Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế và xã hội những
nghiên cứu thống kê cộng đồng cho thấy tỷ lệ chấn thương vùng mặt gặp trong
những tai nạn giao thông, tai nạn lao động, tai nạn sinh hoạt xuất hiện ngày
càng nhiều và thường để lại di chứng sẹo co kéo vùng mặt do tổn thương hệ
thống cân cơ nông. Bên cạnh đó, quá trình lão hóa cũng làm giảm tính đàn hồi
của da gây nên tình trạng dãn da, xuất hiện các nếp nhăn và có hiện tượng tích
tụ mỡ dưới hệ thống cân cơ nông của mặt.
Hiện nay, chuyên ngành phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ đã và đang phát
triển nhanh chóng, vượt bậc. Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn của phẫu thuật
viên ngày càng được nâng cao, đạt được nhiều thành tựu trong việc phục hồi
chức năng và thẩm mỹ cho bệnh nhân. Tuy nhiên, việc can thiệp vào các tổ
chức ở vùng mặt đôi khi còn hạn chế hoặc gây ra những tổn thương như: liệt
mặt, đứt ống tuyến nước bọt mang tai . thường là do hạn chế về mặt kỹ năng
và kiến thức của phẫu thuật viên, đặt biệt là về các mốc giải phẫu học ứng dụng
của hệ thống cân cơ nông ở mặt.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu sâu về hệ thống cân cơ nông và mối
liên quan với các cấu trúc quan trọng của vùng mặt như tuyến nước bọt mang
tai, thần kinh mặt, động mạch thái dương nông.nhưng vẫn còn chưa thống
nhất. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này và
hệ thống cân cơ nông chỉ mới được đề cập ở khía cạnh mô tả đơn thuần như là
một mạc nông của mặt.
128 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 543 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu hệ thống cân cơ nông vùng mặt và mối liên quan với thần kinh mặt trên người Việt trưởng thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục thuật ngữ Anh – Việt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
ĐẶT VẤN ĐỀ ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................... 3
1.1. Đặc điểm giải phẫu các dây chằng, lớp và khoang vùng mặt.................... 3
1.1.1. Danh pháp các dây chằng, lớp và khoang vùng mặt .......................... 3
1.1.2. Nguyên lý chung các lớp vùng mặt .................................................... 7
1.1.3. Cấu tạo chung năm lớp của vùng mặt................................................. 8
1.2. Những khái niệm và nghiên cứu về cấu trúc dây chằng, sợi dính, vách
ffffff ở vùng mặt. ............................................................................................... 14
1.2.1. Mảng McGregor ............................................................................... 14
1.2.2. Dây chằng vùng quanh tai ................................................................ 16
1.2.3. Dây chằng vùng cơ cắn ..................................................................... 20
1.2.4. Dây chằng gò má .............................................................................. 22
1.2.5. Dây chằng quanh ổ mắt .................................................................... 24
1.2.6. Các dây chằng nâng đỡ của vùng thái dương ................................... 24
1.2.7. Dây chằng hàm dưới ......................................................................... 25
1.3. Các nghiên cứu khoang vùng mặt hiện nay ............................................. 26
1.3.1. Khoang tiền cơ cắn ........................................................................... 27
1.3.2. Khoang má và lớp mỡ má ................................................................. 29
1.4. Các nghiên cứu về liên quan dây thần kinh mặt với các lớp vùng mặt ... 30
1.4.1. Các dạng thay đổi nguyên ủy của dây thần kinh mặt ....................... 30
1.4.2. Đặc điểm dạng thay đổi giải phẫu các nhánh dây thần kinh mặt ..... 32
1.5. Các nghiên cứu về lớp cân cơ nông vùng mặt, dây chằng và dây thần
aaaa kinh mặt trong nước. ................................................................................ 37
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 39
2.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 39
2.2. Phương tiện nghiên cứu ........................................................................... 39
2.3. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 41
2.3.1. Phẫu tích đại thể các lớp vùng mặt, dây chằng, khoang và dây thần
