Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới, với đường bờ biển dài
3.260km2
, có nhiều rừng ngập mặn, nhiều ao hồ, kênh rạch và các sông lớn
như: sông Hồng, sông Thái Bình, sông Cửu Long, Vì vậy thành phần và số
lượng động vật Thủy sản rất phong phú và đa dạng.
Sông Cửu Long thuộc hệ thống sông MeKong bắt nguồn từ cao nguyên Tây
Tạng chảy qua 6 quốc gia đến Việt Nam chia thành hai nhánh sông chính là:
sông Tiền và sông Hậu, cuối cùng là đổ ra biển Đông. Với mạng lưới sông ngòi
kinh rạch chằng chịt, đã tạo nên một lượng thức ăn tự nhiên và tôm cá. Đây
chính là một trong những lợi thế quan trọng giúp nghề nuôi trồng và khai thác
thủy hải sản phát triển mạnh mẽ. Vì vậy mà nghề nuôi thủy ở Đồng Bằng Sông
Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng và cả nước nói chung đã góp phần làm cho nước
ta đứng hàng thứ 7 trên thế giới về xuất khẩu sản phẩm thủy sản
(atpvietnam.com/vn/thongtinnganh/7752/index.aspx). Hiện nay nhiều đối tượng
cá đang được nuôi phổ biến như: cá Lóc, cá Chình, Bống Tượng, Nghêu, Tôm
càng xanh, Tuy nhiên, vẫn còn một số loài có giá trị kinh tế cao như cá Bông
Lau, cá Chạch Lấu, cá Leo, cá Ngát,. chưa được quan tâm đúng mức, nguồn
lợi thủy sản trong tự nhiên bị con người khai thácquá mức, sự cạnh tranh gay
gắt của thị trường thế giới làm cho đầu ra của sản phẩm cá tra, cá basa bấp bênh
gây bất lợi cho ngành thủy sản. Do vậy việc phát triển đối tượng nuôi mới với
những loài bản điạ có triển vọng kinh tế, trong đó có cá Ngát là rất cần thiết.
Mặc dù là loài có giá trị kinh tế cao nhưng nghiên cứu về loài cá này ở nước ta
chưa nhiều và nghiên cứu chưa sâu. Từ nhận định đó, việc nghiên cứu các vấn
đề về sinh học của loài cá này, đặc biệt là nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng sẽ
góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho hoạt động quy hoạch, khai thác bảo vệ
nguồn lợi. Đồng thời làm cơ sở cho việc ương nuôi đối tượng trên. Với ý nghĩa
đó đề tài “Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng của cá Ngát (Plotosus canius
Hamilton, 1822) ở các kích cỡ khác nhau” được thực hiện.
33 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3439 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng của cá ngát (plotosus canius hamilton, 1822) ở các kích cỡ khác nhau, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
TR ẦN TH Ị DI ỄM TRINH
NGHI ÊN C ỨU Đ ẶC ĐI ỂM DINH D Ư ỠNG C ỦA C Á
NG ÁT (Plotosus canius Hamilton, 1822) Ở CÁC KÍCH CỠ
KHÁC NHAU
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
DƯƠNG THỊ BẠCH LOAN
2009
2
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU
Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới, với đường bờ biển dài
3.260km2, có nhiều rừng ngập mặn, nhiều ao hồ, kênh rạch và các sông lớn
như: sông Hồng, sông Thái Bình, sông Cửu Long,…Vì vậy thành phần và số
lượng động vật Thủy sản rất phong phú và đa dạng.
