1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta nhất quán xác định “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN là sự nghiệp cách mạng to lớn được thực hiện trong điều kiện vừa có thời cơ và thuận lợi, vừa có khó khăn và thách thức đan xen. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục xây dựng và chỉnh đốn bảo đảm cho Đảng thực sự vững mạnh ngang tầm với nhiệm vụ trong tình hình mới.
Chi bộ nói chung và chi bộ ấp nói riêng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở địa bàn dân cư, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân. Chi bộ ấp có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống tổ chức và hoạt động của Đảng; trong quá trình thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhận thức được vị trí, vai trò và tầm quan trọng đó, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến việc củng cố, xây dựng và chỉnh đốn Đảng để nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ nói chung và chi bộ ấp nói riêng; nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết TW 3 (khóa VII ) về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng” và Nghị quyết TW 6 lần 2 ( khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Qua thời gian thực hiện, chất lượng của các TCCSĐ nói chung và chi bộ ấp nói riêng đã được nâng lên, số lượng chi bộ ấp trong sạch vững mạnh ngày càng tăng, số lượng chi bộ ấp yếu kém giảm dần. Nhiều chi bộ ấp đã lãnh đạo và thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, góp phần to lớn trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, trong thực hiện QCDCCS, trong phong trào tự quản của cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra trong tình hình mới hiện nay, vẫn còn không nhỏ số lượng chi bộ ấp chưa đủ NLLĐ và SCĐ ngang tầm với nhiệm vụ mới. Tình trạng mất đoàn kết, kèn cựa, thiếu hợp tác trong cấp ủy vẫn còn xảy ra; chế độ sinh hoạt, chế độ tự phê bình và phê bình không được duy trì thường xuyên và nghiêm túc; nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được tôn trọng; vẫn còn đ ảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống vẫn còn. Nhiều vụ việc tiêu cực, vi phạm điều lệ Đảng và pháp luật không được phát hiện và xử lý kịp thời; một số vụ việc phát hiện nhưng việc xử lý không đến nơi, đến chốn. Đáng chú ý là tình trạng chạy theo thành tích, phô trương hình thức vẫn còn xảy ra phổ biến, có nhiều chi bộ ấp đạt “trong sạch, vững mạnh” nhưng thực tế chất lượng và hiệu quả của thực hiện nhiệm vụ thấp.
Trong những năm gần đây, Đảng bộ huyện Hóc Môn đã rất chú trọng tới công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhìn chung các chi bộ ấp đã có chuyển biến tích cực; số lượng chi bộ ấp trong sạch, vững mạnh ngày càng nhiều góp phần to lớn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đã đề ra, nhất là trong phát triển kinh tế - xã hội, trong CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn tr.
Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế NlLĐ và SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, để từ đó xây dựng những giải pháp nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới là rất cần thiết và cấp bách cả về lý luận lẫn thực tiễn. Với những lý do nói trên, tác giả chọn đề tài “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM hiện nay- thực trạng và giải pháp” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết TW 3 (khóa VII) về “ Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng” và Nghị quyết TW 6 lần 2 ( khóa VIII) về “ Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Chính vì vậy, có rất nhiều cá nhân, tập thể và cơ quan khoa học đã chọn đề tài nâng cao NLLĐ và SCĐ để nghiên cứu khoa học, khai thác và sử dụng kết quả này. Nổi bật trong số những bài viết, công trình liên quan trong những năm gần đây:
-Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng và những yêu cầu xây dựng TCCSĐ ở nông thôn một số tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc nước ta hiện nay”, do tác giả Nguyễn Minh Bích làm chủ nhiệm, Hà Nội, tháng 10 năm 1998. Đề tài tập trung phân tích thực trạng TCCSĐ và xây dựng một số giải pháp để củng cố và kiện toàn các TCCSĐ ở vùng núi, cao phía Bắc tổ quốc.
- Đề tài luận án phó tiến sĩ về “Nâng cao chất lượng TCCSĐ nông thôn( cấp xã) vùng đồng bằng sông Hồng” của tác giả Đỗ Ngọc Ninh( 1995). Tác giả tập trung phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng và đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng TCCSĐ ở vùng đồng bằng sông Hồng.