aaaaaaa kinh mặt ............................................................................................ 41
2.3.2. Khảo sát vi thể các lớp, dây chằng vùng mặt và thần kinh mặt ....... 56
2.4. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu ................................................... 60
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 61
3.1. Đặc điểm giải phẫu cân cơ nông vùng mặt và ranh giới giữa các aa
aa vùng ......................................................................................................... 61
3.1.1. Lớp da vùng mặt ............................................................................... 61
3.1.2. Lớp mô dưới da vùng mặt ................................................................. 62
3.1.3. Lớp cân cơ nông vùng mặt ............................................................... 63
3.1.4. Lớp dưới cân cơ nông ....................................................................... 69
3.2. Mối liên quan hệ thống cân cơ nông vùng mặt với các nhánh dây thần
aaaa kinh mặt ................................................................................................... 76
3.2.1. Đặc điểm chung thần kinh mặt ......................................................... 76
3.2.2. Khảo sát mối tương quan đại thể và vi thể lớp cân cơ nông vùng
aaaaaaa mặt với các nhánh thần kinh mặt ...................................................... 84
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN .................................................................................. 97
4.1. Đặc điểm giải phẫu hệ thống cân cơ nông mặt ........................................ 97
4.1.1. Cấu tạo chung năm lớp vùng mặt ..................................................... 97
4.1.2. Các lớp vùng mặt và các thành phần đi qua ................................... 105
4.2. Mối liên quan của các nhánh thần kinh mặt với các lớp, dây chằng
aaaaa vùng mặt ................................................................................................. 108
4.2.1. Đặc điểm chung các nhánh thần kinh mặt ...................................... 108
4.2.2. Liên quan các nhánh thần kinh mặt với các lớp, dây chằng vùng
aaa mặt .................................................................................................. 111
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 123
KIẾN NGHỊ ...................................................................................................... 125
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế và xã hội những
nghiên cứu thống kê cộng đồng cho thấy tỷ lệ chấn thương vùng mặt gặp trong
những tai nạn giao thông, tai nạn lao động, tai nạn sinh hoạt xuất hiện ngày
càng nhiều và thường để lại di chứng sẹo co kéo vùng mặt do tổn thương hệ
thống cân cơ nông. Bên cạnh đó, quá trình lão hóa cũng làm giảm tính đàn hồi
của da gây nên tình trạng dãn da, xuất hiện các nếp nhăn và có hiện tượng tích
tụ mỡ dưới hệ thống cân cơ nông của mặt.
Hiện nay, chuyên ngành phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ đã và đang phát
triển nhanh chóng, vượt bậc. Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn của phẫu thuật
viên ngày càng được nâng cao, đạt được nhiều thành tựu trong việc phục hồi
chức năng và thẩm mỹ cho bệnh nhân. Tuy nhiên, việc can thiệp vào các tổ
chức ở vùng mặt đôi khi còn hạn chế hoặc gây ra những tổn thương như: liệt
mặt, đứt ống tuyến nước bọt mang tai ... thường là do hạn chế về mặt kỹ năng
và kiến thức của phẫu thuật viên, đặt biệt là về các mốc giải phẫu học ứng dụng
của hệ thống cân cơ nông ở mặt.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu sâu về hệ thống cân cơ nông và mối
liên quan với các cấu trúc quan trọng của vùng mặt như tuyến nước bọt mang
tai, thần kinh mặt, động mạch thái dương nông...nhưng vẫn còn chưa thống
nhất. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này và
hệ thống cân cơ nông chỉ mới được đề cập ở khía cạnh mô tả đơn thuần như là
một mạc nông của mặt.
Xuất phát từ những điểm nêu trên, tôi tiến hành “Nghiên cứu đặc điểm
giải phẫu hệ thống cân cơ nông vùng mặt và mối liên quan với thần kinh
mặt trên người Việt trưởng thành” với hai mục tiêu chính:
1. Khảo sát đặc điểm giải phẫu một số cân cơ nông vùng mặt.
2
2. Xác định sự liên quan đại thể và vi thể giữa các nhánh dây thần kinh
mặt với hệ thống cân cơ nông vùng mặt.