Sông Cửu Long thuộc hệ thống sông MeKong bắt nguồn từ cao nguyên Tây
Tạng chảy qua 6 quốc gia đến Việt Nam chia thành hai nhánh sông chính là:
sông Tiền và sông Hậu, cuối cùng là đổ ra biển Đông. Với mạng lưới sông ngòi
kinh rạch chằng chịt, đã tạo nên một lượng thức ăn tự nhiên và tôm cá. Đây
chính là một trong những lợi thế quan trọng giúp nghề nuôi trồng và khai thác
thủy hải sản phát triển mạnh mẽ. Vì vậy mà nghề nuôi thủy ở Đồng Bằng Sông
Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng và cả nước nói chung đã góp phần làm cho nước
ta đứng hàng thứ 7 trên thế giới về xuất khẩu sản phẩm thủy sản
(atpvietnam.com/vn/thongtinnganh/7752/index.aspx). Hiện nay nhiều đối tượng
cá đang được nuôi phổ biến như: cá Lóc, cá Chình, Bống Tượng, Nghêu, Tôm
càng xanh,… Tuy nhiên, vẫn còn một số loài có giá trị kinh tế cao như cá Bông
Lau, cá Chạch Lấu, cá Leo, cá Ngát,... chưa được quan tâm đúng mức, nguồn
lợi thủy sản trong tự nhiên bị con người khai thácquá mức, sự cạnh tranh gay
gắt của thị trường thế giới làm cho đầu ra của sản phẩm cá tra, cá basa bấp bênh
gây bất lợi cho ngành thủy sản. Do vậy việc phát triển đối tượng nuôi mới với
những loài bản điạ có triển vọng kinh tế, trong đó có cá Ngát là rất cần thiết.
Mặc dù là loài có giá trị kinh tế cao nhưng nghiên cứu về loài cá này ở nước ta
chưa nhiều và nghiên cứu chưa sâu. Từ nhận định đó, việc nghiên cứu các vấn
đề về sinh học của loài cá này, đặc biệt là nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng sẽ
góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho hoạt động quy hoạch, khai thác bảo vệ
nguồn lợi. Đồng thời làm cơ sở cho việc ương nuôi đối tượng trên. Với ý nghĩa
đó đề tài “Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng của cá Ngát (Plotosus canius
Hamilton, 1822) ở các kích cỡ khác nhau” được thực hiện.
Mục tiêu của đề tài
Nghiên cứu đặc tính dinh dưỡng của cá Ngát (Plotosus canius) với các kích cỡ
khác nhau, nhằm góp phần hoàn chỉnh những dẫn liệu về đặc điểm dinh dưỡng
của cá Ngát (Plotosus canius), làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo về
nhu cầu dinh dưỡng và chế biến thức ăn phục vụ cho việc ương nuôi loài cá
kinh tế này .
3
Đề tài bao gồm một số nội dung sau:
1. Quan sát các đặc điểm hình thái giải phẩu cơ quan tiêu hóa của cá Ngát
(Plotosus canius) ở các kích cỡ khác nhau.
2. Phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát, thu từ các thủy vực tự
nhiên ở các kích cỡ khác nhau.
2.1. Phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát, thu ở thủy vực nước
ngọt.
2.2. Phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát, thu ở thủy vực nước lợ -
mặn.
3. Phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Ngát ở mùa mưa và mùa nắng
4
CHƯƠNG II: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1. Tổng quan
Bộ Cá da trơn hay bộ Cá nheo (danh pháp khoa học: Siluriformes) là một bộ
cá rất đa dạng trong nhóm cá xương. Các loài cá trong bộ này dao động khá
mạnh về kích thước và các thức sinh sống, từ loài nặng nhất là cá tra dầu
(Pangasius gigas) ở Đông Nam Á tới loài dài nhất là cá nheo châu Âu (Silurus
glanis) của đại lục Á-Âu, hay những loài chỉ ăn xác các sinh vật chết ở lớp
nước đáy, hay các loài cá ký sinh nhỏ bé như Vandellia cirrhosa. Có các loài
với các kiểu tấm xương bảo vệ cũng như các loài không có tấm xương bảo vệ
này, nhưng tất cả chúng đều không có vảy. Không phải loài cá da trơn nào
cũng có râu; các đặc trưng để xác định bộ Siluriformes trên thực tế là các đặc
điểm chung của hộp sọ và bong bóng. Bộ cá này có tầm quan trọng kinh tế
đáng kể, nhiều loài được chăn nuôi ở quy mô lớn để cung cấp cá thực phẩm,
một vài loài được nuôi thả như là cá câu thể thao. Nhiều loài cá nhỏ, cụ thể là
các loài trong chi Corydoras, được nuôi làm cá cảnh trong các bể cá,… Do đó
có khá nhiều nghiên cứu về cá trơn nói chung, tùy theo điều kiện và mục đích
mà các nghiên cứu cung cấp cho các độc giả những kết quả với các mức độ
khác nhau. Tuy nhiên, những nghiên cứu riêng biệt về cá Ngát (Plotosus
canius) còn ít. Trên cở sỡ những tài liệu nghiên cứu về cá Ngát và những vấn
đề có liên quan được tổng hợp và trình bày theo một số nội dung sau.
