Từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX, tiểu thuyết Mỹ La tinh xuất hiện
như “quả bom” dội vang dư luận Âu Mỹ khiến người ta ngạc nhiên coi nó như
một hiện tượng thần kì. Văn xuôi Mỹ La tinh nửa thế kỉ trước còn nằm ngoài rìa
nền văn học lớn của nhân loại, nay đột ngột bước lên tiền đài của văn học thế
giới.
Ở Việt Nam, từ năm 1986 khi cuốn Trăm năm cô đơn của G.G Marquez do
Nguyễn Trung Đức dịch và Nxb Văn học ấn hành thì nền văn học khu vực Mĩ
La tinh mới thật sự đến với các độc giả yêu văn học nước ta. Nền văn học có
nhiều điều mới lạ này đã thực sự gây chú ý cho công chúng và thu hút giới
nghiên cứu phê bình văn học trong nước. Văn học Mĩ La tinh là một truyền
thống văn chương dù còn khá non trẻ nhưng vô cùng đặc sắc bên cạnh các
truyền thống văn chương danh tiếng khác như Nga, Anh, Pháp, Trung Quốc,
Bắc Mỹ. Nền văn học này đã phản ánh được tâm thức của con người dân tộc
mình, vấn đề của thời đại và sáng tạo nên những thành tựu nghệ thuật mới.
Khi nói đến văn học Mỹ La tinh, người ta thường hay nhắc đến Chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo – chủ nghĩa hiện thực mang màu sắc Mỹ La tinh – như một
thành tựu nổi bật với các tác phẩm của các nhà văn thuộc khuynh hướng này
như: Miguel Angel Asturias, Alejo Carpentier, Jorge Amado, J.L Borges. . . và
nhất là Gabriel Garcia Marquez. Chúng ta không phủ nhận chủ nghĩa hiện thực
huyền ảo là một khuynh hướng sáng tác nổi bật với nhiều thành tựu, thế nhưng
sức quyến rũ của văn học Mỹ La tinh không chỉ đến từ chủ nghĩa hiện thực
huyền ảo mà chúng ta còn phải kể đến những sáng tác của các tác giả không
thuộc khuynh hướng này, trong số đó Mario Vargas Llosa với giải Nobel văn
chương 2010 là một tên tuổi lớn
146 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết trò chuyện trong quán la catedral của mario Vargas Llosa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Thu Giang
NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT
TRÒ CHUYỆN TRONG QUÁN LA CATEDRAL
CỦA MARIO VARGAS LLOSA
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Thu Giang
NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT
TRÒ CHUYỆN TRONG QUÁN LA CATEDRAL
CỦA MARIO VARGAS LLOSA
Chuyên ngành : Văn học nước ngoài
Mã số : 60 22 02 45
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ văn học với đề tài “Nghệ thuật kể chuyện
trong tiểu thuyết Trò chuyện trong quán La Catedral của Mario Vargas Llosa”
là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Đào Ngọc Chương. Nội dung luận văn chủ
yếu trình bày những kết quả rút ra được từ quá trình nghiên cứu khoa học của
bản thân và không trùng lặp với các đề tài khác. Bên cạnh đó, luận văn có tham
khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin được đăng tải trên các ấn phẩm sách, báo,
tạp chí khoa học, và website theo danh mục tài liệu tham khảo.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2014.
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Giang
LỜI CÁM ƠN
Trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tôi đã
nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và động viên rất quí báu của thầy cô, gia đình và
bạn bè.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và tri ân sâu sắc đến PGS.TS. Đào
Ngọc Chương, người hướng dẫn khoa học đã tận tâm hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình làm luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến quý thầy cô Khoa Văn trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã truyền dạy kiến thức cho tôi trong suốt
năm học vừa qua.
Xin cám ơn các thầy cô Ban giám hiệu, phòng Sau đại học Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời
gian học tập tại trường.