Những hiểu biết cặn kẽ, chính xác về các dạng thay đổi mốc giải phẫu và
liên quan của hệ thống cân cơ nông sẽ giúp các phẫu thuật viên trên lâm sàng
có thể xác định được ranh giới của hệ thống này trên người Việt Nam, hạn chế
tối đa những thương tổn có thể xảy ra trong những phẫu thuật ở vùng mặt.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm giải phẫu các dây chằng, lớp và khoang vùng mặt
1.1.1. Danh pháp các dây chằng, lớp và khoang vùng mặt
1.1.1.1. Nguyên tắc định danh
Trong quá trình thu thập dữ kiện và hoàn thành cuốn sách BNA, hội đồng
đã nhất trí đưa ra các nguyên tắc sau:
1. Mỗi cấu trúc chỉ được đặt duy nhất một thuật ngữ.
2. Tất cả các thuật ngữ phải bằng tiếng Latin. Mỗi quốc gia có quyền tự
do dịch những thuật ngữ chính thống Latin đó thành tiếng bản xứ của riêng họ.
3. Tất cả các thuật ngữ cần ngắn gọn và đơn giản.
4. Những thuật ngữ sẽ là các dấu hiệu chỉ điểm cho trí nhớ.
5. Các cấu trúc liên quan mật thiết về mặt vị trí và hình thể sẽ phải có các
tên gọi càng giống nhau càng tốt.
6. Các tính từ phân biệt sẽ được sắp xếp thành từng cặp đối lập.
7. Các từ chỉ về tên người sẽ không được sử dụng trong danh pháp giải
phẫu đại thể và vi thể chính thống [1].
* Định nghĩa và phân loại
Khái niệm “dây chằng” theo từ điển y khoa Dorland được định nghĩa là
một dải mô sợi nối giữa xương và sụn, nhằm hỗ trợ và củng cố khớp [2]. Tuy
nhiên, các dây chằng vùng đầu mặt lại được mô tả có nguyên ủy ở xương hoặc
mạc và có bám tận ở da. Vì vậy, nhiều tác giả khi nghiên cứu về dây chằng đã
sử dụng những thuật ngữ khác nhau để mô tả.
Furnas D.W. là người đầu tiên sử dụng danh pháp “dây chằng nâng đỡ”
khi ông mô tả các dây chằng nâng đỡ của vùng má. Về mặt vi thể, ông ghi nhận
cấu trúc của dây chằng có hình ảnh tương tự như cây, với gốc cây là vị trí dày
4
lên ở màng xương hoặc dày lên của mạc sâu, từ đó sẽ phân thành nhiều nhánh
tiếp cận với lớp cân cơ nông và đến bám tận tại lớp da. Mạng lưới các sợi phân
nhánh này được đặt tên là mô liên kết chân bì da, trong đó dây chằng là một
phần của hệ thống các vách ngăn sợi lớn, phức tạp trong lớp dưới da [3]. Cấu
tạo này cũng được Gosain A. K. mô tả trong cấu trúc “lớp mạc - mỡ” của khuôn
mặt, những thành phần của các dây chằng nâng đỡ được mở rộng vào lớp dưới
da nằm nông có thể đóng vai trò trong việc hình thành các vách và phân chia
lớp này thành các khoang mỡ của mặt [4]. Khái niêm này đã nhận được sự đồng
thuận của nhiều tác giả khác do cũng tìm thấy một số ranh giới vách nằm dưới
da chồng lấp lên vị trí các các dây chằng nâng đỡ nằm sâu hơn và ghi nhận các
dây chằng nâng đỡ cùng với các vách sợi dưới da tạo thành các vùng kết dính
sẽ phân chia khuôn mặt thành các khoang nông và sâu [5].
Hình 1.1. Vị trí giải phẫu các dây chằng nâng đỡ trên mặt
* Nguồn: theo Alghoul M. và cs (2013) [6]
Theo Stuzin J.M. và cs, các dây chằng nâng đỡ được phân loại thành: (1)
dây chằng da - xương xuất phát từ màng xương (như dây chằng gò má, dây
chằng hàm dưới) và (2) dây chằng mạc - da (như dây chằng da cơ cắn, dây
5
chằng da tuyến mang tai), những dây chằng này sẽ kết hợp cùng với mạc nông
và mạc sâu của mặt [7], [8].
