1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước như hiện nay chúng ta đã có những cải tổ hết sức quan trọng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là về thị trường tài chính và hệ thống Ngân hàng. Có thể nói, chưa có bao giờ mà thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam lại phát triển với tốc độ nhanh chóng như trong thời gian vừa qua. Đặc biệt sau năm 2006, khi Việt Nam đã trở thành một thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế WTO, Ngành Ngân hàng đã tỏ rõ vị trí quan trọng hàng đầu của mình với sự phát triển của nền kinh tế nói riêng và của đất nước nói chung. Như người ta thường nói, Ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế. Tuy nhiên cùng với những cơ hội phát triển là những khó khăn và thách thức phải đối đầu. Vận hội mới, thách thức mới đã đến đòi hỏi nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính, hệ thống Ngân hàng nước ta nói riêng phải liên tục đổi mới, phát triển.
Ngân hàng là một loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, huy động vốn và các dịch vụ thanh toán. Công tác huy động vốn có hiệu quả là nền tảng đối với sự thành bại của mỗi ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn lớn, ổn định, vững chắc, thu hút đông đảo khách hàng đó là sự đảm bảo sức cạnh tranh giành thắng lợi và xác định vị thế trên thị trường bởi nguồn vốn luôn là khởi đầu cho mọi hoạt động kinh doanh. Nhận thức được điều này, các ngân hàng luôn đưa ra các biện pháp cạnh tranh nhằm thu hút, huy động được nguồn vốn lớn nhất để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh khác của mình.
Với đặc trưng là một tỉnh thuộc vùng trung du miền núi nên nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bắc Giang, chính vì vậy mà hoạt động của NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang có tác động và vai trò rất quan trọng trong hệ thống NHTM trên địa bàn. Đây là nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho cá nhân và tổ chức kinh tế trên địa bản tỉnh, đặc biệt là địa chỉ tin cậy của các hộ nông dân.
Sau một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu thực tế tại NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang, nhận thức được vai trò của hoạt động huy động vốn và vị thế của NHNo tỉnh Bắc Giang trong hệ thống các NHTM trên địa bàn, tôi đã lựa chọn vấn đề “Nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bắc Giang” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài này được thực hiện nhằm các mục tiêu cơ bản sau:
- Làm rõ vai trò của hoạt động huy động vốn trong hoạt động kinh doanh nói chung và khả năng cạnh tranh của các NHTM nói riêng trong điều kiện hội nhập kinh tế và cạnh tranh ngày càng gay gắt.
- Nhận dạng và đánh giá các chính sách cạnh tranh trong huy động vốn mà NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang đã thực hiện.
- Đề xuất triển khai các biện pháp và các kiến nghị phù hợp với thực tiễn hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.
3. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang với các chính sách cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn.
Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ giới hạn trong việc triển khai thực hiện các chính sách cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn tại NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn 2007-2008, từ đó đưa ra những giải pháp thực hiện trong giai đoạn 2009-2015.
Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu tài liệu tại doanh nghiệp và điều tra thực tiễn, các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, hỏi ý kiến chuyên gia
4. Nội dung cơ bản của Luận văn
Nội dung của Luận văn ngoài phần Lời mở đầu và Kết luận gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về khả năng cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Đánh giá khả năng cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bắc Giang.
Chương 3: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bắc Giang.
104 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2080 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước như hiện nay chúng ta đã có những cải tổ hết sức quan trọng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là về thị trường tài chính và hệ thống Ngân hàng. Có thể nói, chưa có bao giờ mà thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt Nam lại phát triển với tốc độ nhanh chóng như trong thời gian vừa qua. Đặc biệt sau năm 2006, khi Việt Nam đã trở thành một thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế WTO, Ngành Ngân hàng đã tỏ rõ vị trí quan trọng hàng đầu của mình với sự phát triển của nền kinh tế nói riêng và của đất nước nói chung. Như người ta thường nói, Ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế. Tuy nhiên cùng với những cơ hội phát triển là những khó khăn và thách thức phải đối đầu. Vận hội mới, thách thức mới đã đến đòi hỏi nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính, hệ thống Ngân hàng nước ta nói riêng phải liên tục đổi mới, phát triển.
Ngân hàng là một loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, huy động vốn và các dịch vụ thanh toán. Công tác huy động vốn có hiệu quả là nền tảng đối với sự thành bại của mỗi ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn lớn, ổn định, vững chắc, thu hút đông đảo khách hàng đó là sự đảm bảo sức cạnh tranh giành thắng lợi và xác định vị thế trên thị trường bởi nguồn vốn luôn là khởi đầu cho mọi hoạt động kinh doanh. Nhận thức được điều này, các ngân hàng luôn đưa ra các biện pháp cạnh tranh nhằm thu hút, huy động được nguồn vốn lớn nhất để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh khác của mình.
