Luận văn Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng năng suất và chất lượng mủ của một số dòng vô tính cao su trên vùng đất đỏ tại Gia Lai và Đắk Lắk

Cây cao su (Hevea brasiliensis)thuộc Họ thầu dầu (Euphorbiaceae), Bộ ba mảnh vỏ (Euphorbiales) là một cây công nghiệp có nguồn gốc ở lưu vực sông Amazone (Nam Mỹ), được trồng phổ biến trên quy mô lớn tại Đông Nam Châu Á và miền nhiệt đới Châu Phi từ năm 1876 [9]. Cây cao su được du nhập vào Việt Nam từ năm 1897. Hiện nay, cây cao su đang chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần đáng kể cho phát triển công nghiệp trong nước và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế chiến lược của Việt Nam [9]. Cây cao su (Hevea brasiliensis) với sản phẩm chính là mủ, được dùng làm nguồn nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp quan trọng, đặc biệt là ngành giao thông vận tải. Ngoài ra, cây cao su còn cho các sản phẩm khác cũng có công dụng không kém phần quan trọng như gỗ, dầu hạt. Cây cao su còn có tác dụng bảo vệ môi trường, cải thiện vấn đề kinh tế xãhội nhất là ở các vùng Tây Nguyên, Trung du miền núi [9]. Trong lịch sử hơn một thế kỷ phát triển, công tác cải tiến giống cao su đóng góp một vai trò quan trọng, đã nâng dần năng suất cao su ban đầu từ 500 kg/ha khi trồng bằng hạt, đến nay năng suất đã tăng lên 4- 6 lần với những dòng vô tính được lai tạo và chọn lọc [21]. Ngoài ra công tác giống cũng đã hướng tới mục tiêu đa dạng hóa sản phẩm (mủ - gỗ) và mở rộng địa bàn phát triển. Diện tích trồng cao su ở nước ta đến năm 2009 đạt 674.200 ha với sản lượng đạt khoảng 723.700 tấn mủ khô. Trong đó, diệntích và sản lượng ở vùng phi truyền thống như Tây Nguyên và Duyên Hải Miền Trung đang tăng nhanh, chiếm khoảng 30% tổng diện tích. Để phát triển diệntích trồng cao su đáp ứng nhu cầu nguyên liệu phục vụ sản xuất và xuất khẩu, Chính phủ có chủ trương đưa diện tích cao su lên 800.000 ha vào năm 2020. Định hướng quy hoạch cao su được tập trung ở 5 vùng chính: vùng Đông Nam Bộ,vùng Tây Nguyên, vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ, vùng Bắc Trung Bộ và các tỉnh vùng Tây Bắc [4].

pdf94 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2088 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng năng suất và chất lượng mủ của một số dòng vô tính cao su trên vùng đất đỏ tại Gia Lai và Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN ∼∼∼∼∼ ∼∼∼∼∼ NGUYỄN THỊ MAI QUYÊN NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG MỦ CỦA MỘT SỐ DÒNG VÔ TÍNH CAO SU TRÊN VÙNG ĐẤT ĐỎ TẠI GIA LAI VÀ ĐẮK LẮK LuËn v¨n th¹c sÜ n«ng nghiÖp BUÔN MA THUỘT, 2010 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN ∼∼∼∼∼ ∼∼∼∼∼ NGUYỄN THỊ MAI QUYÊN NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG MỦ CỦA MỘT SỐ DÒNG VÔ TÍNH CAO SU TRÊN VÙNG ĐẤT ĐỎ TẠI GIA LAI VÀ ĐẮK LẮK Chuyên ngành: TRỒNG TRỌT Mã số: 60.62.01 LuËn v¨n th¹c sÜ n«ng nghiÖp Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN THỦY BUÔN MA THUỘT, 2010 i 1 MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Cây cao su (Hevea brasiliensis) thuộc Họ thầu dầu (Euphorbiaceae), Bộ ba mảnh vỏ (Euphorbiales) là một cây công nghiệp có nguồn gốc ở lưu vực sông Amazone (Nam Mỹ), được trồng phổ biến trên quy mô lớn tại Đông Nam Châu Á và miền nhiệt đới Châu Phi từ năm 1876 [9]. Cây cao su được du nhập vào Việt Nam từ năm 1897. Hiện nay, cây cao su đang chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần đáng kể cho phát triển công nghiệp trong nước và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế chiến lược của Việt Nam [9]. Cây cao su (Hevea brasiliensis) với sản phẩm chính là mủ, được dùng làm nguồn nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp quan trọng, đặc biệt là ngành giao thông vận tải. Ngoài ra, cây cao su còn cho các sản phẩm khác cũng có công dụng không kém phần quan trọng như gỗ, dầu hạt. Cây cao su còn có tác dụng bảo vệ môi trường, cải thiện vấn đề kinh tế xã hội nhất là ở các vùng Tây Nguyên, Trung du miền núi [9]. Trong lịch sử hơn một thế kỷ phát triển, công tác cải tiến giống cao su đóng góp một vai trò quan trọng, đã nâng dần năng suất cao su ban đầu từ 500 kg/ha khi trồng bằng hạt, đến nay năng suất đã tăng