Tác giả Knize D.M. cùng với Moss C.J. và cs đã mô tả cấu tạo vi thể của
một dây chằng nâng đỡ thực sự là những mô sợi được sắp xếp thành hình trụ
và có cấu trúc giống như mô liên kết chân bì da mà Furnas D.W. đã đề cập ở
trên [3]. Với định nghĩa này, các tác giả đã xem dây chằng gò má và dây chằng
cơ cắn chính là những dây chằng nâng đỡ thực sự [9], [10]. Moss C.J. và cs
cũng đã tìm thấy và mô tả thêm một số những dạng liên kết khác của dạng dây
chằng như: vách hoặc các liên kết dính (chủ yếu được tìm thấy trong vùng thái
dương và vùng quanh ổ mắt), nhưng ông cho rằng các vách và liên kết dính
không phải là những dây chằng nâng đỡ thực sự vì chúng không bám tận trực
tiếp vào lớp da mà thay vào đó các vách lại có liên kết trực tiếp lên hệ thống
cân cơ nông vùng mặt (SMAS) và gián tiếp lên lớp da thông qua mô liên kết
chân bì da [10]. Do đó, các tác giả đã đề xuất sử dụng một thuật ngữ khái quát
hơn là “các dây chằng của lớp mô nông” để bao gồm những dây chằng nâng đỡ
thật sự và các dạng liên kết khác [6].
Như vậy, những dây chằng nâng đỡ khuôn mặt có cấu tạo là những liên
kết sợi rất chắc xuất phát từ màng xương hoặc lớp mạc sâu từ đó xuyên qua,
thẳng góc với các lớp của mặt và bám vào lớp da. Những dây chằng này có vai
trò làm các điểm cố định để nâng đỡ, ổn định da và lớp cân cơ nông (superficial
musculoaponeurotic) vào các lớp mạc sâu nằm bên dưới cũng như phần sọ mặt
tại một số vị trí giải phẫu nhất định [6].Vì vậy, đa số các tác giả đã sử dụng
thuật ngữ “dây chằng nâng đỡ của khuôn mặt” để giải thích các dây chằng đề
cập trước đó trên khuôn mặt [6], [11], [12], [13].
6
1.1.1.2. Danh pháp
Bảng 1.1. Danh pháp các dây chằng nâng đỡ mặt
Danh pháp dây chằng Từ đồng nghĩa giả định
1. Vùng gò má
- Mảng McGregor
(McGregor M. 1959) [14]
- D/C gò má (Furnas D.W. 1989) [3]
- D/C da gò má (Özdemir R. 2002) [15]
2. Vùng quanh tai
- D/C cơ bám da cổ - tai
(Furnas D.W. 1989) [3]
- D/C da - tuyến mang tai
(Stuzin J.M. 1992) [7]
- Mạc cơ bám da cổ - tai
(PAF, Mendelson B.C.
2008) [16]
- Mạc thái dương - tuyến
mang tai (Lore 1973) [17]
- D/C tai - cơ bám da cổ (Botti G. 2012) [18]
- Mạc cơ bám da cổ - tai (Furnas D.W. 1994) [19]
- D/C cơ bám da cổ - tai (Furnas D.W. 1989) [3]
- D/C da tuyến mang tai (Stuzin J.M. 1992) [7]
- Mạc cơ bám da cổ - tai (Furnas D.W. 1994) [19]
- D/C cơ bám da cổ - tai (Botti G. 2012) [18]
- D/C da - tuyến mang tai trước tai (Özdemir R.
2002) [15]
- Mạc Lore (Labbé G. 2006) [20]
- Mạc thái dương - tuyến mang tai (Labbé G.
2006) [20]
3. Vùng quanh cơ cắn
- D/C da cơ bám da cổ trước
(Furnas D.W. 1989) [3]
- D/C da cơ bám da cổ
(Özdemir R. 2002) [15]
- D/C da cơ cắn (Stuzin J.M. 1992) [7]
- D/C da tuyến mang tai - cơ cắn (Özdemir R.
2002) [15]
- Vách xương hàm dưới (Reece E.M. 2008) [21]
7
1.1.2. Nguyên lý chung các lớp vùng mặt
Các lớp của vùng mặt có thể được mô tả qua các chi tiết đặc trưng sau:
- Lớp da đầu là cấu trúc đặc trưng căn bản giúp hiểu rõ giải phẫu vùng
mặt, đây là phần ít biệt hoá nhất của mặt.