- Đề tài luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Ái (2001) “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”. Tác giả tập trung làm những rõ cơ sở lý luận và thực trạng NLLĐ và SCĐ, từ đó tác giả đưa ra những những giải pháp cơ bản để nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ ở nông thôn vùng cao phía Bắc.
- Một số đề tài luận văn thạc sĩ: “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các Đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai đọan hiện nay” của tác giả Dương Trung Ý (2002); “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các chi bộ phân đội chiến đấu phòng không thuộc quân chủng phòng không- không quân trong giai đọan hiện nay” của tác giả Nguyễn Học (2001); “Năng lực lãnh đạo và SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng nông thôn vùng có đông đồng bào công giáo ở tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay- Thực trạng và giải pháp” của tác giả Bùi Hữu Dược( 2003); “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các tổ chức cơ sở Đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh hiện nay” của tác giả Phùng Đức Thái (2000); “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các tổ chức cơ sở Đảng nông thôn tỉnh Long An hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Dũng (2000)v.v
Ngoài một số bài viết được đăng tải trên các sách báo, tạp chí còn có một số sách tham khảo: “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của Đảng trong thời kỳ mới”GS,TS Nguyễn Phú Trọng, PGS,TS Tô Huy Rứa và PGS, TS Trần Khắc Việt đồng chủ biên-Nxb CTQG-Hà Nội-2004; “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các Đảng bộ phường ở thủ đô Hà Nội hiện nay” của tập thể tác giả, PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội- năm 2004 v.v
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn về TCCSĐ. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đi sâu nghiên cứu NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp; có thể nói “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các chi bộ ấp ở hyện Hóc Môn, TP HCM hiện nay- thực trạng và giải pháp” là đề tài khoa học đầu tiên nghiên cứu về chi bộ ấp ở TP HCM .
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Mục đích của luận văn là góp phần nâng cao NLLĐ và SCĐ của các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM trong giai đoạn hiện nay.
- Để đạt được mục đích đó, luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ những vấn đề lý luận và quan điểm nâng cao NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp: khái niệm, xây dựng tiêu chí đánh giá v.v
+ Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế và những kinh nghiệm trong thời gian qua của NLLĐ và SCĐ của các chi bộ ấp huyện Hóc Môn, TP HCM.
+ Trên cơ sở đó, xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu để nâng cao NLLĐ và SCĐ của các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM.
-Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM . Các số liệu dùng để phân tích thực trạng các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn được tác giả khảo sát và tổng hợp theo báo cáo hàng năm của Ban tổ chức và Ủy ban kiểm tra Huyện Ủy huyện Hóc Môn từ năm 2001 đến 2004.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhất là về NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ. Đồng thời, Luận văn còn dựa trên cơ sở thực tiễn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng ở huyện Hóc Môn, TP HCM để rút ra những vấn đề cơ bản phục vụ cho luận văn.
-Phương pháp nghiên cứu: Tác giả luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênnin để thực hiện đề tài. Đối với những phương pháp nghiên cứu cụ thể, tác giả tập trung sử dụng: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp khảo sát kết hợp với điều tra, phương pháp lôgic, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp quy nạp, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn v.v
5. Những đóng góp mới của Luận văn
-Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả đã xây dựng khái niệm về NLLĐ của chi bộ ấp, xây dựng những tiêu chí đánh giá chất lượng NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp.
- Đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những nguyên nhân những kết quả làm được, những tồn tại, hạn chế đối với NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM.
-Tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm góp phần nâng cao NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
-Cung cấp luận cứ khoa học và làm tài liệu tham khảo trong quá trình nâng cao NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn nói riêng và TP HCM nói chung trong thời gian tới.
-Những kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng cho các trường chính trị; đồng thời làm tài liệu bồi dưỡng cho các cấp ủy, nhất là những chi ủy viên và đảng viên của chi bộ ấp.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần phụ lục và mở đầu, kết luận, những công trình tác giả đã công bố, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03 chương, 08 tiết.