1.1. Đặc điểm hình thái phân loại cá Ngát
1. Vị trí phân loại
Theo dẫn liệu cập nhật (Google, 2008) cho thấy bộ Siluriformes gồm có 36
họ, 477 giống, 3088 loài cá phân bố rộng khắp trên toàn thế giới. Trong 36 họ
cá đã nêu có một số họ cá có giá trị kinh tế được nuôi và khai thác phổ biến
như các họ: Ariidae (cá Úc), Bagridae (cá Chốt), Clariidae (cá Trê),
Ictaluriidae (cá Nheo), Pangasiidae (cá Trơn), Plotosidae (cá Ngát), Silurudae
(cá Leo) và Sisoridae (cá Chiên)…(Carl, J.Ferraris, JR, 2007).
Họ cá ngát là một họ cá trơn có danh pháp khoa học Plotosidae với đuôi kéo
dài giống đuôi lươn. Các loài cá này có nguồn gốc từ Ấn Độ Dương và miền
tây Thái Bình Dương, từ Nhật Bản tới Australia và Fiji. Họ này bao gồm
khoảng 35 loài trong 10 chi. Khoảng một nữa số loài cá nước ngọt này có mặt
ở khu vực Australia và New Guinea.
Cá ngát có tên tiếng Anh là Grayell-catfish và thuộc vị trí phân loại như sau:
Giới: Animalia Linnaeus, 1758 - animals
Ngành: Chordata Bateson, 1885 - chordates
Lớp: Osteichthyes Huxley, 1880 - bony fishes
5
Bộ: Siluriformes - catfishes
Họ: Plotosidae - eeltail catfishes
Giống: Plotosus La Cepède, 1803
Loài: Plotosus canius Hamilton, 1822
Ngoài ra cá Ngát Plotosus canius còn có các đồng danh sau (Fishbase ,2008):
+ Plotosus canius Hamilton, 1822
+ Plotosus horridus Bleeker, 1846
+ Plotosus multiradiatus Bleeker, 1846
+ Plotosus unicolor Valenciennes, 1840
+ Potosus viviparus Bleeker, 1846
Hiện nay tên Plotosus canius Hamilton, 1822 của cá Ngát được nhiều tác giả
sử dụng phổ biến trên thế giới (Fishbase, 2008 và Itis, 2008).
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) và Rainboth (1996)
họ Plotosidae chỉ có một giống Plotosus. Theo Itis (2008) và Fishbase (2008)
họ Plotosidae có 10 giống cá với tên khoa học như sau:
+ Anodontiglanis Rendahl, 1922
+ Cnidoglanis Günther, 1864
+ Euristhmus Ogilby, 1899
+ Neosiluroides Allen and Feinberg, 1998
+ Neosilurus Steindachner, 1867
+ Oloplotosus Weber, 1913
+ Paraplotosus Bleeker, 1862
+ Plotosus Lacepède, 1803
+ Porochilus Weber, 1913
+ Tandanus Mitchell, 1838
Trong đó, giống Plotosus có 8 loài đã được định danh, gồm các loài: Plotosus
abbreviatus, Plotosus lineatus, Plotosus nkunga, Plotosus brevibarbus,
Plotosus canius, Plotosus fisadoha, Plotosus limbatus, Plotosus papuensis
(Fishbase, 2008). Ngoài những loài cá có trong danh sách giống Plotosus của
Fishbase thì các loài cá thuộc giống Plotosus của Itis có thêm 2 loài: Plotosus
anguillaris, Plotosus microceps. Điều trùng hợp ở đây, Fishbase và Itis điều
nói về loài Plotosus canius Hamilton, 1822.
Hiện nay giống Plotosus có hai loài đã được phân loại là Plotosus canius và
Plotosus lineatus dựa trên những đặc điểm hình thái sau:
6
Bảng 2.1: Đặc điểm phân loại loài Plotosus canius và Plotosus lineatus
Đặc điểm hình
thái phân loại
Loài Plotosus canius Loài Plotosus lineatus
Râu mũi Kéo dài qua khỏi bờ
sau của mắt rất xa
Chưa qua khỏi bờ sau của mắt
Mắt Hình cầu nhỏ Hình bầu dục, lớn
Màu sắc thân Toàn thân có màu
xám đen đến nâu
đen
Có hai sọc trắng xuất phát từ trên đầu
chạy song song hai bên thân suốt chiều
dài cơ thể
Plotosus canius có kích thước lớn nhất đến 150 cm (59 inch), còn Plotosus
lineatus chỉ phát triển đến 41 cm (16 inch) (Theo Trần Ngọc Hải, 2007;
Fishbase, 2008).