Dù bản thân tôi đã có rất nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện luận văn,
song thiếu sót là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự góp
ý của quý thầy cô, anh chị em đồng nghiệp và các bạn.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2014
Nguyễn Thị Thu Giang
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN ............................... 20
1.1. Cốt truyện phân rã – lồng khung ............................................................... 20
1.2. Cốt truyện song hành – tịnh tiến ............................................................... 28
1.3. Sự giao nhau giữa các tuyến truyện .......................................................... 42
1.4. Lối đón trước ............................................................................................. 48
Chương 2. PHƯƠNG THỨC KỂ CHUYỆN .................................................. 53
2.1. Người kể chuyện ....................................................................................... 53
2.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất........................................................... 53
2.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ ba .............................................................. 57
2.1.3. Sự đan xen linh hoạt giữa các ngôi kể ................................................ 66
2.2. Điểm nhìn .................................................................................................. 70
2.2.1. Điểm nhìn bên trong – điểm nhìn chủ đạo ......................................... 71
2.2.2. Điểm nhìn bên ngoài ........................................................................... 80
2.2.3. Sự di động điểm nhìn .......................................................................... 83
2.3. Lời kể ........................................................................................................ 89
2.3.1. Lời kể đan xen giữa hồi tưởng và liên tưởng ...................................... 89
2.3.2. Lời kể đan xen giữa ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại ........ 92
Chương 3. THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT ................... 103
3.1. Thời gian nghệ thuật ............................................................................... 103
3.1.1. Thời gian đồng hiện đa tầng ............................................................. 104
3.1.2. Thời gian kéo căng – dồn nén ........................................................... 109
3.2. Không gian nghệ thuật ............................................................................ 114
3.2.1. Không gian bên ngoài và không gian bên trong ............................... 115
3.2.2. Không gian đồng hiện đa tầng .......................................................... 126
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 130
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 135
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng thống kê số lần xuất hiện của kiểu kết cấu
“Những vòng tròn đồng tâm” ........................................................... 44
Bảng 2.2. Tần số xuất hiện của hai từ “hắn nghĩ” trong tiểu thuyết
Trò chuyện trong quán La Catedral ................................................. 93
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Sơ đồ cốt truyện tiểu thuyết Trò chuyện trong quán La Catedral ... 23
Hình 2.2. Kiểu kết cấu “Những vòng tròn đồng tâm” trong tiểu thuyết
Trò chuyện trong quán La Catedral ................................................. 46
Hình 2.3. Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa nhân vật Ambrosio với các nhân
vật khác và giữa các nhân vật với nhau ............................................ 69
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX, tiểu thuyết Mỹ La tinh xuất hiện
như “quả bom” dội vang dư luận Âu Mỹ khiến người ta ngạc nhiên coi nó như
một hiện tượng thần kì. Văn xuôi Mỹ La tinh nửa thế kỉ trước còn nằm ngoài rìa
nền văn học lớn của nhân loại, nay đột ngột bước lên tiền đài của văn học thế
giới.
Ở Việt Nam, từ năm 1986 khi cuốn Trăm năm cô đơn của G.G Marquez do
Nguyễn Trung Đức dịch và Nxb Văn học ấn hành thì nền văn học khu vực Mĩ
La tinh mới thật sự đến với các độc giả yêu văn học nước ta. Nền văn học có
nhiều điều mới lạ này đã thực sự gây chú ý cho công chúng và thu hút giới
nghiên cứu phê bình văn học trong nước. Văn học Mĩ La tinh là một truyền
thống văn chương dù còn khá non trẻ nhưng vô cùng đặc sắc bên cạnh các
truyền thống văn chương danh tiếng khác như Nga, Anh, Pháp, Trung Quốc,
Bắc Mỹ. Nền văn học này đã phản ánh được tâm thức của con người dân tộc
mình, vấn đề của thời đại và sáng tạo nên những thành tựu nghệ thuật mới.