Với đặc trưng là một tỉnh thuộc vùng trung du miền núi nên nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bắc Giang, chính vì vậy mà hoạt động của NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang có tác động và vai trò rất quan trọng trong hệ thống NHTM trên địa bàn. Đây là nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho cá nhân và tổ chức kinh tế trên địa bản tỉnh, đặc biệt là địa chỉ tin cậy của các hộ nông dân.
Sau một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu thực tế tại NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang, nhận thức được vai trò của hoạt động huy động vốn và vị thế của NHNo tỉnh Bắc Giang trong hệ thống các NHTM trên địa bàn, tôi đã lựa chọn vấn đề “Nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bắc Giang” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài này được thực hiện nhằm các mục tiêu cơ bản sau:
- Làm rõ vai trò của hoạt động huy động vốn trong hoạt động kinh doanh nói chung và khả năng cạnh tranh của các NHTM nói riêng trong điều kiện hội nhập kinh tế và cạnh tranh ngày càng gay gắt.
- Nhận dạng và đánh giá các chính sách cạnh tranh trong huy động vốn mà NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang đã thực hiện.
- Đề xuất triển khai các biện pháp và các kiến nghị phù hợp với thực tiễn hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.
3. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang với các chính sách cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn.
Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ giới hạn trong việc triển khai thực hiện các chính sách cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn tại NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn 2007-2008, từ đó đưa ra những giải pháp thực hiện trong giai đoạn 2009-2015.
Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu tài liệu tại doanh nghiệp và điều tra thực tiễn, các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, hỏi ý kiến chuyên gia …
4. Nội dung cơ bản của Luận văn
Nội dung của Luận văn ngoài phần Lời mở đầu và Kết luận gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về khả năng cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Đánh giá khả năng cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bắc Giang.
Chương 3: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bắc Giang.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo, các cô chú, anh chị cán bộ, nhân viên phòng Kế hoạch tổng hợp của NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang đã nhiệt tình hướng dẫn giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Là một sinh viên nên kinh nghiệm và đặc biệt là kiến thức thực tiễn còn hạn chế nên Luận văn không thể tránh khỏi những sai sót. Chính vì vậy tôi rất mong nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý của thầy giáo và những người quan tâm để có thể hoàn thiện tốt hơn nữa vấn đề nghiên cứu này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Theo các nhà kinh tế học thì sự ra đời của NHTM trong lịch sử là một tất yếu khách quan. Ngay từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ đã xuất hiện mầm mống sơ khai cho sự ra đời của NHTM, đó chính là hoạt động cho vay nặng lãi. Sau đó nền sản xuất hàng hóa ra đời và khi phát triển đến một mức độ nhất định vào đầu thế kỷ XV thì các NHTM chính thức ra đời và hoạt động trong các lĩnh vực tương tự nhau. Để tìm kiếm lợi nhuận, các ngân hàng bắt đầu cạnh tranh nhau và trong quá trình cạnh tranh đó, nhiều ngân hàng bị phá sản, bị thôn tính cũng như có nhiều ngân hàng lớn dần lên. Cùng với thời gian, sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa ngày càng phức tạp hơn đòi hỏi các NHTM cũng phải có nhiều thay đổi phù hợp hơn để tồn tại. Sự chuyên môn hóa trong lĩnh vực ngân hàng cũng như hậu quả của những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã dẫn đến sự ra đời của Ngân hàng trung ương, điều này đã tách các NHTM ra khỏi chức năng phát hành tiền và thực hiện chuyên sâu vào việc kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ khác. Từ lúc này, nói đến ngân hàng thường người ta hiểu đó là nói đến các NHTM.
Tóm lại, Ngân hàng hay NHTM là một loại hình tổ chức tài chính quan trọng nhất đối với hệ thống tài chính nói riêng và với toàn nền kinh tế nói chung của mỗi một quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được ví như thần kinh của cả nền kinh tế. Có nhiều định nghĩa khác nhau về NHTM tùy theo cách tiếp cận. Tiếp cận theo các loại hình dịch vụ cung cấp, Peter Rose trong cuốn “Quản trị Ngân hàng thương mại” đã định nghĩa “Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Khi tiếp cận theo các hoạt động chủ yếu của NHTM thì Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam (tháng 12 năm 1997) đã ghi như sau: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2. Phân loại Ngân hàng thương mại
Xét từ góc độ dịch vụ trung gian tài chính chủ yếu mà NHTM thực hiện, NHTM chia thành các loại: Ngân hàng thông thường, Ngân hàng tín thác, Ngân hàng tín dụng dài hạn.
