Xã hội là một hệ thống toàn vẹn có cấu trúc phức tạp với nhiều yếu tố hợp thành. Với
tính cách là một yếu tố của cấu trúc đó, tôn giáo đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến con
người và xã hội trên cả hai mặt, tích cực và tiêu cực, góp phần tạo nên sắc thái đặc biệt cho
đời sống nhân loại.
Trong lịch sử, vai trò của tôn giáo được đánh giá hết sức khác nhau, thậm chí đối lập
nhau. Tuy nhiên, điểm chung có thể rút ra là, tôn giáo vừa có khả năng cản trở sự phát triển
của con người và xã hội song cũng có thể tạo nên những giá trị có tính tích cực. Vì vậy, việc
nghiên cứu phải hướng đến phát hiện những hợp lý và khiếm khuyết của hiện tượng tôn giáo
và những ảnh hưởng của nó đã, đang và sẽ có đối với lịch sử nhân loại. Và điều này, theo
chúng tôi là thực sự cần thiết trong thời đại ngày nay, khi cùng với sự phát triển của khoa học,
của các trào lưu hiện đại hoá, các tôn giáo trên thế giới đang có xu hướng gắn bó hơn với đời
sống thế tục, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị, văn hoá xã hội và đạo đức, lối sống để tự
điều chỉnh, thích ứng với xu thế của thời đại, mong giữ được thánh địa thiêng liêng của mình
để tiếp tục tồn tại và tồn tại lâu dài.
Thực tế ở Việt Nam, trong quá trình lịch sử lâu dài, bên cạnh những hạn chế nhất định,
tôn giáo đã có những đóng góp tích cực cho nền văn hoá của dân tộc, góp phần tạo nên bản
sắc văn hoá độc đáo của dân tộc Việt Nam.v.v.
Ngày nay, trước những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, tôn giáo ở Việt
Nam đang có những biến động phức tạp theo nhiều chiều hướng. Vì vậy, nhiều vấn đề được
đặt ra, nhất là xung quanh việc đánh giá ảnh hưởng của tôn giáo đến lĩnh vực tinh thần của xã
hội Việt Nam trong thời hiện tại và tương lai như vấn đề ảnh hưởng của tôn giáo với chính trị
hay rộng lớn hơn là ảnh hưởng của tôn giáo với văn hoáv.v.
127 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6723 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối
với lối sống của người Việt Nam hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Xã hội là một hệ thống toàn vẹn có cấu trúc phức tạp với nhiều yếu tố hợp thành. Với
tính cách là một yếu tố của cấu trúc đó, tôn giáo đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến con
người và xã hội trên cả hai mặt, tích cực và tiêu cực, góp phần tạo nên sắc thái đặc biệt cho
đời sống nhân loại.
Trong lịch sử, vai trò của tôn giáo được đánh giá hết sức khác nhau, thậm chí đối lập
nhau. Tuy nhiên, điểm chung có thể rút ra là, tôn giáo vừa có khả năng cản trở sự phát triển
của con người và xã hội song cũng có thể tạo nên những giá trị có tính tích cực. Vì vậy, việc
nghiên cứu phải hướng đến phát hiện những hợp lý và khiếm khuyết của hiện tượng tôn giáo
và những ảnh hưởng của nó đã, đang và sẽ có đối với lịch sử nhân loại. Và điều này, theo
chúng tôi là thực sự cần thiết trong thời đại ngày nay, khi cùng với sự phát triển của khoa học,
của các trào lưu hiện đại hoá, các tôn giáo trên thế giới đang có xu hướng gắn bó hơn với đời
sống thế tục, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị, văn hoá xã hội và đạo đức, lối sống để tự
điều chỉnh, thích ứng với xu thế của thời đại, mong giữ được thánh địa thiêng liêng của mình
để tiếp tục tồn tại và tồn tại lâu dài.
Thực tế ở Việt Nam, trong quá trình lịch sử lâu dài, bên cạnh những hạn chế nhất định,
tôn giáo đã có những đóng góp tích cực cho nền văn hoá của dân tộc, góp phần tạo nên bản
sắc văn hoá độc đáo của dân tộc Việt Nam.v.v..
Ngày nay, trước những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, tôn giáo ở Việt
Nam đang có những biến động phức tạp theo nhiều chiều hướng. Vì vậy, nhiều vấn đề được
đặt ra, nhất là xung quanh việc đánh giá ảnh hưởng của tôn giáo đến lĩnh vực tinh thần của xã
hội Việt Nam trong thời hiện tại và tương lai như vấn đề ảnh hưởng của tôn giáo với chính trị
hay rộng lớn hơn là ảnh hưởng của tôn giáo với văn hoáv.v...