113 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4760 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM hiện nay: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta nhất quán xác định “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN là sự nghiệp cách mạng to lớn được thực hiện trong điều kiện vừa có thời cơ và thuận lợi, vừa có khó khăn và thách thức đan xen. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục xây dựng và chỉnh đốn bảo đảm cho Đảng thực sự vững mạnh ngang tầm với nhiệm vụ trong tình hình mới.
Chi bộ nói chung và chi bộ ấp nói riêng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở địa bàn dân cư, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân. Chi bộ ấp có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống tổ chức và hoạt động của Đảng; trong quá trình thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhận thức được vị trí, vai trò và tầm quan trọng đó, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến việc củng cố, xây dựng và chỉnh đốn Đảng để nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ nói chung và chi bộ ấp nói riêng; nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết TW 3 (khóa VII ) về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng” và Nghị quyết TW 6 lần 2 ( khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Qua thời gian thực hiện, chất lượng của các TCCSĐ nói chung và chi bộ ấp nói riêng đã được nâng lên, số lượng chi bộ ấp trong sạch vững mạnh ngày càng tăng, số lượng chi bộ ấp yếu kém giảm dần. Nhiều chi bộ ấp đã lãnh đạo và thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, góp phần to lớn trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, trong thực hiện QCDCCS, trong phong trào tự quản của cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra trong tình hình mới hiện nay, vẫn còn không nhỏ số lượng chi bộ ấp chưa đủ NLLĐ và SCĐ ngang tầm với nhiệm vụ mới. Tình trạng mất đoàn kết, kèn cựa, thiếu hợp tác trong cấp ủy vẫn còn xảy ra; chế độ sinh hoạt, chế độ tự phê bình và phê bình không được duy trì thường xuyên và nghiêm túc; nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được tôn trọng; vẫn còn đ ảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống vẫn còn. Nhiều vụ việc tiêu cực, vi phạm điều lệ Đảng và pháp luật không được phát hiện và xử lý kịp thời; một số vụ việc phát hiện nhưng việc xử lý không đến nơi, đến chốn. Đáng chú ý là tình trạng chạy theo thành tích, phô trương hình thức vẫn còn xảy ra phổ biến, có nhiều chi bộ ấp đạt “trong sạch, vững mạnh” nhưng thực tế chất lượng và hiệu quả của thực hiện nhiệm vụ thấp.
Trong những năm gần đây, Đảng bộ huyện Hóc Môn đã rất chú trọng tới công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhìn chung các chi bộ ấp đã có chuyển biến tích cực; số lượng chi bộ ấp trong sạch, vững mạnh ngày càng nhiều góp phần to lớn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đã đề ra, nhất là trong phát triển kinh tế - xã hội, trong CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn tr.
Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế NlLĐ và SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, để từ đó xây dựng những giải pháp nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới là rất cần thiết và cấp bách cả về lý luận lẫn thực tiễn. Với những lý do nói trên, tác giả chọn đề tài “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM hiện nay- thực trạng và giải pháp” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết TW 3 (khóa VII) về “ Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng” và Nghị quyết TW 6 lần 2 ( khóa VIII) về “ Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Chính vì vậy, có rất nhiều cá nhân, tập thể và cơ quan khoa học đã chọn đề tài nâng cao NLLĐ và SCĐ để nghiên cứu khoa học, khai thác và sử dụng kết quả này. Nổi bật trong số những bài viết, công trình liên quan trong những năm gần đây:
-Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng và những yêu cầu xây dựng TCCSĐ ở nông thôn một số tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc nước ta hiện nay”, do tác giả Nguyễn Minh Bích làm chủ nhiệm, Hà Nội, tháng 10 năm 1998. Đề tài tập trung phân tích thực trạng TCCSĐ và xây dựng một số giải pháp để củng cố và kiện toàn các TCCSĐ ở vùng núi, cao phía Bắc tổ quốc.
