốn tốc độ phát triển kinh tế tăng cao (9 - 10%) thì phải tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu công nghiệp và dịch vụ. Ngoài ra đầu tư còn có tác động giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, xoá đói giảm nghèo, phát huy lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế chính trị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh để làm đầu tàu cho vùng khác. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư ít nhất phải đạt từ 15 - 20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước [5].
Hai là, đầu tư XDCB có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế bởi vì nó tạo ra các TSCĐ. Đầu tư XDCB là hoạt động đầu tư để sản xuất ra của cải vật chất, đặc biệt là tạo cơ sở vật chất và kỹ thuật ban đầu cho xã hội. Tất cả các ngành kinh tế chỉ tăng nhanh khi có đầu tư XDCB, đổi mới công nghệ, xây dựng mới để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Đầu tư XDCB nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đầu tư XDCB sẽ tạo điều kiện để phát triển mới, đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất ở các doanh nghiệp. Đầu tư XDCB sẽ góp phần phát triển nguồn nhân lực, cải thiện cơ sở vật chất của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển y tế, văn hoá và các mặt xã hội khác. Đầu tư XDCB góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện điều kiện sống ở các địa phương nghèo, vùng sâu và vùng xa, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng các cơ sở sản xuất và dịch vụ, tạo ra những tác động tích cực cho vùng nghèo, người nghèo, hộ nghèo khai thác các tiềm năng của vùng để vươn lên phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Từ đó đảm bảo tỷ lệ cân đối vùng miền, ngành nghề, khu vực và phân bổ hợp lý sức sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh.
Ba là, đầu tư XDCB của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với xuất phát điểm thấp như nước ta hiện nay có một vai trò hết sức quan trọng, bởi vì vốn dành cho đầu tư XDCB của Nhà nước chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng vốn đầu tư XDCB của toàn xã hội. Đầu tư XDCB của Nhà nước góp phần khắc phục những thất bại của thị trường, tạo cân bằng trong cơ cấu đầu tư, giải quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác đầu tư XDCB của Nhà nước được tập trung vào những công trình trọng điểm, sử dụng nguồn vốn lớn, có khả năng tác động mạnh đến đời sống KT - XH. Bên cạnh đó cũng cần phải thấy rằng đầu tư XDCB của Nhà nước nếu không được quản lý một cách hợp lý sẽ gây ra thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả hơn là đầu tư XDCB từ các nguồn vốn khác.
1.1.2.2. Đặc điểm của đầu tư XDCB
Bất kỳ nền kinh tế nào thì đầu tư XDCB cũng mang những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: đầu tư XDCB là khâu mở đầu của mọi quá trình sản xuất và tái sản xuất nhằm tạo ra năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Đầu tư XDCB chính là một phần tiết kiệm những tiêu dùng của xã hội thay vì những tiêu dùng lớn hơn trong tương lai.
Để tạo ra tài sản cố định cho nền kinh tế, là những điều kiện kỹ thuật cần thiết đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế: xây dựng hệ thống hạ tầng, các nhà máy và mua sắm các thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến hiện đại…đầu tư XDCB cần một lượng vốn lớn.
Muốn đáp ứng được điều đó, các quốc gia phải phát huy mọi tiềm năng nguồn lực trong nước như: tiết kiệm từ nội bộ nền kinh tế, huy động mọi nguồn lực trong các tầng lớp dân cư, đồng thời phải tìm mọi giải pháp để thu hút các nguồn lực nước ngoài như: vốn ODA, FDI, NGO…
Xuất phát từ đặc điểm này đòi hỏi chúng ta trong việc huy động và sử dụng vốn đầu tư XDCB phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, nếu không giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ xuất hiện mâu thuẫn gay gắt giữa đầu tư và tiêu dùng.
Thứ hai: quá trình đầu tư XDCB phải trải qua một thời gian lao động rất dài mới có thể đưa vào sử dụng được, thời gian hoàn vốn lâu vì sản phẩm XDCB mang tính chất đặc biệt và tổng hợp. Sản xuất không theo dây chuyền hàng loạt mà mỗi công trình dự án có kiểu cách, tính chất khác nhau lại phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên, địa điểm hoạt động lại thay đổi liên tục và phân tán. Thời gian khai thác và sử dụng lâu dài, thường là 10 năm, 20 năm, 50 năm hoặc lâu hơn tuỳ thuộc vào tính chất dự án.