Vấn đề xem xét ảnh hưởng của tôn giáo đối với lối sống, đạo đức cũng được đặt ra và
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Có tình hình đó bởi lẽ, tác động của những mặt
trái của kinh tế thị trường hiện nay đã làm nảy sinh những hành vi lối sống không phù hợp
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiến bộ xã hội. Những hành vi lối sống ấy đã và đang làm
xói mòn giá trị văn hoá truyền thống mà dân tộc ta đã phải mất hàng ngàn năm mới có thể
hình thành được.
Trong các tôn giáo ở Việt Nam, Phật giáo là một tôn giáo lớn được du nhập vào Việt
Nam từ rất sớm. Và nhìn chung, đây là tôn giáo khá gắn bó, đồng hành với dân tộc. Trong quá
trình tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã có đóng góp cho dân tộc trên nhiều
phương diện, đặc biệt là trên lĩnh vực đạo đức, lối sống. Nhiều quy phạm, chuẩn mực đạo đức
Phật giáo đã được người Việt dựa trên cơ tầng văn hoá của mình lựa chọn, tiếp nhận, nâng
cao và sử dụng ở các mức độ và phương diện khác nhau, góp phần hình thành những giá trị,
chuẩn mực trong lối sống của người dân Việt Nam. Có thể nói, tồn tại cùng dân tộc trong hơn
hai ngàn năm qua, Phật giáo đã trở thành một phần không thể thiếu trong nền văn hoá Việt Nam.
Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam theo định hướng xã hội
chủ nghĩa đang bước vào giai đoạn mới - giai đoạn đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và
đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chủ trương phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đã dần đưa nước ta vào thế ổn định và
phát triển.
Phải nói rằng, kinh tế thị trường đã đem lại những thành tựu quan trọng cho sự phát
triển đất nước, nhưng những mặt trái của nó cũng làm xuất hiện và ngày càng gia tăng các
hiện tượng tiêu cực trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, đặc biệt là sự suy thoái của đạo đức,
lối sống. Chủ nghĩa thực dụng tuyệt đối hoá vai trò của đồng tiền, lối sống gấp xa rời lý tưởng
cách mạng đang làm tha hóa đạo đức, lối sống của một bộ phận người trong xã hội, trong đó
có cả các cán bộ Đảng, Nhà nước. Bên cạnh đó, khuynh hướng làm giàu bằng bất cứ giá nào,
kể cả lừa đảo bất chính, gây tội ác, vi phạm pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên lương tâm và nhân
phẩm con người ở một số cá nhân vị kỷ đã và đang tạo nguy cơ làm băng hoại các giá trị văn
hoá, đạo đức và luật pháp.
Đảng ta trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã thẳng thắn chỉ ra rằng:
"Tình trạng quan liêu tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống ở một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy
của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn
của chế độ ta. Tình trạng lãng phí quan liêu còn khá phổ biến"
Thực trạng nói trên đang đặt ra yêu cầu cần phải xây dựng nền đạo đức và lối sống mới
xã hội chủ nghĩa cho con người Việt nam hiện nay. Điều này vừa nằm trong chiến lược phát
triển con người phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nước, vừa góp phần ngăn chặn sự suy
thoái của đạo đức, lối sống. Tuy nhiên, thực trạng nói trên không thể khắc phục được trong
ngày một ngày hai mà đòi hỏi phải được giải quyết bằng cả quá trình cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Trong quá trình xây dựng đạo đức, lối sống mới XHCN thì việc kế thừa những giá trị
trong lối sống truyền thống của dân tộc, trong đó có những đóng góp của các tôn giáo là điều
không thể bỏ qua. Ở đây, đạo đức, lối sống Phật giáo hiện vẫn có những giá trị cần tiếp thu,
kế thừa để xây dựng đạo đức, lối sống mới cho con người Việt Nam hiện nay.