Tuy nhiên, xu hướng chuyển đổi thành các trung gian tài chính kinh doanh tổng hợp đã khiến cho cách phân loại trên không còn được sử dụng nhiều.
Xét theo không gian địa lý hoạt động chủ yếu, ta có thể chia các NHTM thành: NHTM đô thị, NHTM nông thôn.
Ta có thể phân chia NHTM thành các loại theo hình thức sở hữu, bao gồm:
- NHTM nhà nước: do Chính phủ sở hữu toàn bộ vốn điều lệ.
- NHTM cổ phần: vốn điều lệ được chia thành các cổ phần, song các tập đoàn kinh tế nhà nước hay các tổng công ty nhà nước có thể chia nhau sở hữu toàn bộ số vốn điều lệ.
- NHTM liên doanh: TCTD nước ngoài và TCTD trong nước cùng sở hữu.
- NHTM nước ngoài: đây chính là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Đây chính là cách phân chia các NHTM được Chính phủ Việt Nam áp dụng trong giai đoạn hiện nay.
1.1.3. Đặc điểm Ngân hàng thương mại
Trong báo cáo chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định: “Ngân hàng phải là ngành đi đầu với tư cách là động lực và là công cụ tổ chức quản lý cho nền kinh tế ổn định và phát triển …”. Với tính chất đặc thù trên, NHTM có các đặc điểm sau:
Trung gian tài chính
Ngân hàng là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư (đi vay để cho vay). Trong nền kinh tế có hai loại cá nhân và tổ chức, đó là các cá nhân, tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu và có nhu cầu cần bổ sưng vốn; các cá nhân, tổ chức thặng dư trong chi tiêu và có nhu cầu bảo toàn, sinh lời vốn. Hai loại cá nhân và tổ chức này tạo thành cung cầu về vốn nhưng việc gặp nhau của cung cầu về vốn này bị cản trở bởi khoảng cách không gian, thời gian, thông tin … nên khó có thể gặp nhau trực tiếp. Vì vậy, NHTM đứng ra đóng vai trò là một trung gian để giúp cung cầu về vốn gặp nhau. Các NHTM không chỉ khắc phục những khó khăn về không gian, thời gian, thông tin mà còn có khả năng thẩm định thông tin và chia sẽ rủi ro với khách hàng. Đây là một đặc điểm nổi bật của NHTM.
Tạo phương tiện thanh toán
Khi Ngân hàng trung ương ra đời, các NHTM không còn phát hành tiền nhưng vẫn có khả năng tạo ra phương tiện thanh toán thông qua việc triển khai dịch vụ thanh toán qua số dư tài khoản của khách hàng. Theo quan điểm hiện đại, khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hóa và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay, các NHTM đã tạo ra phương tiện thanh toán. Hơn nữa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra phương tiện thanh toán lớn gấp bội thông qua các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác theo công thức số nhân tiền tệ.
Trung gian thanh toán
Sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu dẫn đến nhu cầu thanh toán liên quốc gia, liên châu lục. Để tiến hành thanh toán được nhanh chóng, phù hợp, chính xác, các cá nhân và tổ chức ở các nước thông thường qua ngân hàng. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.4. Vai trò của Ngân hàng thương mại
Xuất phát từ đặc điểm của mình, các NHTM có vai trò như sau:
Vai trò trung gian cung ứng vốn cho nền kinh tế
NHTM tập trung các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội thành quỹ cho vay và sử dụng quỹ này để cung ứng cho những người có nhu cầu vốn. NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay, và với số lãi suất chênh lệch có được nó sẽ duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Thông qua trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên được đào tạo cũng như đội ngũ quản lý, ngân hàng có thể khắc phục được hầu hết những khuyết điểm của thị trường tài chính và hạn chế được rủi ro đạo đức. Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung được nguồn vốn cần thiết của nền kinh tế để phát triển sản xuất kinh doanh.
Vai trò trung gian cung ứng các dịch vụ thanh toán
NHTM thực hiện việc thanh toán hộ cho các khách hàng thông qua các dịch vụ thanh toán đa dạng, giúp cho việc thanh toán của khách hàng trong và ngoài nước được nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiết kiêm và tiện lợi.