Khi nói đến văn học Mỹ La tinh, người ta thường hay nhắc đến Chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo – chủ nghĩa hiện thực mang màu sắc Mỹ La tinh – như một
thành tựu nổi bật với các tác phẩm của các nhà văn thuộc khuynh hướng này
như: Miguel Angel Asturias, Alejo Carpentier, Jorge Amado, J.L Borges. . . và
nhất là Gabriel Garcia Marquez. Chúng ta không phủ nhận chủ nghĩa hiện thực
huyền ảo là một khuynh hướng sáng tác nổi bật với nhiều thành tựu, thế nhưng
sức quyến rũ của văn học Mỹ La tinh không chỉ đến từ chủ nghĩa hiện thực
huyền ảo mà chúng ta còn phải kể đến những sáng tác của các tác giả không
thuộc khuynh hướng này, trong số đó Mario Vargas Llosa với giải Nobel văn
chương 2010 là một tên tuổi lớn. Cây bút người Peru này cùng với Gabriel
Garcia Marquez được đánh giá là hai con sư tử lớn của nền văn học Mỹ La tinh.
2
Trong sự nghiệp sáng tác dồi dào kéo dài nửa thế kỷ của ông, các tác phẩm
thường được nhắc đến là Conversación en la Catedral (Trò chuyện trong quán
La Catedral– 1969), La guerra del fin del mundo (Chiến tranh ở ngày tận thế –
1981) và La fiesta del chivo (Lễ hội của loài dê – 2000). . .Trong số đó, quyển
tiểu thuyết Trò chuyện trong quán La Catedral chiếm một vị trí đặc biệt vì nó đã
góp phần đưa Vargas Llosa đến với Giải Nobel văn học bởi “những lí giải về
cấu trúc quyền lực và hình ảnh sắc bén về sự kháng cự, nổi dậy và thất bại của
con người cá nhân” [48]. Ông đã từng nói về đứa con tinh thần của mình như
sau: “Trong tất cả các cuốn tiểu thuyết tôi đã viết trong những năm ấy, nó là
một cuốn ít thành công nhất khi mới ra mắt. Nhưng dần dần nó tìm được đường
đi của nó, nó chưa bao giờ ngưng sống, nó đã được tái bản đi tái bản lại. Tôi tin
rằng cuối cùng nó sẽ là cuốn sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất của tôi”
[47].
Trò chuyện trong quán La Catedral là một cuốn tiểu thuyết làm cho người
đọc sững sờ vì tầm vóc và say mê vì từng khung cảnh, chi tiết. Nó đồ sộ và nguy
nga như một giáo đường (La Catedral). Nếu trong Ulysses1, James Joyce tìm
cách đưa ra bức tranh chính trị – xã hội của cả nước Ireland trong một ngày độc
nhất, thì Mario Vargas Llosa tìm cách xây dựng bức tranh chính trị – xã hội của
toàn bộ một châu lục gói gọn trong cuộc trò chuyện trong vòng một buổi chiều.
Với những mảng hiện thực ngổn ngang nhiều tầng lớp, Llosa đã sáng tạo ra một
lối kể chuyện vô cùng độc đáo và tài tình. Những sự đổi mới về cốt truyện,
phương thức kể chuyện cũng như cách xử lí không gian và thời gian đã có
những đóng góp quan trọng trong việc hình thành diện mạo và phong cách trần
1
Ulysses là tiểu thuyết của James Joyce xuất bản lần đầu năm 1922. Tác phẩm được tạp chí Time đánh
giá là một trong số những kiệt tác văn chương lớn nhất thế giới thế kỷ 20. Với ẩn dụ về sử thi
Odysseus, thủ pháp dòng ý thức và nội dung được nén chặt bằng những sự kiện miên man trôi theo
suy tưởng của các các nhân vật diễn ra chỉ trong một ngày: 16 – 6 –1904.
3
thuật của Mario Vargas Llosa. Sự hấp dẫn và sức hút của quyển tiểu thuyết này
có được là bởi nghệ thuật kể chuyện độc đáo của tác giả. Và có lẽ vì điều đó mà
cho đến thời điểm hiện tại, Mario Vargas Llosa cùng với tiểu thuyết Trò chuyện
trong quán La Catedral vẫn là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều nhà phê bình
nghiên cứu trong và ngoài nước khi tiến hành khảo sát phong cách nghệ thuật
của nhà văn nói riêng và tìm hiểu về văn học Mỹ La tinh nói chung.