Vì vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện
nay nhằm tìm kiếm các giải pháp phù hợp để phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động
tiêu cực của Phật giáo trong quá trình xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa là việc làm cần
thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Phật giáo là tôn giáo được sinh ra trên đất nước Ấn Độ cổ đại. Không bao lâu sau khi
ra đời, nó đã phát triển rộng khắp các nước thuộc khu vực Châu Á, và ngày nay nó lại đang
lan toả mạnh sang các nước phương Tây. Cùng với quá trình lịch sử, tôn giáo này đã có
những đóng góp đáng kể cho nền văn hoá của nhân loại. Chính vì vậy, Phật giáo và vai trò
của nó trong đời sống xã hội nói chung từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
khoa học không chỉ ở phương Đông mà cả phương Tây. Nhìn chung các nhà khoa học khi
nghiên cứu về Phật giáo đều đánh giá cao những giá trị văn hoá của nó.
Gottlried Wilhelm Leilniz, triết gia người Đức từ thế kỷ 18 trong cuốn sách nhan đề
“Théo dicél” đã bàn về đạo Phật, về lý luận "chân không huyền diệu" của Phật giáo. Tiếp đó
Emmanuel Kant khi nghiên cứu về Phật giáo Tích Lan, Miến Điện, Trung Quốc, Thái Lan,
Nhật Bản cũng đánh giá cao những giá trị đạo đức của tôn giáo này thông qua nhận thức và
hành vi của các vị tu sĩ, qua thuyết “Duyên khởi”, thuyết “Luân hồi” của Phật giáo. Sau
Gottlried Wilhelm Leilniz và Emmanuel Kant, một số triết gia người Đức khác như Schelling,
Hegel, Nietzche, Schopenhaueur… cũng chú ý đến Phật giáo. Nhìn chung, các triết gia người
Đức này đều đánh giá Phật giáo là một tôn giáo cao thâm thể hiện ở các quan niệm của nó về
thế giới và con người như quan niệm: thế giới là vô thủy vô chung, thế giới vận động biến đổi
không ngừng, con người là "vô ngã" vv... Đặc biệt, họ rất chú ý đến quan niệm “Nhân quả,
luân hồi’ trong giáo lý nhà Phật, và cho đây là một trong những điều huyền bí nhất cần khám
phá trong văn hoá phương Đông.
Hai học giả Nga là Thedore Schesbatsky và Otta Rosenberg lại rất lý thú với thuyết
“Nghiệp” của đạo Phật. Hai ông cho rằng, “Nghiệp” chính là điểm trung tâm, là cái làm nên
nét đặc sắc của Phật giáo.
Anhxtanh, nhà bác học vĩ đại của nhân loại, khi nghiên cứu về đạo Phật đã cho rằng,
đây là tôn giáo của tương lai, là tôn giáo của vũ trụ. Ông đánh giá cao quan niệm phủ nhận
thần linh, thượng đế, đánh giá cao thực nghiệm vật chất và tinh thần trong ý thức Phật giáo.
Ông cho rằng, nếu có một tôn giáo nào đó đáp ứng được yêu cầu của khoa học hiện đại thì tôn
giáo đó chính là Phật giáo.
Nhà toán học, kiêm triết học người Anh nổi tiếng Bertarand Rusel lại cho rằng, Phật
giáo là sự kết hợp của hai loại triết học tư biện và khoa học, nó đề cao phương pháp khoa học
và theo đuổi một mục đích có lý trí. Ông cho rằng, Phật giáo có thể thay thế cho khoa học ở
những đoạn đường mà khoa học không đến được do tính không hoàn thiện của những công cụ
khoa học.
Bác sĩ người Anh Graham Howe lại cho rằng, từ hơn 2500 năm trước, Phật giáo đã đề
cập đến những vấn đề về tâm lý học hiện đại. Ông cho rằng, hiện nay, loài người đang phát
triển lại thành quả xưa của trí tuệ phương Đông mà Phật giáo là đại diện.
Còn H.G. Well, nhà sử học nổi tiếng người Anh khi đánh giá về vai trò của Phật giáo
đã cho rằng, Phật giáo đã đóng góp vào sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại nhiều hơn bất
cứ một ảnh hưởng nào khác trong lịch sử nhân loại.
Ở Phương Đông, Phật giáo cũng thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa
học. J.Nerhu trong “Phát hiện Ấn Độ” đã chỉ ra những giá trị nhân đạo, nhân bản trong Phật
giáo, chỉ ra những giá trị mà Phật giáo đã đóng góp cho dân tộc Ấn Độ.
Tại Nhật Bản, Phật giáo được các học giả quan tâm đặc biệt. O.o.Rozenberg trong
“Phật giáo những vấn đề triết học” đã chỉ ra những giá trị nhân sinh Phật giáo. Theo ông,
Phật giáo chứa đựng những giá trị của văn hoá nhân loại cần được tiếp tục kế thừa và phát
huy.