Hình 1.2. Các lớp vùng mặt
* Nguồn: theo Mendelson B.C. (2009) [22]
- Mặt được cấu tạo từ nhiều lớp mô mềm phủ lên nền xương phía dưới.
Gồm 5 lớp: da, lớp dưới da, lớp cân cơ nông, lớp mô liên kết lỏng lẻo và lớp
mạc sâu. Các lớp này không đồng nhất hay không cùng nguồn gốc, chúng được
phân hoá thành từng vùng chức năng riêng biệt.
- Vùng có chức năng quan trọng là những vùng nằm trên các hốc xương
trên mặt như mi mắt, gò má và miệng.
- Cấu trúc mô sợi đan chéo giúp hỗ trợ kết dính các lớp da tại các vùng
trên mặt vào xương sọ. Thành phần các sợi của hệ thống này xuyên qua tất cả
các lớp của mặt [2].
- Tại vị trí chuyển tiếp giữa phần xương mặt và các hốc (ổ mắt và ổ miệng)
đều có sự chuyển tiếp về cấu trúc giải phẫu.
- Cấu trúc phức tạp của mặt có được là do sự cân bằng giữa các mô cử
động được và các mô cố định, được hỗ trợ bởi hệ thống các dây chằng.
8
Cấu trúc giải phẫu phức tạp của vùng mặt đều do sự hiện diện của các hốc
xương và các yêu cầu về chức năng của chúng. Có sự chuyển đổi về giải phẫu
tại ranh giới của các hốc xương và nền xương mặt [23], [24], [25].
1.1.3. Cấu tạo chung năm lớp của vùng mặt
1.1.3.1. Lớp da
Chiều dày của lớp da thay đổi tuỳ theo vùng chức năng và thường có xu
hướng tỉ lệ nghịch với khả năng di động của vùng đó. Lớp da mỏng nhất ở vùng
mí mắt, dày nhất ở vùng trán và vùng đỉnh mũi. Các vùng da càng mỏng, nếu
có nhiều cử động sẽ càng có xu hướng thay đổi [26].
Da có 2 lớp chính, phía trên là biểu bì, là lớp biểu mô lát tầng sừng hóa,
tiếp theo là lớp bì tạo bởi mô liên kết sợi collagen có tính đàn hồi, có chứa mạch
máu, thần kinh và các thụ thể cảm giác, có chức năng nâng đỡ lớp biểu bì. Bên
dưới có lớp mô dưới da còn gọi là lớp hạ bì, gồm nhiều lớp mô mỡ. Lớp này
liền kề với cân sâu hoặc màng ngoài xương [27], [28], [29].
1.1.3.2. Lớp xơ – mỡ dưới da
Gồm 2 phần: (1) lớp mỡ dưới da (tạo nên độ dày và khả năng cử động của
da). (2) lớp mạng lưới mô sợi có nhiều mạng liên kết nối lớp da ở trên với
SMAS phía dưới. Hai thành phần trên đều đa dạng về khối lượng, sự cân đối
và cách bố trí tuỳ theo từng vùng cụ thể trên mặt. Từng phân vùng của vùng
giữa mặt sẽ có độ dày mô mỡ dưới da khác nhau: Lớp dưới da mỏng nhất ở
phân vùng mí mắt - gò má, nơi nối với mí mắt; Phân vùng gò má có lớp dưới
da tương đối dày và đồng nhất hơn, trong khi phân vùng mũi - môi có lớp mỡ
dưới da dày nhất vùng mặt. Vùng có lớp mỡ dưới da càng dày thì mô sợi càng
nhiều, càng có nhiều xu hướng chảy xệ và yếu đi theo thời gian [16], [30], [31].
Thuật ngữ “giữa mặt” để chỉ ⅓ giữa mặt, để phân biệt với ⅓ trên và dưới
của mặt, được xác định bằng đường nằm ngang phía trên của cung gò má và
9
kéo dài bắt đầu ngay điểm trên bình tai đến khóe mắt ngoài, và đường ở dưới
kéo dài từ điểm dưới bình tai đến ngay dưới mép miệng.