Hình 2.1: Plotosus canius Hình 2.2: Plotosus lineatus
1.1.2. Hình thái của cá
Đây là loài có giá trị kinh tế cao, thịt ngon, kích thước lớn nên loài cá Ngát
Nanh hay cá Ngát Chó (Plotosus canius) được nhiều người nghiên cứu. Theo
Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, (1993), Plotosus canius Hamilton,
1822, được mô tả như sau:
D. I, 4 P. I, 12 V. 12 – 13
Dài chuẩn / Dài đầu = 5,2 (4,8 - 5,5)
Dài đầu / Khoảng cách hai mắt = 2,9 (2,6 – 3,3)
Dài chuẩn / Cao thân = 6,5 (5,9 – 7,6)
Dài đầu / Đường kính mắt = 10,9 (9,5 – 11,9)
Đầu to, rộng, dẹp bằng. Miệng dưới nằm trên mặt phẳng nằm ngang, không co
duỗi được. Môi dày, mềm, có viền rua. Răng hình quạt, cứng chắc. Răng vòm
miệng xếp thành một đám có dạng hình lưỡi liềm, răng xếp thành 4 hàng
ngang, các hàng sau thô hơn các hàng trước. Có 4 đôi râu to: Một đôi râu mũi
(kéo dài qua khỏi mắt), một đôi râu mép nhưng hơi lệch về phía hàm trên, hai
7
đôi râu hàm dưới. Mắt cá nhỏ, hoàn toàn nằm ở mặt lưng của đầu, gần chót
mõm hơn gần cuối nắp mang. Phần trán giữa hai mắt rộng. Mấu xương chẩm
nhỏ, hình tam giác đều. Hai màng mang dính nhau một phần và dính với eo
mang.
Thân dài, phần trước tròn, phần sau dẹp bên, mỏng và mềm mại. Đường bên
hoàn toàn chạy từ mép trên lỗ mang đến điểm giữa gốc vi đuôi. Cá có hai vi
lưng, gốc vi lưng thứ nhất ngắn, có gai độc, gốc vi lưng thứ hai và vi hậu môn
nối liền với vi đuôi nhỏ. Vi đuôi không chẻ hai. Vi ngực có gai độc. Gai độc
trước các vi ngực và vi lưng rất nhọn, cạnh trước và sau có răng cưa sắc. Cơ ở
gốc vi phát triển và da ở vi dày.
Mặt lưng của thân và đầu có màu nâu đen đến nâu đỏ nhạt dần xuống bụng.
Bụng cá và mặt dưới của đầu có màu trắng sữa. Mặt trên của vi ngực, vi bụng
màu xám, mặt dưới màu trắng sữa. Râu mép và râu mũi sậm hơn râu hàm
dưới.
1.2. Phân bố và môi trường sống
Thế giới
Cá Ngát phân bố rộng ở vùng nhiệt đới, vùng Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương
(Fishbase, 2008; Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2006), xuất hiện
nhiều ở các cửa sông, hồ, vịnh, đầm phá nước lợ, biển, chúng cũng có thể sống
ở cả những vùng nước ngọt sâu trong nội địa (Fishbase, 2008). Chúng được
tìm thấy ở các nước: Úc, Bangladesh, Brunei Darsm, Campuchia, Ấn Độ,
Indonesia, Lào, Malaysia, Papua N Guin, Myanmar, Philippines, Singapore,
Sri Lanka, Thái Lan, và Việt Nam (Fishbase, 2008).
Loài cá Ngát chó (Plotosus canius) sống đáy, vùng nước ngọt, nước lợ và
nước mặn, phân bố chủ yếu ở vùng ven biển các nước Bangladesh, Myanmar,
Thái Lan, Sundaland, Sulawesi, Moluccas, Ấn Độ, và bên trong hạ lưu sông
Mekong.