Là nguồn cung ứng các sản phẩm dịch vụ tài chính đa dạng nhất
NHTM tạo ra những công cụ lưu thông và độc quyền quản lý các công cụ đó (Séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán …) đã tiết kiệm rất nhiều cho xã hội chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. NHTM giúp con người thỏa mãn về nhu cầu tài chính, thông qua đó nâng cao mức sống cho người dân. Ngược lại, nhu cầu ngày càng cao của con người giúp NHTM ngày hoàn thiện hơn trong việc cung ứng dịch vụ và thu lợi từ phí dịch vụ.
Vai trò thực hiện các chính sách xã hội
Các chính sách tiền tệ và tài khóa như chính sách chiết khấu, tái chiết khấu, chính sách dự trữ bắt buộc, chính sách lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở … được Ngân hàng trung ương thực hiện tác động trực tiếp vào hệ thống NHTM làm thay đổi các chính sách của các NHTM, làm thay đổi lượng vốn cung ứng ra nền kinh tế, từ đó tác động đến toàn bộ hoạt động tiết kiệm, chi tiêu và đầu tư của nền kinh tế. Và như vậy thúc đẩy sự tăng trưởng hoặc kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế và thực hiện các mục tiêu xã hội khác.
1.1.5. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.5.1. Hoạt động tạo nguồn vốn
Hoạt động nhận tiền gửi
Các NHTM thường thực hiện huy động vốn thông qua việc nhận tiền gửi của khách hàng. Tiền gửi thường xuyên chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM và nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng để duy trì hoạt động kinh doanh của NHTM.
Hoạt động phát hành giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường. Nghiệp vụ này đem lại nguồn vốn tương đối ổn định và giúp ngân hàng có thể có được một khoản vốn lớn trong một thời gian ngắn.
Hoạt động đi vay
Nguồn vốn đi vay chủ yếu được ngân hàng sử dụng để đảm bảo khả năng thanh khoản và tiện lợi trong việc giao dịch, thanh toán giữa các ngân hàng.
Hoạt động tạo vốn tự có
Vốn tự có thường là nguồn vốn chiếm tỷ trọng nhỏ nhất nhưng lại có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NHTM vì nó đóng vai trò là tấm đệm bảo vệ cho các hoạt động và tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng, phát triển các hoạt động của mình đồng thời góp phần nâng cao vị thế của ngân hàng.
Hoạt động huy động vốn từ các nguồn khác
Ngoài các nguồn vốn trên, NHTM còn có các nguồn vốn khác như: Vốn ủy thác đầu tư, vốn tài trợ, vốn trong thanh toán …
1.1.5.2. Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động tín dụng
Đây là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các nghiệp vụ của NHTM về mặt giá trị, đồng thời nó là nghiệp vụ đem lại nguồn thu, lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng rất nhiều rủi ro đối với ngân hàng.
Hoạt động quản lý ngân quỹ
Quản lý ngân quỹ của NHTM bao gồm quản lý dự trữ bắt buộc (theo yêu cầu của Ngân hàng trung ương) và quản lý ngân quỹ bảo đảm khả năng thanh toán. Mục đích chủ yếu là duy trì khả năng thanh khoản của ngân hàng nhưng lại có thể gây ra lãng phí nguồn lực của ngân hàng.
Hoạt động đầu tư tài chính
Các NHTM thường đầu tư tài chính vào nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu là đầu tư vào chứng khoán. Mục đích của việc đầu tư này là vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản, cũng như để tăng thu nhập cho ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Đây là hoạt động được ngân hàng thực hiện nhằm để phòng và hạn chế rủi ro hối đoái, tỷ giá cũng như để tạo thêm thu nhập cho ngân hàng.
Hoạt động tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM cũng thường tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ theo sự yêu cầu của Chính phủ hoặc có sự tự nguyện từ phía ngân hàng.
1.1.5.3. Hoạt động khác
Bao gồm các hoạt động như: Bảo quản vật có giá; Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán; Cho thuê thiết bị trung và dài hạn; Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn đầu tư; Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán; Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm; Cung cấp các dịch vụ đại lý.
1.2. Khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại trong hoạt động huy động vốn
1.2.1. Nguồn vốn huy động trong Ngân hàng thương mại
Để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp cũng đều cần phải có vốn. NHTM là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt – kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên đòi hỏi phải có một ượng vốn lớn, đa dạng hơn các doanh nghiệp khác. Vốn đối với NHTM rất quan trọng, nó quyết định quy mô, khả năng sinh lời, xu hướng hoạt động và phát triển của ngân hàng.