Hình 1.3. Vùng giữa mặt có mặt trước và mặt bên
* Nguồn: theo Mendelson B.C. và cs (2008) [32]
Vùng gò má giữa là một phần của vùng giữa mặt, ở mặt trước và có giới
hạn trên là mí mắt dưới và giới hạn dưới là rãnh má môi và môi. Gò má giữa
có hình tam giác, hẹp phía dưới do sự tạo góc của nếp mũi môi. Bên trong, gò
má giữa kết hợp một phần nhỏ với cánh mũi. Bờ ngoài của gò má giữa liên tục
với má ngoài, bao quanh phần nhô của xương gò má và phía dưới.
Gò má giữa được hình thành bởi sự hội tụ của 3 phần: phần mi, phần má
và phần mũi môi. Gò má giữa của người trẻ thường có dạng tròn đầy, không
thay đổi, tuy nhiên về mặt cấu trúc sẽ có sự khác biệt giữa người trẻ và người
già [33] . Khi già đi, các phần này sẽ xuất hiện rõ rệt, chúng được phân chia bởi
3 rãnh da ở gò má giữa: rãnh má - mi ở trên ngoài, rãnh mũi - má ở phía trong
và rãnh gò má giữa ở ngoài bên dưới. Ba rãnh này có thể liên tưởng như chữ
“Y”. Rãnh gò má giữa tương ứng với chân “Y” từ gốc định hướng chạy gần
như song song với nếp mũi - môi và là sự tiếp nối của rãnh mũi - má; Rãnh má
- mi tương ứng với nhánh trái của “Y” gắn với gốc gần phần trên gò má giữa
[8], [34], [35].
10
Hình 1.4. Gò má giữa có hình tam giác
* Nguồn: theo Mendelson B.C. (2008) [32]
Trong lớp dưới da, sự liên kết với lớp da phía trên chặt hơn sự liên kết với
lớp mô bên dưới, theo mô hình cây của mô sợi và dây chằng.
Ở trên bề mặt có nhiều sợi mô liên kết, nhưng càng xuống các lớp phía
dưới các mô sợi sẽ tập trung thành các bó lớn hơn nên sẽ tăng về kích thước
nhưng giảm về số lượng và có ít mô mỡ hơn. Do đó, việc bóc tách lớp dưới da
với các lớp sâu sẽ dễ dàng. Sự đa dạng về hướng của các sợi liên kết trong lớp
dưới da sẽ giúp chúng ta giải thích độ khó khác nhau trong việc bóc tách tuỳ
theo từng vùng của mặt [36].
Hình 1.5. Cấu trúc dây chằng đa liên kết sợi của hệ thống nâng đỡ mặt
giống như cấu trúc dạng cây
* Nguồn: theo Mendelson B.C. (2009) [22]
11
1.1.3.3. Lớp cân cơ nông
Vùng mặt có các cơ vân nằm trong lớp mô mềm. Các cơ này có chức năng
biểu hiện cảm xúc trên mặt vì có sự liên kết chặt chẽ giữa cơ và mô mềm. Tất
cả các cơ nông đều nằm ở lớp này và bao cơ có độ dày mỏng khác nhau. Về
bản chất, các cơ này khác với các cơ bám trên xương ở lớp cân sâu khi co rút
sẽ cử động xương. Về mặt phát triển của phôi thai, các cơ đều phát triển từ cung
mang thứ hai, các tế bào nguyên thuỷ sẽ di chuyển về vùng mà sau này sẽ trở
thành miệng, mũi, ổ mắt. Sự di chuyển này xảy ra ở mặt nông so với các cấu
trúc tạo bởi cung mang thứ nhất (xương hàm dưới, các cơ nhai), như vậy sẽ kéo
theo các nhánh thần kinh của cung mang thứ hai là thần kinh mặt về phía trước
và đi đến các cơ mặt ngay dưới da [37], [38], [39], [40]. Trong quá trình phát
triển, các cơ này có thể dần mất đi sự liên tục với nơi xuất thân của mình, nhưng
các nhánh thần kinh mặt đi kèm thì vẫn còn, và có thể cho thấy nguồn gốc ban
đầu của chúng. Điều này thể hiện rất rõ với hình ảnh của cơ chẩm - trán, lớp
mô sợi bao ngoài cơ vùng trán và vùng chẩm chạy liên tục dưới các nang tóc,
trong khi đó các cơ này lại không liên tục. Tại vị trí không có cơ, sẽ có sự hiện
diện của cân trên