Daisetzteitaro Suzuki, học giả người Nhật trong cuốn “Phật giáo Thiền tông và ảnh
hưởng của nó trên văn hoá Nhật Bản” đã đánh giá rất cao vai trò của thiền trong đời sống xã
hội Nhật Bản. Theo ông, nếu gạt đạo Phật và gạt cả Thiền tông ra thì văn hoá Nhật Bản không
có ý nghĩa gì hết, vì đạo Phật đã ăn sâu vào mạch sống của dân tộc này.
Daisaku Ikêda trong “Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỷ XXI” lại khẳng định vai trò
của tôn giáo nói chung, của Phật giáo nói riêng trong việc khắc phục những khủng hoảng của
xã hội hiện đại.v.v…
Ở Trung Quốc, ngay từ cuối triều đại nhà Thanh, việc nghiên cứu Phật giáo đã rất
thịnh hành trong giới trí thức Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu như Khang Hữu Vi, Đàm Tự
Đồng, Lương Khải Siêu và Chương Thái Niêm đã sử dụng học thuyết Phật giáo như một vũ
khí tư tưởng chống lại các trào lưu tư tưởng sùng bái phương Tây. Chẳng hạn Đàm Tự Đồng
trong cuốn “Về lòng từ bi” đã cho rằng, lòng từ bi của là nguồn gốc của vũ trụ. Ông đã sử
dụng tư tưởng của Thiền tông như một trong các nguồn tư liệu để chứng minh cho luận điểm
nói trên. Theo ông, ý tưởng về lòng từ bi, bình đẳng và vô ngã trong Phật giáo còn là nguồn
giác ngộ và khích lệ đối với tầng lớp trí thức Trung Quốc đương thời.
Trong thời hiện đại, nhiều nhà khoa học Trung Quốc cũng rất chú ý đến vai trò của
đạo Phật trong đời sống xã hội Trung quốc. Họ cho rằng, dường như thế giới quan Phật giáo
đang tạo ra một dòng chảy tâm linh về cái thiện, nó có sức cuốn hút con người, kể cả trẻ em
chưa đến tuổi trưởng thành.
Hàn Thu Hồng và Trình Quảng Vân cho rằng, Phật giáo đã từng có những đóng góp
to lớn cho nền văn hoá Trung quốc và Phật giáo thực sự có vai trò cứu vãn đối với văn hoá
Trung Quốc truyền thống.
Hejingsong thì cho rằng, Phật giáo khi được du nhập vào Trung Quốc đã phá vỡ thứ
kết cấu văn hoá muốn trở thành đơn nhất từ thời Tần, thời Hán trở đi. Và theo ông, thật khó
đánh giá nổi ảnh hưởng của Phật giáo đối với kinh tế, văn hoá, xã hội và cả mô hình tư duy
của người Trung Quốc. Ông cho rằng, trong hiện tại và tương lai, với việc cư sỹ sẽ trở thành
dòng chính của Phật giáo thì những đóng góp của Phật giáo cho xã hội Trung Quốc sẽ còn lớn
hơn nhiều.
Học giả Roul Birnbaum trong “Buddhist China at the Centurys Turn” đã đánh giá
một cách tổng quát về Phật giáo trong suốt chiều dài hơn hai ngàn năm ở Trung Quốc, chỉ ra
những điểm mạnh và những điểm yếu của nó trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Ông cho
rằng, trong giai đoạn hiện nay, với xu hướng thế tục hoá, Phật giáo đang đem lại những tác
động tiêu cực không nhỏ cho đời sống xã hội như: Phật giáo trở thành một sự lựa chọn mang
tính thực dụng, trục lợi của một bộ phận thanh niên, sự thương mại hoá Phật giáo, sự suy
giảm phẩm hạnh ở một bộ phận các nhà tu hành. Bên cạnh mặt tiêu cực nói trên, Roul
Birnbaum cũng đánh giá cao những đóng góp của Phật giáo qua các hoạt động từ thiện nhân
đạo và khẳng định vai trò của Phật giáo trong việc phát triển kinh tế du lịch ở Trung Quốc
hiện nay.