- Đề tài luận án phó tiến sĩ về “Nâng cao chất lượng TCCSĐ nông thôn( cấp xã) vùng đồng bằng sông Hồng” của tác giả Đỗ Ngọc Ninh( 1995). Tác giả tập trung phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng và đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng TCCSĐ ở vùng đồng bằng sông Hồng.
- Đề tài luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Ái (2001) “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”. Tác giả tập trung làm những rõ cơ sở lý luận và thực trạng NLLĐ và SCĐ, từ đó tác giả đưa ra những những giải pháp cơ bản để nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ ở nông thôn vùng cao phía Bắc.
- Một số đề tài luận văn thạc sĩ: “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các Đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai đọan hiện nay” của tác giả Dương Trung Ý (2002); “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các chi bộ phân đội chiến đấu phòng không thuộc quân chủng phòng không- không quân trong giai đọan hiện nay” của tác giả Nguyễn Học (2001); “Năng lực lãnh đạo và SCĐ của tổ chức cơ sở Đảng nông thôn vùng có đông đồng bào công giáo ở tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay- Thực trạng và giải pháp” của tác giả Bùi Hữu Dược( 2003); “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các tổ chức cơ sở Đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh hiện nay” của tác giả Phùng Đức Thái (2000); “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các tổ chức cơ sở Đảng nông thôn tỉnh Long An hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Dũng (2000)v.v…
Ngoài một số bài viết được đăng tải trên các sách báo, tạp chí còn có một số sách tham khảo: “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của Đảng trong thời kỳ mới”GS,TS Nguyễn Phú Trọng, PGS,TS Tô Huy Rứa và PGS, TS Trần Khắc Việt đồng chủ biên-Nxb CTQG-Hà Nội-2004; “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các Đảng bộ phường ở thủ đô Hà Nội hiện nay” của tập thể tác giả, PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội- năm 2004 v.v…
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn về TCCSĐ. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đi sâu nghiên cứu NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp; có thể nói “Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các chi bộ ấp ở hyện Hóc Môn, TP HCM hiện nay- thực trạng và giải pháp” là đề tài khoa học đầu tiên nghiên cứu về chi bộ ấp ở TP HCM .
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Mục đích của luận văn là góp phần nâng cao NLLĐ và SCĐ của các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM trong giai đoạn hiện nay.
- Để đạt được mục đích đó, luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ những vấn đề lý luận và quan điểm nâng cao NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp: khái niệm, xây dựng tiêu chí đánh giá v.v…
+ Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế và những kinh nghiệm trong thời gian qua của NLLĐ và SCĐ của các chi bộ ấp huyện Hóc Môn, TP HCM.
+ Trên cơ sở đó, xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu để nâng cao NLLĐ và SCĐ của các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM.
-Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM . Các số liệu dùng để phân tích thực trạng các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn được tác giả khảo sát và tổng hợp theo báo cáo hàng năm của Ban tổ chức và Ủy ban kiểm tra Huyện Ủy huyện Hóc Môn từ năm 2001 đến 2004.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhất là về NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ. Đồng thời, Luận văn còn dựa trên cơ sở thực tiễn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng ở huyện Hóc Môn, TP HCM để rút ra những vấn đề cơ bản phục vụ cho luận văn.
-Phương pháp nghiên cứu: Tác giả luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênnin để thực hiện đề tài. Đối với những phương pháp nghiên cứu cụ thể, tác giả tập trung sử dụng: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp khảo sát kết hợp với điều tra, phương pháp lôgic, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp quy nạp, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn v.v…
5. Những đóng góp mới của Luận văn
-Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả đã xây dựng khái niệm về NLLĐ của chi bộ ấp, xây dựng những tiêu chí đánh giá chất lượng NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp.
- Đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những nguyên nhân những kết quả làm được, những tồn tại, hạn chế đối với NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM.
-Tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm góp phần nâng cao NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, TP HCM.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
-Cung cấp luận cứ khoa học và làm tài liệu tham khảo trong quá trình nâng cao NLLĐ và SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn nói riêng và TP HCM nói chung trong thời gian tới.