Tự sự học (Narratology) là một lĩnh vực nghiên cứu đặc thù của lí luận văn
học, lấy nghệ thuật tự sự làm đối tượng, phần nào đó tương ứng với “thi học”
nghĩa hẹp, là lĩnh vực lấy nghệ thuật thi ca làm đối tượng nghiên cứu. Bộ môn
khoa học này vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa rộng
nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề liên quan hoặc nói cách
khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật của văn bản tự sự nhằm tìm một cách
đọc.
Tự sự học từ lâu đã trở thành một bộ môn nghiên cứu liên ngành, có tính
quốc tế và có vị trí ngày càng quan trọng trong lĩnh vực văn học và khoa học
nhân văn. Lí thuyết tự sự ngày càng được quan tâm phổ biến và trở thành một
sản phẩm thực dụng, cụ thể của làn sóng lớn trong lí thuyết văn hóa về văn học.
Lí thuyết tự sự có thể coi như một bộ phận không thể thiếu của hành trang
nghiên cứu văn học hôm nay, và nói theo ngôn ngữ của Thomas Kuhn, thì đó là
một bộ phận cấu thành của hệ hình lí luận hiện đại.
Vì những lí do trên, người viết chọn đề tài “Nghệ thuật kể chuyện trong
tiểu thuyết Trò chuyện trong quán La Catedral của Mario Vargas Llosa” với
mong muốn sẽ học tập, vận dụng kiến thức tự sự học để tìm hiểu và khám phá
những yếu tố “ma lực” cuốn hút trong từng trang văn của tiểu thuyết này đồng
thời giới thiệu một nhà văn lớn, một phong cách văn học độc đáo đến với độc
giả Việt Nam.
4
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Về nhà văn Mario Vargas Llosa
Đáng chú ý trong số những tài liệu nghiên cứu về Mario Vargas Llosa
chính là bài viết Mario Vargas Llosa, tông đồ của cá nhân và chủ nghĩa tự do
của tác giả Đỗ Tuyết Khanh [40]. Bài viết cung cấp cho người đọc những thông
tin khá đầy đủ và chi tiết về cuộc đời tác giả cũng như quá trình thay đổi quan
điểm chính trị từ phái tả sang phái hữu. Bên cạnh đó, Đỗ Tuyết Khanh cũng
nhấn mạnh Mario Vargas Llosa là một trí thức dấn thân, sự nghiệp sáng tác của
ông vô cùng đa dạng và phong phú. Kèm theo bài viết là danh mục các tác phẩm
của Llosa xếp theo thứ tự thời gian. Nếu độc giả muốn tìm kiếm một tài liệu
nghiên cứu ngắn gọn nhưng đầy đủ về giải Nobel văn chương 2010 thì có thể
nói bài viết của Đỗ Tuyết Khanh đáp ứng khá đầy đủ những yêu cầu đó.
Mario Vargas Llosa tên thật là Jorge Mario Pedro Vargas Llosa. Ông sinh
ngày 28 tháng 3 năm 1936 tại Arequipa, một thành phố phía Nam Peru. Cha ông
là Ernesto Vargas Maldonado và mẹ là bà Dora Llosa Ureta. Cha mẹ ông li dị
nhau ngay từ trước khi Mario được sinh ra, vì vậy cậu bé sống với mẹ và ông bà
ngoại ở Cochabamba (Bolivia). Gia đình dời về Peru khi ông cụ về làm công
chức ở đây. Năm 1947, cha mẹ Mario quyết định tái hợp và định cư ở Lima, thủ
đô của Peru. Mario theo học trường Thiên chúa giáo tại Lima và sau đó được
cha gửi vào Học viện quân sự Leoncio Prado. Sau này, nhà văn đã tái hiện lại
ngôi trường trong quyển tiểu thuyết Thành phố và lũ chó (1963).