Loài cá Ngát sọc trắng (Plotosus linaetus) sống trong nước lợ, nước mặn, có
độ sâu từ 1 – 60 m, phân bố ở phía tây Ấn Độ Dương (Indian Ocean) và biển
Ả Rập. (Theo Nguyễn Hữu Phụng và Nguyễn Nhật Thi, 1994)
* Việt nam
Theo Nguyễn Hữu Phụng và Nguyễn Nhật Thi (1994); nước ta có 3 loài
(Plotosus lineatus, Plotosus canius và Paraplotosus alibilabris) thuộc hai
giống Plotosus và Paraplotosus. Trong đó, loài Plotosus linaetus được tìm thấy
ở vịnh Bắc Bộ và miền Trung Việt Nam.Loài Plotosus canius tìm thấy ở phía
nam Việt Nam và trong sông Mekong.
1.3. Đặc điểm dinh dưỡng
1.3.1. Đặc điểm dinh dưỡng của cá trơn trong tự nhiên.
Tính ăn của cá trơn cũng thay đổi theo kích thước cơ thể. Lúc còn nhỏ (1-3
ngày tuổi) dinh dưỡng chủ yếu bằng noãn hoàng, sau đó cá chuyển sang ăn
thức bên ngoài. Theo R.Vachta, 1994, thức ăn của cá trơn ở giai đoạn cá con
gồm: copepoda, giáp xác, phytoplankton, giáp xác nhỏ. Ngày tuổi càng tăng tỉ
8
lệ giáp xác nhỏ giảm, trong khi đó, copepoda và giáp xác lớn tăng. Ngoài ra cá
trơn cũng có thể ăn thức ăn ở đáy như: giun ít tơ, ấu trùng Chironomus
(Nguyễn Bạch Loan, 1998).
Tính ăn tạp thiên về thức ăn có nguồn gốc động vật thể hiện khá rõ ở các loài
cá trơn trưởng thành. Dựa vào hình thái cấu tạo của răng, miệng và phân tích
thức ăn trong ống tiêu hóa của cá cho thấy thức ăn được cá ưa thích là động
vật sống đáy thủy vực như: giáp xác, động vật thân mềm, ấu trùng côn trùng
thủy sinh, kể cả những côn trùng trên cạn. (Rainboth, 1996. Nguyễn Bạch
Loan, 1998)
Thức ăn của loài Plotosus canius thường là giáp xác, nhuyễn thể, giun và cá
nhỏ (fishbase 2008). Theo Nguyễn Bạch Loan, 2000, cá ngát là loài ăn tạp
thiên về động vật với phổ thức ăn rộng (mùn bã hữu cơ, động vật phù du, cá
con, thực vật thuỷ sinh, thực vật phù du, giáp xác, nhuyễn thể, giun). Loài P.
lineatus trưởng thành sống ở vùng đáy cát thường ăn giáp xác, giun, nhuyễn
thể và thỉnh thoảng ăn cá. Cá đẻ trứng chìm và ấu trùng thuộc sinh vật nổi.
(Theo Nguyễn Hữu Phụng và Nguyễn Nhật Thi, 1994).
Nghiên cứu cấu trúc cơ thể cá như vị trí miệng, râu mắt, răng, kích thước
miệng,… giúp hiểu rõ hơn về loại thức ăn tự nhiên và tập tính bắt mồi của cá
(Pillay, 1952). Cá có miệng dưới hay miệng nằm ở mặt bụng khẳng định đó
chính là loài ăn đáy. Sự xuất hiện của các răng nhọn ở hàm chứng tỏ chúng
có khả năng bắt xé mồi như vậy đây là loài cá ăn thịt. Sự hình thành và phát
triển của mắt cũng là yếu tố rất quan trọng trong việc lựa chọn thức ăn của cá
trong tự nhiên (Alikunhi, 1952, trích theo Nguyễn Bạch Loan, 2004).