-Những kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng cho các trường chính trị; đồng thời làm tài liệu bồi dưỡng cho các cấp ủy, nhất là những chi ủy viên và đảng viên của chi bộ ấp.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần phụ lục và mở đầu, kết luận, những công trình tác giả đã công bố, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03 chương, 08 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ
SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CHI BỘ ẤP
1.1. CHI BỘ ẤP LÀ HẠT NHÂN CHÍNH TRỊ Ở ĐỊA BÀN DÂN CƯ, LÀ CẦU NỐI GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN
1.1.1. Vị trí, vai trò, tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của chi bộ
1.1.1.1. Vị trí, vai trò
C.Mác và Ph.Ăngghen ngay từ khi xây dựng tổ chức cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân đã chỉ ra vị trí, vai trò đặc biệt của chi bộ Đảng. Thật vậy, ngay khi tham gia vào việc cải tổ “Đồng minh những người chính nghĩa” (1836) thành “Liên đoàn những người cộng sản” (1847 – 1852) điều lệ đã được khởi thảo. Thông qua điều lệ, những quan điểm và tư tưởng cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen về xây dựng Đảng đã được trình bày khá đầy đủ. Lần đầu tiên luận điểm xây dựng Đảng đã xác định “về cơ cấu, liên đoàn, chi bộ, khu bộ, tổng bộ, Ban chấp hành trung ương và Đại hội ( 37, tr .733(.
Đối với tổ chức và hoạt động của Liên đoàn cũng được quy định hết sức chặt chẽ: Để trở thành hội viên của Liên đoàn, ngoài các điều kiện cần, còn nhất thiết phải có “được một chi bộ nhất trí kết nạp”, “việc kết nạp hội viên mới của liên đoàn do chủ tịch chi bộ và hội viên giới thiệu của liên đoàn tiến hành, với điều kiện là đã có sự đồng ý trước của chi bộ”( 37, tr.732- 733(. Điều đó cho thấy, hội viên của Liên đoàn phải sinh hoạt ở một tổ chức cấp cơ sở của Liên đoàn đó là chi bộ. Hơn nữa, điều lệ không những quy định đối với hội viên mà còn có cả đối với tổ chức của chi bộ: “Chi bộ gồm ít nhất là 3 và nhiều nhất là 20 hội viên của liên đoàn”, “…… sống trong cùng một địa phương”. Đối với lãnh đạo và cơ quan lãnh đạo của liên đoàn được tiến hành dân chủ, lãnh đạo kịp thời và bắt đầu từ chi bộ.
Mỗi chi bộ bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch…Các Chủ tịch và Phó Chủ tịch của các chi bộ ấy họp thành Ban Chấp hành khu bộ. Ban Chấp hành bầu ra người lãnh đạo trong số ủy viên của mình. Ban Chấp hành khu bộ liên lạc với các chi bộ của mình và với tổng bộ. Ban Chấp hành khu bộ là cơ quan quyền lực đối với tất cả các chi bộ thuộc khu bộ ( 37, tr 733-734(
Như vậy, những tư tưởng, quan điểm lãnh đạo, tổ chức và trong thực hiện lãnh đạo của hai Ông về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của chi bộ đã khẳng định:
Để khỏi tụt xuống làm vai trò của kẻ vỗ tay, hoan nghênh bọn dân chủ tư sản, công nhân và trước hết là liên đoàn phải cố gắng thành lập song song với phái dân chủ chính thức một tổ chức Đảng riêng biệt, bí mật và công khai của công nhân và biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của các Hội liên hiệp công nhân [ 39, tr. 348(.
Những tư tưởng quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen, được VI.Lênin lấy làm cơ sở, vận dụng, phát triển có sáng tạo thành hệ thống những tư tưởng, quan điểm về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Nga. Cơ sở của Đảng vô sản của nước Nga là “liên minh đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân” do V.I.Lênin thành lập năm 1858. Trong tác phẩm “về việc cải tổ Đảng” và nhiều tác phẩm khác của Người, cũng như trong bài báo “Đi vào con đường thẳng”, Người đã thể hiện tư tưởng xuyên suốt là các chi bộ Đảng ở các công xưởng, nhà máy là nền tảng, trên đó cả tòa nhà của Đảng Bônsêvích được xây dựng. V.I. Lênin đã nhấn mạnh và đặc biệt quan tâm đến việc thành lập chi bộ Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga ở nhà máy, công xưởng, các địa phương và coi trọng việc xây dựng các chi bộ đã trở thành hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở.
