Luận văn Nghiên cứu chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp

Tài nguyên nước hiện nay đã và đang được các quốc gia và toàn thể cộng đồng trên thế giới quan tâm bảo vệ. Như chúng ta đã biết, Hội nghị thượng đỉnh của lãnh đạo các quốc gia trên thế giới tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil), tháng 6/1992 về Môi trường và Phát triển, đã đưa ra bốn nguyên tắc khuyến nghị các quốc gia trên thế giới có những biện pháp khẩn cấp, nhằm tăng cường việc bảo vệ và phát triển nguồn nước, trong đó đã đề cập đến các khía cạnh sinh thái, thể chế, xã hội và kinh tế. Cụ thể như sau: “Nguyên tắc sinh thái: Nước ngọt là nguồn tài nguyên có hạn và dễ bị tổn thương, cần thiết cho sự sống, phát triển và môi trường. Nguyên tắc thể chế: Phát triển và quản lý nước phải dựa trên cơ sở tiếp cận có sự tham gia của các bên có liên quan, từ người sử dụng đến người lập kế hoạch quy hoạch, người lập chính sách, ở mọi cấp độ. Nguyên tắc xã hội: Phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc cung cấp, quản lý và đảm bảo an toàn về nước. Nguyên tắc kinh tế: Nước có giá trị kinh tế ở mọi nhu cầu sử dụng có tính cạnh tranh và phải được xem như hàng hóa kinh tế”. Ở nước ta, trong những năm gần đây, nước đã được coi là tài nguyên và Chính phủ đã đệ trình Quốc hội ban hành Luật Tài nguyên nước, chính thức được thông qua vào tháng 5/1998

pdf97 trang | Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 908 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự tìm tòi, nghiên cứu; các số liệu trong luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Tác giả luận văn Nguyễn Hồng Khanh 2 MỞ ĐẦU Tài nguyên nước hiện nay đã và đang được các quốc gia và toàn thể cộng đồng trên thế giới quan tâm bảo vệ. Như chúng ta đã biết, Hội nghị thượng đỉnh của lãnh đạo các quốc gia trên thế giới tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil), tháng 6/1992 về Môi trường và Phát triển, đã đưa ra bốn nguyên tắc khuyến nghị các quốc gia trên thế giới có những biện pháp khẩn cấp, nhằm tăng cường việc bảo vệ và phát triển nguồn nước, trong đó đã đề cập đến các khía cạnh sinh thái, thể chế, xã hội và kinh tế. Cụ thể như sau: “Nguyên tắc sinh thái: Nước ngọt là nguồn tài nguyên có hạn và dễ bị tổn thương, cần thiết cho sự sống, phát triển và môi trường. Nguyên tắc thể chế: Phát triển và quản lý nước phải dựa trên cơ sở tiếp cận có sự tham gia của các bên có liên quan, từ người sử dụng đến người lập kế hoạch quy hoạch, người lập chính sách, ở mọi cấp độ. Nguyên tắc xã hội: Phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc cung cấp, quản lý và đảm bảo an toàn về nước. Nguyên tắc kinh tế: Nước có giá trị kinh tế ở mọi nhu cầu sử dụng có tính cạnh tranh và phải được xem như hàng hóa kinh tế”. Ở nước ta, trong những năm gần đây, nước đã được coi là tài nguyên và Chính phủ đã đệ trình Quốc hội ban hành Luật Tài nguyên nước, chính thức được thông qua vào tháng 5/1998. Việc ban hành Luật Tài nguyên nước là một bước tiến quan trọng trong việc đưa vấn đề bảo vệ tài nguyên nước trở thành một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay của Chính phủ Việt Nam, đồng thời cũng đưa Việt Nam là một trong số ít các nước có Luật riêng về Tài nguyên nước. Tại mục 3, khoản 1, Điều 23 của Luật Tài nguyên nước đã quy định về nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước như sau: “1. Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước có những nghĩa vụ sau đây: e) Thực hiện nghĩa vụ tài chính; bồi thường thiệt hại do mình gây ra trong khai 3 thác, sử dụng tài nguyên nước theo quy định của pháp luật”. Tại khoản 3, Điều 47 của Luật Tài nguyên nước, về khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi đã quy định: “3. Tổ chức, cá nhân khai thác và hưởng lợi từ công trình thủy lợi phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật”. Như vậy, tiếp cận nước là một loại hàng hoá kinh tế và việc các tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm tài chính đối với việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước đã được các quốc gia và Chính phủ Việt Nam quan tâm từ lâu. I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1. Tính cấp thiết của đề tài Đến nay, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng để hình thành nên một hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi hết sức to lớn, góp phần quan trọng trong việc tưới tiêu, cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối, phòng chống lũ lụt, cấp nước công nghiệp, sinh hoạt, giao thông, du lịch và nhiều ngành kinh tế xã hội khác. Hiệu quả của công tác thuỷ lợi mang lại cho sản xuất đời sống xã hội là hết sức to lớn, có những hiệu quả tính được bằng tiền, nhưng cũng có nhiều những hiệu quả hết sức to lớn khác khó có thể định lượng được, đó là những tác động tích cực về dân trí, xã hội môi trường, nông nghiệp nông thôn... Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý và khai thác khép kín các công trình, hệ thống công trình thuỷ lợi, hiện nay, cả nước đã hình thành một hệ thống các tổ chức để quản lý, khai thác các công trình như sau: - Khoảng 100 doanh nghiệp quản lý các công trình đầu mối lớn, kênh trục chính (cấp 1, cấp 2): các công trình đầu mối lớn, kênh trục chính, chưa bao gồm các tổ chức khác thuộc nhà nước cũng được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. - Khoảng 12.000 tổ chức hợp tác dùng nước bao gồm các hợp tác xã nông lâm nghiệp có làm dịch vụ thuỷ lợi, hợp tác xã dùng nước, tổ chức hợp tác, Ban quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, tổ thuỷ nông, đường nước độc lập... quản lý các công 4 trình thuỷ lợi cơ sở nhỏ, hệ thống thuỷ lợi mặt ruộng. - Một số loại hình có tính chất đặc thù khác: như Ban, Trạm Quản lý khai thác công trình thuỷ lợi huyện, liên xã, Trung tâm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, Chi cục thuỷ lợi, công ty khác cũng được giao chức năng quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Để đảm bảo cho các hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên vận hành an toàn, hàng năm yêu cầu phải có đủ kinh phí để vận hành, duy tu, bảo dưỡng, chưa kể đến kinh phí yêu cầu xây dựng mới, nâng cấp, khôi phục công trình hư hỏng do sử dụng lâu ngày và do thiên tai gây ra và kinh phí khắc phục hạn hán, úng lụt. Với mục tiêu này, chính sách thuỷ lợi phí đã được ban hành. Nhằm bù đắp một phần kinh phí yêu cầu nói trên, giảm nhẹ gánh nặng bao cấp ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương thu thuỷ lợi phí từ người hưởng lợi và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các đơn vị quản lý khai thác công trình thủy lợi. Ngay từ năm 1962, Hội đồng Chính phủ, nay là Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/CP ngày 5/6/1962 quy định điều lệ thu thuỷ lợi phí, tuy nhiên Nghị định này chỉ áp dụng đối với các hệ thống nông giang lớn. Tiếp đó, là các Nghị định số 112-HĐBT ngày 25/8/1984 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ. Để khuyến khích sản xuất lương thực, trong các văn bản trên, thuỷ lợi phí đối với tưới chỉ thu ở mức cần thiết, đảm bảo chi phí cho sửa chữa thường xuyên (chưa tính đến chi phí nâng cấp, thu hồi vốn). Nhà nước phải hỗ trợ phần chi phí tiền điện tiêu úng, sửa chữa công trình hư hỏng nặng do thiên tai gây ra bằng những quy định chặt chẽ. Xuất phát từ chính sách hỗ trợ nông dân được giao đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối, từ năm 2008, Chính phủ đã miễn giảm thuỷ lợi phí cho người dân theo quy định của Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 của Chính phủ, sau đó được thay thế bằng Nghị định số 115/2008/NĐ- CP ngày 14/11/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số 5 điều của Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi. Việc nghiên cứu và ban hành chính sách thuỷ lợi phí phù hợp từng giai đoạn phát triển của đất nước là thực sự cần thiết như đã được đề cập ở trên. Ngoài việc giúp có được một khoản kinh phí đáng kể cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng công trình, nếu chính sách thuỷ lợi phí phù hợp, chúng ta sẽ nâng cao được ý thức của người nông dân trong việc sử dụng nước có ý thức, tiết kiệm và nâng cao trách nhiệm, vai trò của họ trong việc gìn giữ, bảo vệ công trình thuỷ lợi. Về bản chất, thuỷ lợi phí thực chất là chính sách của nhà nước đối với nông dân, vì khi nhà nước hỗ trợ cho công ty khai thác công trình thuỷ lợi phần thiếu hụt do mất mùa không thu được thuỷ lợi phí, hoặc thu ở mức quy định thấp chính là nhà nước hỗ trợ nông dân để sản xuất lương thực. Ở từng giai đoạn phát triển sẽ có chính sách thuỷ lợi phí tương ứng, thu hay miễn, giảm là giải pháp cụ thể của Chính phủ nhằm mục đích đáp ứng bài toán phát triển tổng thể kinh