Theo Nguyễn Văn Triều, Dương Nhựt Long và Bùi Châu Trúc Đan, 2006, cá
Kết có đặc điểm hình thái giải phẩu cơ quan tiêu hóa như sau:
Cá Kết có miệng trên, rộng, không co duỗi được, rạch miệng gần như nằm
ngang, góc miệng chưa chạm tới bờ trước của mắt. Cá Kết có răng hàm nhỏ,
nhọn, mọc thành nhiều hàng trên hàm, ngọn răng hướng vào xoang miệng,
răng vòm miệng mọc thành một đám hình vòng cung, có thể dự đoán cá Kết
thuộc nhóm cá ăn động vật. Lược mang dài, mảnh, xếp thưa, nằm trên xương
cung mang, hướng vào xoang miệng hầu. Ở cung mang thứ nhất có 14 – 17
lược mang. Thực quản ngắn, có vách dày, mặt trong thực quản có nhiều nếp
gấp nên co giản được, do đó cá có thể nuốt được mồi to. Dạ dày có hình chữ J,
to, vách dày, mặt trong có nhiều nếp gấp nên có thể giãn nở và lực co bóp rất
lớn. Ruột cá Kết gấp khúc, ngắn, vách tương đối dày.
Tỉ lệ chiều dài ruột so với chiều dài chuẩn có giá trị trung bình là 0.83 - 0.1.
Theo Nikolxki (1963), những loài cá có tính ăn thiên về động vật sẽ có tỉ lệ
chiều dài ruột so với chiều dài chuẩn <1. Từ những đặc điểm về hình dạng,
răng, miệng, cho thấy kích thước của ống tiêu hoá có thể dự đoán cá Kết là
loài ăn động vật.
9
1.3.2. Phương pháp xác định tập tính dinh dưỡng cá
Một chỉ số thường được sử dụng để xác định tính ăn của cá là chỉ số tương
quan giữa chiều dài ruột và chiều dài chuẩn RLG (relative length of the gut).
Giá trị RLG không những thay đổi giữa các loài khác nhau mà còn thay đổi
trong từng cá thể theo từng giai đoạn phát triển, và được tính như sau:
RLG = Chiều dài ruột (Li)/ chiều dài chuẩn (Ls)
Theo nhận định của Trần Đắc Định và Phạm Thanh Liêm (2004) khi RLG < 1:
cá thuộc nhóm ăn động vật, chỉ số này lớn hơn 1 cá thiên về nhóm ăn thực vật.
Giá trị RLG dao động quanh giá trị trung bình cá thuộc nhóm ăn tạp.
Còn theo nhận định của Nikolxki (1963): Li/Ls ≤ 1: cá ăn tạp thiên về động
vật, Li/Ls = 1-3: cá ăn tạp, Li/Ls ≥ 3: ăn tạp thiên về thực vật.
Phương pháp phân tích thức ăn trong ruột cá
Thức ăn và tập tính ăn là những thông tin quan trọng trong ngành nuôi trồng
thủy sản. Các nghiên cứu về vấn đề này rất phức tạp đòi hỏi nhiều công đoạn
phân tích trong phòng thí nghiệm. Do không quan sát trực tiếp tập tính bắt mồi
của cá trong tự nhiên được nên để xác định tập tính dinh dưỡng của cá cách tốt
nhất là phân tích thành phần thức ăn trong ống tiêu hoá của cá.
Theo Trần Đắc Định và Phạm Thanh Liêm, 2004, có nhiều phương pháp phân
tích thức ăn của cá, có thể nhóm lại thành 3 phương pháp chính, đó là:
- Phương pháp số lượng: Phương pháp này được thực hiện bằng cách đếm
các loại thức ăn hiện diện trong ống tiêu hoá của cá và được tính theo 4 cách
khác nhau:
* Phương pháp tần số xuất hiện: Phương pháp này được mô tả như phương
pháp phân tích định tính các loại thức ăn cũng như cho biết tần suất của từng
loại thức ăn riêng biệt xuất hiện trong ruột cá. Trong phương pháp này số
lượng ống tiêu hóa hiện diện từng loại thức ăn riêng biệt được quy đổi ra phần
trăm (%) trên tổng số ống tiêu hoá cá được quan sát được. Phương pháp này
tiến hành theo 2 bước:
Bước 1: Tất cả các loại thức ăn hiện diện trong các mẫu quan sát sẽ được liệt
kê thành một danh sách, sau đó sự hiện diện hay không có mặt của mỗi loại
thức ăn trong từng ống tiêu hoá sẽ được ghi nhận lại.
Bước 2: Số lượng ống tiêu hoá có sự hiện diện của mỗi loại thức ăn sẽ được
cộng lại, và cách tính tương tự cho tất cả các loại thức ăn còn lại, sau đó sẽ
được tính ra phần trăm trên tổng số mẫu quan sát.