Những chi bộ Đảng ở các địa phương và nhất là ở các nhà máy dưới sự lãnh đạo của các phần tử tiên tiến xuất thân ngay từ hàng ngũ công nhân và sâu sát với quần chúng. Đó là cơ sở mà trên đó chúng ta đã xây dựng và xây dựng hạt nhân vững chắc không gì lay chuyển nổi của phong trào công nhân cách mạng và dân chủ - xã hội .( 35, tr .8(.
Với V.I.Lênin, tổ chức Đảng được xây dựng ở nhà máy, công xưởng phải trở thành chỗ dựa cho công tác tuyên truyền, cổ động và công tác tổ chức thực tiễn trong quần chúng. Chính từ đặc điểm đó, chi bộ Đảng đã trở thành cầu nối Đảng với các cơ quan cấp trên của Đảng với quần chúng, trực tiếp liên hệ với quần chúng, là nơi phản ánh kịp thời tâm tư nguyện vọng và những kiến nghị chính đáng của quần chúng với Đảng. Đến Cách mạng Tháng Mười Nga, ngoài những chi bộ ở nhà máy, công xưởng còn có các chi bộ theo lãnh thổ, ở các câu lạc bộ. Chính điều này, đã thể hiện quan điểm nhất quán của Người và là một đòn giáng vào những lời nói ấu trĩ của bọn tư sản cho rằng Đảng Bônsêvích hình như được xây dựng không phải như một Đảng của giai cấp công nhân mà chỉ là một Đảng tri thức.
Để khẳng định quan điểm, tư tưởng nhất quán đó, Hội nghị lần thứ VIII toàn Nga của Đảng Cộng sản Nga (đây là hội nghị đầu tiên sau khi cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi và chính quyền Xô Viết được thành lập) Điều lệ Đảng đã được bổ sung và khẳng định: “Cơ sở của tổ chức Đảng là chi bộ Đảng”. Điều lệ còn nói rõ: “Các chi bộ được thành lập ở các xí nghiệp, các làng, các đơn vị Hồng quân và các cơ quan”.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, thực tiễn hơn 70 năm xây dựng và trưởng thành đã khẳng định: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trung thành với những tư tưởng, quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về Đảng và đã vận dụng những quan điểm tư tưởng ấy một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế nước ta để xây dựng Đảng; đồng thời, thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, khái quát lên tầm lý luận, bổ sung làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác – Lênin về xây dựng Đảng.
Mặc dù ra đời ở một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến, giai cấp công nhân còn nhỏ bé nhưng ngay từ đầu, Đảng ta đã xác định vị trí của Đảng và hệ thống tổ chức của Đảng. Điều lệ đầu tiên Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định: “Chi bộ gồm tất cả đảng viên trong một nhà máy, một công xưởng, một hầm mỏ, một sở xe lửa, một chiếc tàu, một đồn điền, một đường phố….”( 20, tr. 22(. Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định: “Căn bản tổ chức của Đảng là chi bộ (nhà máy, công sở, nhà buôn, trường học).. tất cả Đảng viên làm ở trong những chỗ ấy đều phải dựa vào chi bộ” ( 9, tr. 72 (.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập tổ chức Đảng phân tích khá sâu sắc vị trí, vai trò của chi bộ: “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt” ( 43, tr. 210(. Người còn nhấn mạnh mối quan hệ giữa chất lượng chi bộ với chất lượng toàn Đảng. Theo Người, để lãnh đạo cách mạng thì Đảng phải mạnh “Đảng mạnh là do chi bộ tốt” ( 43, tr. 210(, “chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”, ngược lại “xây dựng chi bộ tốt, cho vững mạnh là một việc vô cùng quan trọng” ( 43, tr. 77(. Như vậy, chất lượng của chi bộ có quan hệ chặt chẽ và biện chứng với chất lượng của Đảng. Đối với quần chúng, Người viết “chi bộ là gốc rễ của Đảng trong quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến bộ không ngừng. Trái lại, chi bộ yếu kém thì công việc không trôi chảy” ( 42, tr. 161(.