tế xã hội, phù hợp với từng giai đoạn, và bài toán được đặt ra đối với chính sách thủy lợi phí sẽ là: - Nếu quy định thu thuỷ lợi phí, Nhà nước sẽ giảm nguồn kinh phí đáp ứng cho vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa công trình. - Ngược lại, nếu giảm hoặc không thu, Nhà nước phải hỗ trợ hoặc chi phí nhiều hơn cho công tác quản lý vận hành, khai thác công trình thuỷ lợi. Là một cán bộ làm việc tại Tổng cục Thuỷ lợi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cơ quan chuyên nghiên cứu, tham mưu đề xuất giúp Bộ và giúp Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách trong lĩnh vực quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, bao gồm cả cơ chế chính sách về tài chính trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi và chính sách về thuỷ lợi phí, học viên lựa chọn và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp” nhằm đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách thuỷ lợi phí. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Từ lâu, chính sách thuỷ lợi phí đã được Chính phủ, các Bộ ngành và chính quyền các địa phương rất quan tâm, nhằm đảm bảo một khoản kinh phí nhất định để đáp ứng cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa các công trình thuỷ lợi. 6 Có thể liệt kê ra một số các công trình, tài liệu nghiên cứu có liên quan đến chính sách thuỷ lợi phí như sau: - Quản lý thuỷ nông trong nền kinh tế thị trường, Đoàn Thế Lợi, sách do Nhà xuất bản nông nghiệp – 2004. - Thuỷ lợi phí và chính sách thuỷ lợi phí trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế - Đề tài cấp Bộ, Trung tâm nghiên cứu Kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực hiện năm 2007-2008. - Nghiên cứu xây dựng giá nước tại hệ thống thuỷ lợi hồ Núi Cốc – tỉnh Thái Nguyên – Trung tâm nghiên cứu kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực hiện năm 2002. - Nghiên cứu mô hình quản lý thuỷ lợi hiệu quả và bền vững phục vụ nông nghiệp và nông thôn, Trung tâm nghiên cứu kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực hiện năm 2006-2008. - Nghiên cứu xây dựng hệ thống các chỉ tiêu khoản mục chi phí hợp lý trong sản xuất 1m3 nước để tính giá nước lấy từ công trình thủy lợi cho các mục đích sử dụng khác nhau, Trường Đại học Thuỷ lợi thực hiện, năm 2006-2007. - Nghiên cứu tính giá thành 1m3 nước tưới tiêu của hệ thống thuỷ lợi sáu trạm bơm Bắc Nam Hà, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam 2007-2008. - Nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ chính sách miễn, giảm thuỷ lợi phí, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, thực hiện năm 2008-2009. Tuy vậy, những nghiên cứu này chủ yếu tiến hành vào trong giai đoạn nhà nước đang thực hiện thu thuỷ lợi phí hoặc chính sách miễn thuỷ lợi phí đang được thực hiện ở giai đoạn đầu chưa thực sự hoàn thiện, nên chưa thể hiện được nhiều và toàn diện. Mặc dù vậy, các tài liệu này sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị để học viên tiến hành nghiên cứu này. II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI 1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn chính sách thuỷ lợi phí, luận văn sẽ 7 kiến nghị, luận chứng những giải pháp bảo đảm hiệu quả của chính sách thuỷ lợi phí, nhằm góp phần nghiên cứu đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của công tác quản lý, khai thác công trình thủy lợi trong thời gian tới. Để đạt được mục đích này, luận văn có nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu cơ sở lý luận, quá trình hình thành và thực thi chính sách thuỷ lợi phí ở Việt Nam. - Phân tích, xác định những mặt được, những mặt còn hạn chế và tác động chủ yếu của chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong sản xuất nông nghiệp đối với hoạt động quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi. - Kiến nghị đề xuất một số giải pháp, góp phần nâng cao hiệu quả khai thác các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có. 2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu: Đánh giá tổng thể trên phạm vi cả nước, có tập trung nghiên cứu điển hình tại 1 tỉnh. Do thuỷ lợi phí là chính sách nhạy cảm, có tác động đến nhiều đối tượng dùng nước, phạm vi của luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá các tác động của thuỷ lợi phí trong tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở hoạt động của các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi. III. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu đã nêu trên, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu trong luận văn được sử dụng như sau: - Cách tiếp cận: được vận dụng theo phương pháp từ dưới lên, từ đối tượng hưởng lợi; tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, tổ chức hợp tác dùng nước; cơ quan nghiên cứu; cơ quan quản lý nhà nước về quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. - Phương pháp nghiên cứu: + Phương pháp khảo sát từ thực tế quản lý, khai thác ở một số hệ thống công trình thuỷ lợi; + Áp dụng triệt để nguyên tắc tiếp cận từ dưới lên; 8 + Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá; + Phương pháp chuyên gia. IV. CÁC KẾT QUẢ DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC - Cơ sở lý luận quá trình hình thành và thực thi chính sách thuỷ lợi phí; - Những tác động chủ yếu của chính sách thuỷ lợi phí trong sản xuất nông nghiệp tới hoạt động quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi; - Đề xuất định hướng chính sách thuỷ lợi phí phù hợp đối với sản xuất nông nghiệp. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và áp dụng trong việc nghiên cứu, sửa đổi bổ sung chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí và các chính sách về tài chính trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Từ các vấn đề đã được trình bày ở trên sẽ hình thành nội dung nghiên cứu. Những nội dung này được thể hiện trong bố cục của luận văn như sau: 9 Chương 1: THỰC TRẠNG THUỶ LỢI Ở VIỆT NAM 1.1. Tổng quan thực trạng về các hệ thống thuỷ lợi. Ngành thuỷ lợi giữ một vị trí quan trọng đối với phát triển sản xuất nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, nhân dân ta có truyền thống và bề dày lịch sử làm thuỷ lợi, xây dựng hệ thống đê điều và mạng lưới kênh rạch “dẫn thuỷ nhập điền” rộng khắp, nhằm khai thác mặt lợi và hạn chế mặt hại của nước. Từ khi giành độc lập, đặc biệt kể từ giai đoạn đất nước thống nhất đến nay, Nhà nước và nhân dân ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác thuỷ lợi. Kết quả đầu tư thuỷ lợi không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mà còn mang ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc. Trong phát triển nông nghiệp, thuỷ lợi là biện pháp hàng đầu, nhờ được đầu tư thuỷ lợi rộng khắp trên mọi vùng đất nước, đã tạo điều kiện đưa khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, nhất là về giống, về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ. Trước đây, nhiều khu vực ở miền núi, Trung bộ, Tây nguyên, Đông Nam bộ hầu hết dựa vào nước "trời" thì nay phần lớn diện tích gieo trồng lúa, và một phần diện tích cây trồng cạn đã được tưới nước bằng công trình thuỷ lợi. Trong quá trình phát triển nông nghiệp nói riêng và kinh tế xã hội nói chung, công tác thuỷ lợi luôn có vị trí quan trọng và nhận được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước cùng với sự đóng góp công sức vô cùng to lớn của nhân dân. Sự nghiệp phát triển thuỷ lợi đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng cho sự phát triển của mọi ngành kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để nông nghiệp nước ta có những bước nhảy vọt. Nhiều thập kỷ qua, cùng với tiến trình phát triển kinh tế, xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng nhiều công trình, hệ thống công trình thuỷ lợi lớn, nhỏ, hình thành nên một cơ sở vật chất hạ tầng hết sức to lớn, phục vụ đa mục tiêu tưới tiêu cho nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, cắt lũ, giao thông, phát 10 điện, ngăn mặn giữ ngọt, du lịch..., bảo đảm cho sản xuất và đời sống dân sinh. Đặc biệt, thuỷ lợi đã góp phần ổn định sản xuất, giữ vững và nâng cao năng suất sản lượng cây trồng, đảm bảo an ninh lương thực, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, đưa nước ta từ một nước thiếu lương thực, trở thành một nước không chỉ ổn định lương thực mà còn có dư thừa, là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới. Theo kết quả điều tra đánh giá của Cục Thuỷ lợi, đến nay (31/12/2008), trên cả nước đã hình thành rất nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi lớn nhỏ, trong đó có 904 hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn có diện tích phục vụ từ 200ha trở lên. Cụ thể số lượng phân theo các loại diện