Mỗi NHTM có các nguồn vốn cơ bản như sau:
- Nguồn vốn tự có (nguồn vốn chủ sở hữu).
- Nguồn vốn huy động.
- Các nguồn vốn khác.
Trong đó, nguồn vốn huy động là nguồn vốn quan trọng nhất là chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của mỗi NHTM. Hoạt động huy động vốn là tổng hợp các biện pháp nhằm thu hút và tận dụng tối đa các nguồn vốn mà mỗi ngân hàng có thể huy động được.
1.2.1.1. Khái niệm
Nguồn vốn huy động là nguồn vốn nhàn rỗi của các cá nhân, TCKT dưới dạng tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán hoặc phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá. Trong đó, nguồn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất và đóng vai trò quan trọng nhất trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng.
1.2.1.2. Vai trò của nguồn vốn huy động
Vốn huy động chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM, lên tới 70-80%, vì vậy nó đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động của NHTM. Nguồn vốn huy động là cơ sở để ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn và liên tục gia tăng, không một ngân hàng nào có đủ sức thực hiện cho vay chỉ bằng nguồn vốn tự có của mình. Mặt khác, bản chất của NHTM là làm trung gian tài chính do đó nguồn vốn huy động đương nhiên là nguồn vốn quan trọng nhất giúp ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Quy mô, cơ cấu vốn huy động sẽ trực tiếp quyết định khả năng cho vay của một ngân hàng. Các ngân hàng không thể cho vay lớn, kỳ hạn dài trong điều kiện vốn huy động nhỏ, ngắn hạn, không ổn định.
1.2.1.3. Các hình thức huy động vốn
Vốn huy động vốn từ việc nhận tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế.
Các hình thức huy động vốn từ việc nhận tiền gửi bao gồm:
- Tiền gửi của các TCKT
Đây là số tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của các tổ chức này và được gửi tại ngân hàng. Nó bao gồm một bộ phận vốn tiền tệ nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng nhu cầu sử dụng (vốn lưu động) hoặc sử dụng cho các mục tiêu định sẵn vào một thời điểm nhất định (các quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự trữ tài chính, quỹ khen thưởng).
Các TCKT thường gửi tiền vào ngân hàng dưới 2 hình thức cơ bản:
+ Tiền gửi KKH
Đây là loại tiền gửi mà khi gửi tiền vào có thể rút ra bất cứ lúc nào để sử dụng và ngân hàng phải có trách nhiệm thỏa mãn nhu cầu rút tiền đó một cách nhanh chóng, chính xác và đầy đủ bất cứ lúc nào khách hàng có yêu cầu. Các TCKT gửi tiền với mục đích chủ yếu là để có thể sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng như ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, tài khoản giao dịch … Ngoài ra, người gửi tiền được chủ động trong việc rút tiền nên vẫn đáp ứng được nhu cầu về vốn trong quá trình kinh doanh.
Đối với các NHTM, khoản tiền gửi KKH này có chi phí trả lãi thấp nhưng chi phí ngoài lãi lại cao (chi phí quản lý, trích lập quỹ dự phòng …) nên các ngân hàng thường thu phí của các dịch vụ thanh toán thông qua tài khoản tiền gửi KKH. Tỷ trọng của nguồn tiền gửi trong các NHTM thường cao nên ngân hàng nào thu hút được nhiều tiền gửi KKH thì sẽ có chênh lệch lãi suất lớn. Chính vì vậy mà các NHTM thường cố gắng lôi kéo được các khách hàng lớn như bảo hiểm, kho bạc, bưu chính viễn thông, điện lực … mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng mình để thu hút được một lượng tiền khổng lồ với lãi suất thấp và khi thực hiện thanh toán sẽ thu được nhiều phí dịch vụ.
Loại tiền gửi KKH này được huy động dưới 2 hình thức:
Huy động vốn qua các tài khoản tiền gửi phi giao dịch
Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng được gửi vào ngân hàng nhưng không nhằm mục tiêu giao dịch mà chủ yếu để bảo toàn vốn và thu lãi.
Huy động vốn thông qua tài khoản giao dịch của khách hàng
Đây là khoản tiền gửi mà người mở tài khoản được quyền sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng để phục vụ cho hoạt động thanh toán của mình như ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, các loại Séc, L/C … Do đặc điểm của loại tài khoản tiền gửi này cho phép người gửi có thể thực hiện thanh toán nên để đảm bảo an toàn trong thanh toán