Quá trình đầu tư XDCB gồm 3 giai đoạn: xây dựng dự án, thực hiện dự án và khai thác dự án.
Xây dựng dự án và thực hiện dự án là hai giai đoạn có thời gian dài nhưng lại không tạo ra sản phẩm, đây là nguyên nhân chính gây ra mâu thuẫn giữa đầu tư và tiêu dùng. Các nhà kinh tế cho rằng đầu tư là quá trình làm bất động hoá một số vốn nhằm thu lợi nhuận trong nhiều thời kỳ nối tiếp sau này. Muốn nâng cao hiệu quả vốn đầu tư XDCB cần chú ý tập trung các điều kiện đầu tư có trọng điểm, nhằm đưa nhanh các dự án đầu tư vào khai thác sử dụng.
Khi xét hiệu quả vốn đầu tư XDCB cần quan tâm xem xét cả 3 giai đoạn của quá trình đầu tư, tránh tình trạng thiên lệch, chỉ tập trung vào giai đoạn thực hiện dự án, tức là việc đầu tư vào xây dựng các dự án mà không chú ý thời gian khai thác dự án. Việc coi trọng hiệu quả kinh tế do đầu tư XDCB mang lại là hết sức cần thiết nên phải có phương án lựa chọn tối ưu, đảm bảo trình tự XDCB. Chính vì chu kỳ sản xuất kéo dài nên việc hoàn vốn được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm, phải lựa chọn trình tự bỏ vốn cho thích hợp để giảm đến mức tối đa thiệt hại do ứ động vốn ở sản phẩm dở dang.
Thứ ba: đầu tư là lĩnh vực có mức độ rủi ro lớn và mạo hiểm, đầu tư chính là việc đánh đổi những tiêu dùng chắc chắn của hiện tại để mong nhận được những tiêu dùng lớn hơn nhưng chưa thật chắc chắn trong tương lai, “Chưa thật chắc chắn” chính là yếu tố rủi ro mạo hiểm. Vì vậy có nhà kinh tế đã nói rằng đấu tư là đánh bạc với tương lai [29].
Rủi ro trong lĩnh vực đầu tư XDCB chủ yếu do thời gian của quá trình đầu tư kéo dài. Trong thời gian này các yếu tố kinh tế, chính trị và cả tự nhiên ảnh hưởng sẽ gây nên những tổn thất mà các nhà đầu tư không lường định hết khi lập dự án. Các yếu tố bão lụt, động đất, chiến tranh có thể tàn phá các công trình được đầu tư. Sự thay đổi chính sách như quốc hữu hoá các cơ sở sản xuất, thay đổi chính sách thuế, mức lãi suất, sự thay đổi thị trường, thay đổi nhu cầu sản phẩm cũng có thể gây nên thiệt hại cho nhà đầu tư.
Đặc điểm này chỉ ra rằng, muốn khuyến khích đầu tư cần phải quan tâm đến lợi ích của các nhà đầu tư. Lợi ích mà các nhà đầu tư quan tâm nhất là hoàn đủ vốn đầu tư cho họ và lợi nhuận tối đa thu được nhờ hạn chế và tránh được rủi ro. Vì vậy các chính sách khuyến khích đầu tư cần quan tâm đến là ưu đãi, miễn giảm thuế, khấu hao cao, lãi suất vốn vay thấp, cơ chế thanh toán vốn nhanh, kịp thời…
Thứ tư: sản phẩm của đầu tư XDCB là những công trình xây dựng như nhà máy, công trình công cộng, nhà ở, cầu cống, sân bay, cảng biển… có tính cố định gắn liền với đất đai. Vì thế nên trước khi đầu tư các công trình phải được quy hoạch cụ thể, khi thi công xây lắp thường gặp phải khó khăn trong đền bù giải toả giải phóng mặt bằng, khi đã hoàn thành công trình thì sản phẩm đầu tư khó di chuyển đi nơi khác [29].