tích tưới được thể hiện ở 1.1. Bảng 1.1: Hệ thống công trình thuỷ lợi phân theo diện tích phục vụ TT Khu vực Tổng số Phân loại theo diện tích phục vụ > 2.000 (ha) 2002.000 (ha) 1 Miền núi Bắc bộ 78 10 68 2 Đồng bằng trung du Bắc bộ 44 28 16 3 Bắc Trung bộ 227 23 204 4 Duyên hải Nam Trung bộ 51 21 30 5 Tây Nguyên 87 8 79 6 Đông nam Bộ 82 8 74 7 Đồng bằng sông Cửu Long 335 12 323 Tổng cộng 904 110 794 Trong danh mục 110 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 2.000ha trở lên trên toàn quốc, bao gồm: - 19 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 2.000 ÷ 3.000 ha. - 15 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 3.000 ÷ 4000 ha. - 9 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 4.000 ÷ 5000 ha. - 13 hệ thống có diện tích phục vụ từ 5.000 ÷ 10000 ha. - 43 hệ thống có diện tích phục vụ từ 10.000 ÷100.000 ha. 11 - 11 hệ thống có diện tích phục vụ lớn hơn 100.000 ha. Tổng số có trên 5000 hồ chứa các loại, với tổng dung tích trữ nước trên 35,34 tỷ m3, gồm: 26 hồ chứa thuỷ điện có tổng dung tích trữ là 27,12 tỷ m3, 2460 hồ chứa thủy lợi có dung tích từ 200 ngàn m3 trở lên và hàng ngàn hồ nhỏ với tổng dung tích trữ khoảng 8,22 tỷ m3, phục vụ cho phát điện, cấp nước sinh hoạt, cấp nước cho các ngành kinh tế trọng yếu và bảo đảm tưới cho 80 vạn ha đất canh tác; trên 10.000 trạm bơm điện lớn với các loại máy bơm khác nhau, có tổng công suất lắp máy phục vụ tưới là 250 Mw, phục vụ tiêu là 300Mw. Ngoài ra, còn có gần 5.000 cống tưới tiêu lớn các loại. Tổng số 126.000km kênh mương các loại, trong đó có trên 1.000 km kênh trục lớn, cùng với hàng vạn công trình trên kênh. Trên 26.000 km bờ bao ngăn lũ đầu vụ hè thu ở Đồng bằng sông Cửu Long, khoảng 3700 km đê sông, trên 2000 km đê biển. Các hệ thống công trình thuỷ lợi này đã cơ bản đáp ứng được những yêu cầu thiết yếu trong sản xuất và đời sống dân sinh. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang diễn ra theo chiều hướng cực đoan và đã có những tác động trực tiếp và rõ nét đối với nước ta đòi hỏi Chính phủ và nhân dân ta cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa trong công tác đầu tư và quản lý khai thác mới có thể đáp ứng được các mục tiêu, yêu cầu ngày càng lớn hiện nay. 1.2. Tổ chức, quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. Để quản lý, vận hành các hệ thống công trình thuỷ lợi đã có, hiện nay cả nước hình thành một hệ thống tổ chức quản lý thuỷ nông, khép kín gồn hai cấp bao gồm: - Các đơn vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc Nhà nước. - Các tổ chức quản lý thuỷ nông thuộc tập thể, người dân (gọi là tổ chức hợp tác dùng nước). Các tổ chức này độc lập hoặc phối hợp với nhau trong việc quản lý, khai thác hệ thống công trình thuỷ lợi, đảm bảo phục vụ các hoạt động sản xuất và dân sinh kinh tế. 1.2.1. Số lượng, loại hình các đơn vị quản lý thuỷ nông thuộc nhà nước Theo quy định tại Điều 9, Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi: 12 “Công trình thuỷ lợi được xây dựng bằng ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước do doanh nghiệp nhà nước quản lý, khai thác và bảo vệ”. Theo số liệu báo cáo của các địa phương trên toàn quốc, hình thức tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước trên toàn quốc chủ yếu là các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, trong từng điều kiện cụ thể, mỗi địa phương đã quy định những mô hình tổ chức khác nhau. Cụ thể ở các vùng như sau: 1.2.1.1. Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc: Miền núi phía Bắc bao gồm 15 tỉnh, với những mô hình tổ chức quản lý, khai thác công trình thủy lợi như sau: - Các tỉnh không thành lập tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước gồm: Hà Giang, Lào Cai. Ở các tỉnh này, công trình thuỷ lợi đã được giao cho cấp huyện, xã quản lý, khai thác. Tỉnh Lào Cai trước kia có thành lập một số Trạm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc huyện nhưng do không có kinh phí hoạt động nay đã giải tán. - Các tỉnh có thành lập doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi bao gồm: Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La, Hoà Bình, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Điện Biên, Lai Châu, Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ. Tuy vậy, mô hình ở tỉnh Bắc Kạn chưa phù hợp. - Các tỉnh có đơn vị
Luận văn liên quan