Công thức xác định tần số xuất hiện
Pi = Ni / N
Pi : Tần số xuất hiện loài i trong ống tiêu hoá cá.
Ni :Số lượng mẫu chứa loài thứ i trong ống tiêu hoá cá.
10
N : Tổng số lượng mẫu.
Phương pháp này cho phép định tính thành phần thức ăn và tần số xuất hiện
của mỗi loại thức ăn trong tổng số mẫu quan sát từ kết quả đó cho phép suy
đoán được tính ăn của cá.
* Phương pháp số lượng: Trong phương pháp này số lượng của mỗi loại
thức ăn sẽ được ghi nhận và được tính thành % trên tổng số các loại thức ăn
hiện diện trong ống tiêu hoá. Phương pháp này rất có hiệu quả khi nghiên cứu
trên nhóm cá ăn sinh vật nổi, tuy nhiên khi nghiên cứu trên nhóm cá ăn tạp thì
phương pháp này sẽ bộc lộ nhược điểm do không chú ý đến kích cỡ khác nhau
của các loại thức ăn.
* Phương pháp tính nhóm thức ăn ưu thế: Phương pháp này giống phương
pháp tính tần số xuất hiện. Sự khác biệt ở đây thay vì ghi nhận tất cả các loại
thức ăn hiện diện trong ống tiêu hoá thì chỉ có loại thức ăn hay nhóm thức ăn
chiếm ưu thế trong ống tiêu hoá được ghi nhận. Sau đó, số lượng ống tiêu hoá
có sự hiện diện của loại thức ăn hay nhóm thức ăn ưu thế sẽ được tính thành %
trên tổng số mẫu cá quan sát. Yếu điểm chính của phương pháp này là nhóm
thức ăn mà cá ưa thích nhất có thể bắt gặp với số lượng nhỏ do các tác động
của môi trường, trong khi đó một nhóm thức ăn khác sẽ vượt trội hơn và trở
thành nhóm thức ăn ưu thế, gây sự khó khăn trong việc đánh giá chính xác tập
tính dinh dưỡng chính xác của loài.
* Phương pháp đếm điểm: Đây là sự kết hợp giữa số lượng và kích thước để
đánh giá về mặt khối lượng của thức ăn. Điểm số của mỗi loại thức ăn phụ
thuộc vào:
- Tần số xuất hiện: Thức ăn thường xuất hiện sẽ có điểm số cao nhất, thức ăn
ít xuất hiện sẽ có điểm số thấp hơn.
- Kích cỡ thức ăn: Thức ăn kích cỡ lớn sẽ có điểm cao hơn thức ăn cỡ nhỏ.
Điểm số cho tất cả các loại thức ăn sẽ được kết hợp lại và được tính ra % trên
tổng điểm số các loại thức ăn có trong khẩu phần ăn của cá.
- Phương pháp thể tích: Phương pháp này thường được xem là thỏa mãn và
chính xác hơn trong việc phân tích ống tiêu hoá của cá. Thực tế có 3 cách
phân tích
* Phương pháp ước lượng bằng mắt: Trong phương pháp này, thức ăn trong
mỗi mẫu ruột cá được đưa về cùng một đơn vị thể tích và mỗi loại thức ăn
được tính ra % theo thể tích (Pearse, 1915; Pillay, 1952). Thức ăn trong mỗi
ruột cá trước tiên được cho vào một thể tích nhất định, lắc thật mạnh để thức
ăn được phân tán đều trong nước. Sau đó lấy một giọt mẫu và quan sát dưới
kính hiển vi. Diện tích bị chiếm của mỗi loại thức ăn được xác định theo đơn
vị mà người quan sát qui ước. Mỗi mẫu ruột cá quan sát ít nhất 10 giọt, sau đó
lấy giá trị trung bình cho mỗi loại thức ăn.
* Phương pháp tính điểm: Phương pháp này cơ bản giống với phương pháp
ước lượng bằng mắt, tuy nhiên thay cho việc ước lượng diện tích mỗi loại thức
ăn được ước định bằng điểm số căn cứ trên thể tích của chúng.
11
* Phương pháp thay thế: phương pháp này được xem là chính xác nhất trong
các phương pháp thể tích. Trong phương pháp này thể tích của mỗi loại thức
ăn được đo bằng thể tích nước bị thay thế