Tuy nhiên, vì chán ghét cuộc sống ở Học viện quân sự, Llosa đã tự ý bỏ
học một năm trước khi khóa học kết thúc và vào làm cho tờ báo La Industria của
tỉnh Piure. Năm 1953, Vargas Llosa thi vào khoa ngôn ngữ Đại học San Marcos
ở Lima. Chẳng bao lâu sau, ông nhận được học bổng của Đại học San Marcos và
chuyển sang Tây Ban Nha học năm 1958, nơi ông làm luận án tiến sĩ về Ruben
Dario (nhà thơ Nicaragua, khởi xướng dòng văn học hiện đại Mỹ La tinh. Năm
1960, được hứa một khoản trợ cấp cho việc nghiên cứu văn học, Llosa chuyển
5
sang Paris sinh sống, dạy học và cộng tác với thông tấn xã Agence France
Presse và Đài truyền hình Pháp. Khi đó, ông thành hôn với người họ hàng bên
ngoại là bà Julia Urquidi lớn hơn ông 19 tuổi. Năm 1964, ông chia tay người vợ
đầu, lấy một người chị họ khác là Patricia Llosa. Từ năm 1969 – 1970, ông sống
và giảng dạy ở Anh rồi Tây Ban Nha, trước khi chính thức bắt tay vào hoạt động
văn học chuyên nghiệp.
Cuộc đời viết văn của ông bắt đầu với tác phẩm Los Jefes (The Cubs and
Other Stories, 1959) phát hành ở Barcelona năm 1959 nhưng tên tuổi ông chỉ
nổi lên trên văn đàn thế giới với quyển La Ciudad y los Perros (Thành phố và lũ
chó - 1963), kể lại những gì ông đã trải qua tại trường quân sự Leoncio Prado và
gây nhiều tranh cãi ở Peru. Các sĩ quan của trường đã tổ chức đốt trước công
chúng 1000 bản cuốn tiểu thuyết này. Ngay từ khi mới 31 tuổi (1967), ông đã
đạt giải thưởng quốc tế “Rómulo Gallegos” được trao tặng năm năm một lần
cho tác phẩm hay nhất viết bằng tiếng Tây Ban Nha. Sau đó, ông cho ra mắt liên
tiếp ba, bốn năm một cuốn sách và cuốn nào cũng là một “sự kiện”.
Sau khi sống ở Paris, Lima, Luân Đôn và Barcelona, ông quay trở lại
Lima năm 1974 và được bầu vào Viện hàn lâm Peru năm 1975. Ông đã giảng
dạy tại nhiều đại học ở Mỹ, châu Mỹ La tinh và châu Âu. Năm 1990, ông ra
tranh cử tổng thống ở Peru dưới lá cờ của liên minh FREDEMO nhưng thất bại.
Năm 1994, ông là người châu Mỹ La tinh đầu tiên được bầu vào Viện hàn lâm
Tây Ban Nha, và chia thời gian sống giữa Barcelona, Madrid, Lima, Paris và
Luân Đôn. Ông cũng từng là giáo sư thỉnh giảng cho các khoá học mùa thu tại
Đại học Princeton ở Mỹ.
Đối với Mario Vargas Llosa, giải Nobel là phần thưởng tột đỉnh và duy
nhất còn thiếu cho đến nay trong danh sách các thành tích. Ông đã đoạt nhiều
giải quan trọng của văn học tiếng Tây Ban Nha như Premio Internacional de
Literatura Rómulo Gallegos (1967), Premio Príncipe de Asturias (1986),
Premio Cervantes (1994) và Premio Ortega y Gasset de Periodismo (1999), và
6
các giải quốc tế như PEN/Nabokov (2002) và Grinzane Cavour (2004), và như
ông tự nói: giải thưởng lớn nhất trong đời chính là niềm đam mê và lòng quyết
tâm theo đuổi nghề văn. Ông cũng đã nhiều lần được phong bằng tiến sĩ danh
dự, trong đó đáng kể nhất ngoài các đại học của Tây Ban Nha và châu Mỹ La
tinh còn có các trường đại học danh tiếng khác trên thế giới như: Oxford (năm
2003), Harvard (1999) và Sorbonne nouvelle Paris 3 (2003).