Nhìn chung, các học giả cả phương Tây và phương Đông, khi nghiên cứu về Phật
giáo đều đánh giá cao những giá trị văn hoá đạo đức mà Phật giáo đã đóng góp cho lịch sử
nhân loại. Về cơ bản, những đánh giá của các học giả nói trên đều mang tính khoa học, khách
quan. Tuy nhiên, trong đó không phải không có những quan điểm đã đề cao vai trò của Phật
giáo một cách thái quá.
Ở Việt Nam, từ lâu trong lịch sử, việc nghiên cứu Phật giáo và tác động của Phật giáo
đối với đời sống xã hội nói chung, cũng đã được quan tâm nghiên cứu.
Ngay từ đầu công nguyên, Mâu Tử với “Lý hoặc luận” đã trình bày một cách rất cơ
bản các vấn đề Phật học then chốt như Phật, Pháp, Tăng, Niết bàn, Luân hồi…. Qua tác phẩm
này, ông cũng đã phân tích ảnh hưởng một cách tự nhiên của Phật giáo đối với đời sống tinh
thần của con người Việt Nam.
Sang thế kỷ XIII, khi triều đại phong kiến Việt Nam đang trên đà hưng thịnh, việc
nghiên cứu Phật giáo tiếp tục được đẩy mạnh với các tên tuổi như Trần Thánh Tông, Tuệ
Trung Thượng Sĩ Trần Tung, Trần Nhân Tông… Trần Thánh Tông với “Khoá hư lục” đã
phản ánh khá rõ ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống văn hoá tinh thần Đại Việt. Trần
Nhân Tông qua một loạt tác phẩm của mình cũng khẳng định vai trò của Phật giáo trong đời
sống xã hội, ông muốn phát huy hơn nữa vai trò của tôn giáo này, đồng thời xây dựng một tổ
chức giáo hội chặt chẽ, thống nhất để trở thành trung tâm liên kết toàn xã hội trên lĩnh vực tư
tưởng.
Việc nghiên cứu Phật giáo và vai trò của nó trong đời sống xã hội Việt Nam được tiến
hành liên tục trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc kể cả giai đoạn Phật giáo suy vi (từ thế kỷ
XV đến thế kỷ XIX)
Đặc biệt, từ những năm cuối của thế kỷ XX trở đi đã xuất hiện rất nhiều công trình
khoa học nghiên cứu về Phật giáo, về vai trò của Phật giáo trong đời sống xã hội nói chung,
trong lối sống của người Việt Nam nói riêng.
Nguyễn Lang với “Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn học Hà Nội 1992) đã đề cập
đến các giai đoạn du nhập của Phật giáo vào Việt Nam, vai trò của các thiền sư trong công
cuộc dựng nước và giữ nước của các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong sách “Lịch sử
Phật giáo Việt Nam” (Nxb KHXH, Hà Nội 1998), các tác giả đã bàn về lịch sử du nhập và
quá trình phát triển của Phật giáo từ thời kỳ đầu mới du nhập đến thế kỷ XX, bàn về các tông
phái Phật giáo và đã phân tích vai trò của Phật giáo đối với lĩnh vực tư tưởng chính trị trong suốt
chiều dài lịch sử Việt Nam.
Trong cuốn“Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam
hiện nay” (Nxb CTQG, Hà Nội 1997) do Giáo sư Nguyễn Tài Thư chủ biên, các tác giả đã đề
cập đến vai trò của Phật giáo trên một số lĩnh vực như: ảnh hưởng của Phật giáo đối với hệ tư
tưởng, đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Nguyễn Dăng Duy
trong “Phật giáo và văn hoá Việt Nam”(Nxb Hà Nội 1999) đã đề cập đến vai trò của Phật giáo
trong đời sống chính trị, văn hoá, đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Trần Văn Giàu với một loạt các công trình như: “Giá trị tinh thần truyền thống của
dân tộc Việt Nam” (Nxb KHXH, Hà Nội 1975),“Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại” (Nxb
Tp Hồ Chí Minh 1993) và “Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến cách
mạng tháng Tám” (3 tập) (Nxb CTQG, Hà Nội 1997, 1998) đã đề cập đến những giá trị đạo
đức Phật giáo, đề cập đến những đóng góp của Phật giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Triết học với “Mấy vấn đề về Phật giáo và
lịch sử tư tưởng Việt Nam”(Hà Nội 1986) đã đề cập đến tính chất của Phật giáo Việt Nam, các
tông phái của Phật giáo ở Việt Nam, vai trò của Phật giáo trong nền văn hoá dân tộc và ảnh