Sản phẩm của đầu tư XDCB là những TSCĐ, có chức năng tạo ra sản phẩm và dịch vụ khác cho xã hội, thường có vốn đầu tư lớn, do nhiều người, thậm chí do nhiều cơ quan đơn vị khác cùng tạo ra.
Sản phẩm của đầu tư XDCB mang tính đặc biệt và tổng hợp, sản xuất không theo một dây chuyền mà có tính cá biệt. Mỗi công trình đều có điểm riêng nhất định. Ngay trong một công trình kết cấu các phần cũng không hoàn toàn giống nhau. Với những công trình công nghệ cao, có vòng đời thay đổi công nghệ ngắn như: công trình bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, điện tử… thì việc thay đổi công nghệ, kiểu dáng luôn xảy ra.
Giá thành sản phẩm XDCB rất phức tạp và thường xuyên thay đổi theo từng giai đoạn. Sản phẩm đầu tư XDCB không chỉ mang ý nghĩa kinh tế kỹ thuật mà còn mang tính nghệ thuật. Sản phẩm đầu tư XDCB phản ánh trình độ kinh tế, trình độ khoa học kỹ thuật và trình độ của từng giai đoạn lịch sử nhất định của một đất nước.
Quá trình XDCB bị tác động bởi nhiều yếu tố tự nhiên như tình hình địa chất thuỷ văn, ảnh hưởng của khí hậu thời tiết, mưa bão, động đất. Trong đầu tư XDCB chu kỳ sản xuất thường dài và chi phí sản xuất thường lớn. Vì vậy, chọn công trình để bỏ vốn thích hợp nhằm giảm mức tối đa thiệt hại do công trình xây dựng dở dang là một thách thức lớn đối với các nhà thầu.
Nơi làm việc và lực lượng lao động không ổn định là điều bất lợi cho quá trình XDCB, dẫn đến thời gian ngừng làm việc nhiều, năng suất lao động thấp, dễ gây tâm lý tạm bợ, tuỳ tiện trong làm việc và sinh hoạt của cán bộ công nhân công trường.
Để thực hiện một dự án đầu tư XDCB phải trải qua nhiều giai đoạn, có rất nhiều đơn vị tham gia thực hiện. Trên một công trường có thể có hàng chục đơn vị làm các công việc khác nhau, nhưng các đơn vị này cùng hoạt động trên một không gian và thời gian, vì vậy trong tổ chức thi công cần phải phối hợp chặt chẽ với nhau bằng các hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Tuy vậy hiện nay cách thức giao nhận thầu chưa được cải tiến, giá bán được định trước khi chế tạo sản phẩm. Tức là trước khi nhà thầu biết giá thành thực tế của mình, việc ước lượng đúng đắn giá cả và phương tiện thi công rất khó khăn vì phải dựa trên những giả thiết mà rất có thể khi thi công thực tế bị phủ định.
Điều phụ thuộc này buộc nhà thầu phải nắm chắc dự toán và kiểm tra thường xuyên trong quá trình thi công.
Ngoài những đặc điểm của đầu tư XDCB nói chung thì đầu tư XDCB của NSNN còn có đặc điểm riêng, đó là quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn đầu tư XDCB bị tách rời nhau.
Vốn đầu tư XDCB của NSNN là thuộc quyền sở hữu Nhà nước. Nhà nước là chủ thể có quyền chi phối và định đoạt nguồn vốn NSNN dành cho đầu tư XDCB và là người đề ra chủ trương đầu tư, có thẩm quyền quyết định đầu tư, phê duyệt thiết kế dự toán (tổng dự toán). Song quyền sử dụng vốn đầu tư XDCB Nhà nước lại giao cho một tổ chức bằng việc thành lập các chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án. Chủ đầu tư và các Ban quản lý dự án là người được Nhà nước giao trách nhiệm trực tiếp quản lý và sử dụng vốn để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật [21].
Xuất phát từ đặc điểm này mà trong quản lý vốn đầu tư XDCB của NSNN dễ bị thất thoát. Nếu các chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ không đáp ứng yêu cầu quản lý; Nhà nước không tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra bằng những cơ chế chính sách ràng buộc trá