Sự nghiệp văn chương của Vargas Llosa là một dòng chảy liên tục, đa
dạng và phong phú. Danh mục các tác phẩm của ông cho tới nay hơn 60 quyển
và bao gồm đủ mọi thể loại: tiểu thuyết, kịch, tiểu luận, bài báo, biên khảo, phê
bình văn học. . . Sách của ông đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, kể cả tiếng Hoa,
Do Thái và Ả Rập. Những quyển tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông thường hay
được nhắc đến là: Conversación en La Catedral (Trò chuyện trong quán La
Catedral, 1969), Pantaléon y las Visitadoras (Pantaléon và các nữ du khách,
1973), La tía Julia y el Escribidor (Dì Hulia và nhà văn quèn, 1977), La guerra
del fin del mundo (Cuộc chiến tranh nơi tận cùng thế giới, 1981), Historia de
Mayta (Câu chuyện của Mayta, 1984), Quién mató a Palomino Molero ?(Ai đã
giết Palomino Molero, tiểu thuyết hình sự, 1986), El hablador (Người nói
chuyện, 1987), Elogio de la madrastra (Ca ngợi người mẹ kế, 1988), Lituma en
los Andes (Người Lituma ở dãy Andes, 1993), Los cuadernos de don Rigoberto (
Những quyển vở của ông Rigoberto,1997), La fiesta del chivo (Lễ hội của loài
dê, 2000), El paraíso en la otra esquina (Thiên đường nơi góc phố, 2003). Và ở
tuổi 70, lần đầu tiên ông viết cuốn tiểu thuyết tình yêu Travesuras de la ninã
mala (Trò nghịch của gái hư, 2000)Ngoài ra ông còn một số lượng rất lớn
sách tiểu luận về văn học, triết học, chính trị và nhiều tác phẩm sân khấu.
Trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ của ông, những tác phẩm "đã vẽ lên hoạ
đồ của các cấu trúc quyền lực", theo lời của Viện hàn lâm Thụy Điển, là những
tiểu thuyết viết về những chế độ độc tài áp bức như Conversación en la Catedral
(Trò chuyện trong quán La Catedral, 1969), La fiesta del chivo (Lễ hội của loài
7
dê - 2000). Llosa luôn là một kẻ thù cay đắng của những kẻ độc tài và chế độ
độc tài. Trò chuyện trong quán La Catedral vẽ lên bức tranh trầm luân của xã
hội Peru trong tám năm trị vì của chế độ độc tài Odría. Lễ hội của loài dê kể lại
giai đoạn cuối đời của Rafael Leonidas Trujillo, nhà độc tài đã cai trị nước Cộng
Hoà Dominica trong hơn 30 năm trước khi bị ám sát năm 1961, số phận bi thảm
của một dân tộc sống trong khiếp sợ và những thủ đoạn dã man của một chế độ
gia đình trị dùng mọi cách để bảo vệ quyền lực của mình. Mario Vargas Llosa
cũng phân tích ở đây một ý tưởng ông hay nêu lên: những chế độ độc tài không
phải là thiên tai trên trời rơi xuống, mà xuất hiện và tồn tại với sự đồng lõa của
nhiều người, thậm chí sự tiếp tay của chính các nạn nhân, do sự mê hoặc của dân
chúng trước một vị "anh hùng" hay "cứu tinh dân tộc". Trong không khí nặng
nề, lắm khi ngột ngạt, những tác phẩm này vẫn có đây đó vài nét hài hước, có
duyên. Trong những năm về sau, Vargas Llosa khai thác tính trào phúng này
nhiều hơn trong những tác phẩm như Pantaléon y las Visitadoras (Pantaléon và
các nữ du khách, 1973)
Vargas Llosa cũng viết nhiều tác phẩm về cuộc đời và tác phẩm của
những nhà văn mà ông ngưỡng mộ như La Orgía perpetua: Flaubert y "Madame
Bovary" (1975), La Tentación de lo Imposible (2008) viết về Victor Hugo.
García Márquez: Historia de un Deicidio, viết năm 1971 trước khi Mario Vargas
Llosa đoạn tuyệt với Gabo được coi như một biên khảo nổi bật về nhà văn này.
Gần đây hơn, El Paráiso en la otra Esquina (2003) nói về cuộc đời của Flora
Tristan và Paul Gauguin, cháu ngoại của bà, và những khát vọng không toại
nguyện của hai con người sống cách nhau 100 năm nhưng cùng đi tìm một thiên
đàng.
Một chủ đề khác hiện diện trong tất cả các tác phẩm của Mario Vargas
Llosa là bản năng tính dục – cái yếu tố mãnh liệt của sự