Trong quá trình xây dựng Đảng, Đảng ta luôn luôn xác định chi bộ có một vị trí, vai trò quan trọng: là hạt nhân lãnh đạo chính trị, là cầu nối quan trọng giữa Đảng với quần chúng, vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Đồng chí Lê Duẩn - cố Tổng Bí thư của Đảng đã viết:
Nói đến xây dựng Đảng, trước hết phải nói đến xây dựng chi bộ, vì chi bộ là tổ chức cơ sở Đảng, là nơi gắn liền Đảng với quần chúng, là nơi vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng… Chi bộ còn là nơi giáo dục rèn luyện Đảng viên, mọi nhân tài của Đảng, trước hết nảy nở ở chi bộ và từ đó mà đưa dần lên cấp lãnh đạo Đảng từ huyện, tỉnh cho tới Trung ương ( 14, tr.154(.
Quán triệt chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã vận dụng thành công vào thực tiễn công tác xây dựng Đảng, nhất là tổ chức cơ sở Đảng đảm bảo cho Đảng ta lãnh đạo con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh để đi đến thắng lợi. Đặc biệt, trong tình hình đổi mới hịên nay, vị trí, vai trò nền tảng của chi bộ Đảng còn được thể hiện hơn bao giờ hết. Thật vậy, qua các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và IX cũng đã thể hiện rõ, cụ thể tại Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội Đảng lần thứ IX thông qua đã xác định: “Tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở, Đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở” ( 17, tr 31(.
Qua những vấn đề đã trình bày ở trên cho thấy, mỗi chi bộ là một tế bào cấu thành cơ thể sống và là yếu tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của toàn Đảng. Hơn nữa, chi bộ không những là tế bào cấu thành cơ thể sống, các chi bộ còn là tế bào cơ sở, nền tảng của toàn bộ sự sống của Đảng gắn chặt với đời sống xã hội. Chính vì vậy, mà chi bộ trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị của Đảng trong quần chúng, trực tiếp đưa đường lối chủ trương của Đảng vào quần chúng và tổ chức thực hiện đường lối ấy, đồng thời qua hiện thực sinh động của cuộc sống, từ tâm tư nguyện vọng của quần chúng để phản ảnh với Đảng. Hơn nữa, chi bộ Đảng là nơi hàng ngày đảng viên sinh hoạt, học tập, chiến đấu, là trường học giáo dục rèn luyện đảng viên, nơi sàng lọc đảng viên và giới thiệu quần chúng ưu tú cho Đảng. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, thực tế cho thấy nơi nào có tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, nội bộ đoàn kết thì nơi đó thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, kịp thời và hiệu quả, kinh tế - xã hội được nâng lên rõ rệt, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững, lòng tin của dân đối với Đảng không ngừng được củng cố và nâng lên, quan hệ Đảng với quần chúng ngày càng thắt chặt. Ngược lại, nơi nào chi bộ yếu kém, mất đoàn kết, đảng viên không gương mẫu và tiên phong thì lòng tin đối với Đảng bị giảm sút, tiềm năng, thế mạnh của địa phương không được khai thác, chủ trương, đường lối của Đảng thực hịên không đến nơi, đến chốn, dân chủ cơ sở không được thực hiện, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm.
1.1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của chi bộ
* Chức năng
Điều 24 Điều lệ Đảng do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX thông qua ngày 22 tháng 4 năm 2001 quy định chức năng của chi bộ như sau:
Chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, giáo dục, quản lý và phân công công tác cho đảng viên, làm công tác vận động quần chúng và công tác phát triển đảng viên, kiểm tra, thi hành kỷ luật Đảng viên, thu nộp Đảng phí. Chi bộ, chi ủy họp thường lê mỗi tháng một lần ( 17, tr. 36(.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của