hưởng của Phật giáo đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Trong cuốn “Có một nền đạo lý ở Việt Nam”(Nxb TP Hồ Chí Minh 1996) tác giả
Nguyễn Phan Quang đã cho người đọc thấy được sự hoà nhập của đạo đức Phật giáo trong
đạo lý dân gian Việt Nam. Nguyễn Thị Bảy trong “Văn hoá Phật giáo và lối sống của người
Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ” (Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội 1997) đã bàn về văn hoá
Phật giáo từ góc độ vật chất và tinh thần, bàn đến văn hoá ứng xử Phật giáo ở châu thổ Bắc
Bộ.v.v…
Các trí thức Phật giáo cũng đóng góp nhiều công trình có giá trị trong lĩnh vực này,
như: Thích Đạo Quang với “Đại cương triết học Phật giáo” (Nxb Thuận hoá, Huế 1996) đã
phân tích những giá trị trong các giáo lý cơ bản của Phật giáo và đề cập một cách khái quát
các tông phái cơ bản của đạo Phật. Thích Phụng Sơn trong “Những nét đẹp văn hoá của đạo
Phật” (Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1995) đã phân tích những giá trị thẩm
mỹ và một số biểu hiện của chúng trong sinh hoạt tôn giáo và đời sống xã hội. Thích Minh
Châu trong “Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người” đã đề cập đến những giá trị nhân
đạo, nhân bản trong đạo đức Phật giáo. Theo ông, khi con người được di dưỡng trong nền đạo
đức Phật giáo, họ sẽ được an trú trong niềm hạnh phúc và an lạc. Thích Thanh Từ với “Phật
giáo với dân tộc”(Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh 1995) đã bàn về những nét chính
trong luân lý Phật giáo, những giới luật của phật tử tại gia và phật tử xuất gia, về đóng góp
của Phật giáo cho lịch sử dân tộc trên các phương diện chính trị, tư tưởng, văn nghệ, về các
giá trị đạo đức Phật giáo với tuổi trẻ Việt Nam hiện đại. Lê Cung với “Phật giáo Việt Nam với
cộng đồng dân tộc” (Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh ấn hành 1996) đã đề cập đến đóng
góp của Phật giáo trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc
Việt Nam.
Học Viện Phật giáo Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh với “Phật giáo nhập thế và phát
triển” (Nxb Tôn giáo 2008) đã tập hợp các bài viết của các nhà khoa học, các trí thức Phật
giáo viết về vai trò của Phật giáo trong các lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam hiện nay
như: Phật giáo trong thời kỳ hội nhập và phát triển, Phật giáo với chính trị, xã hội, Phật giáo
với sự phát triển bền vững của đất nước, Phật giáo với xã hội dân sự, Phật giáo với sự nghiệp
độc lập, Phật giáo với các vấn nạn giao thông, Phật giáo với đời sống tâm linh, Phật giáo với
việc việc xây dựng nền kinh tế nhân bản, Phật giáo với hoạt động từ thiện nhân đạo…
Liên quan đến Phật giáo, văn hoá, lối sống Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời
sống xã hội Việt Nam còn có một số luận án như: Luận án Tiến sĩ Triết học của Lê Hữu Tuấn
với đề tài:“Ảnh hưởng của những tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn hoá tinh
thần của dân tộc Việt Nam”(Hà Nội 1999). Luận án Tiến sĩ Triết học của Tạ Chí Hồng với đề
tài:“Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã họi Việt Nam hiện
nay”(Hà Nội 2004). Luận án Tiến sĩ Triết học của Hoàng Thị Lan với đề tài “Ảnh hưởng của
đạo đức tôn giáo đối với đạo đức của con người Việt Nam hiện nay”(Hà Nội 2004). Luận án
Tiến sĩ Triết học của Lê Văn Lợi với đề tài “Ảnh hưởng của văn hoá tôn giáo trong đời sống
tinh thần của xã hội Việt Nam hiện nay”(Hà Nội 2008).
Bên cạnh đó còn có một số kỷ yếu đề tài khoa học và hội thảo về Phật giáo, vai trò của
Phật giáo ở Việt Nam có giá trị như: Kỷ yếu hội thảo:“Đạo đức Phật giáo trong thời hiện
đại”(TP Hồ Chí Minh 1999); Kỷ yếu đề tài: “Thực trạng, nguyên nhân, xu hướng vận động
của Phật giáo ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra cho công tác lãnh đạo quản lý” (thuộc đề