lên 4 - 6 lần với những dòng vô tính được lai tạo và chọn lọc [21]. Ngoài ra công tác giống cũng đã hướng tới mục tiêu đa dạng hóa sản phẩm (mủ - gỗ) và mở rộng địa bàn phát triển. Diện tích trồng cao su ở nước ta đến năm 2009 đạt 674.200 ha với sản lượng đạt khoảng 723.700 tấn mủ khô. Trong đó, diện tích và sản lượng ở vùng phi truyền thống như Tây Nguyên và Duyên Hải Miền Trung đang tăng nhanh, chiếm khoảng 30% tổng diện tích. Để phát triển diện tích trồng cao su đáp ứng nhu cầu nguyên liệu phục vụ sản xuất và xuất khẩu, Chính phủ có chủ trương đưa diện tích cao su lên 800.000 ha vào năm 2020. Định hướng quy hoạch cao su được tập trung ở 5 vùng chính: vùng Đông Nam Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ, vùng Bắc Trung Bộ và các tỉnh vùng Tây Bắc [4]. 2 Tây Nguyên đã trở thành vùng trọng điểm phát triển cao su của cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố thuận lợi như quỹ đất cho phát triển cây công nghiệp còn nhiều, phần lớn là đất đỏ Bazan giàu dinh dưỡng, còn có nhiều yếu tố hạn chế tới sự phát triển của cao su như: cao trình cao, địa hình phức tạp và có mùa khô kéo dài, lượng bốc thoát hơi nước trong mùa khô lớn và gió mạnh thường xuyên, đã làm hạn chế tới khả năng sinh trưởng, năng suất và mức độ chống chịu bệnh của nhiều dòng vô tính cao su. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đang được đặt ra là phải chọn những dòng vô tính cao su thích hợp cho vùng sinh thái Tây Nguyên, đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu của sản xuất là có khả năng sinh trưởng khỏe, sản lượng cao sớm ổn định, chống chịu bệnh tốt và có các đặc tính sinh lí mủ phù hợp với xu hướng khai thác hiện đại có sử dụng chất kích thích mủ, để giảm tối đa công lao động. Mặt khác, các đặc tính công nghệ mủ cao su cũng được chú trọng hơn, nhằm thỏa mãn yêu cầu của các nhà tiêu dùng. Xuất phát từ điều kiện thực tế và yêu cầu của sản xuất tại Tây Nguyên, là cần có cơ cấu bộ giống cao su địa phương hóa tiến bộ có thể đáp ứng được các yêu cầu: rút ngắn thời gian kiến thiết cơ bản, tăng năng suất mủ và có khả năng chống chịu bệnh có thể chấp nhận được. Vì vậy, chúng tôi kế thừa các số liệu nghiên cứu trước đây và theo dõi một số chỉ tiêu nhằm chọn lọc được những dòng vô tính cao su thích hợp cho vùng sinh thái Tây Nguyên. Để góp phần giải quyết vấn đề nêu trên chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài. “Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, năng suất và chất lượng mủ của một số dòng vô tính cao su trên vùng đất đỏ tại Gia Lai và Đắk Lắk”. 2. Mục đích của đề tài Trên cơ sở xác định và đánh giá một số yếu tố tự nhiên, nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng, sản lượng mủ, đặc tính sinh lý mủ, đặc tính công nghệ mủ của 07 dòng vô tính cao su ở vùng đất đỏ Gia Lai và Đắk Lắk nhằm đóng góp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và khuyến cáo bộ giống cao su đã được địa phương hóa ở Tây Nguyên. 3 3. Mục tiêu của đề tài Xác định được các yếu tố khí hậu và đất đai ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, sản lượng mủ, đặc tính sinh lý mủ, đặc tính công nghệ mủ của 07 dòng cao su vô tính tại Gia Lai và Đắk Lắk. Tuyển chọn được một số dòng cao su vô tính có triển vọng tại các địa điểm nghiên cứu. 4. Giới hạn nghiên cứu Bốn vườn chung tuyển giống cao su ở các huyện Mang Yang, Chư Sê, Chư Prông thuộc tỉnh Gia Lai và huyện Ea H’Leo thuộc tỉnh Đắk Lắk. 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 1.1 Nguồn gốc và các giai đoạn lịch sử phát triển cao su thiên nhiên trên thế giới 1.1.1 Nguồn gốc và tên họ Amazone Nam Mỹ là vùng nguyên sản của cây cao su, là một vùng rộng lớn bao gồm các nước: Brazil, Bolivia, Peru, Colombia, Ecuadon, Venezucla, French, Guiana, Surinan [37]; trải rộng từ vĩ tuyến 15o Nam đến vĩ tuyến 6 o Bắc và kinh tuyến 46 - 77 o Tây. Ngoài vùng bản địa trên người ta không tìm thấy cây cao su trong tự nhiên ở các nơi khác trên thế giới. Euphorbiaceae. Trong chi Hevea còn có 9 loài Hevea khác: Hevea benthamiana, H. Camanganoa, H. Camporum, H. Guianensis, H. Nitida, H. Microphylla, H. Pauciflora, H. Rigidifolia và H. Spuceara, tất cả đều có 2n = 36 [37]. 1.1.2 Các giai đoạn lịch sử phát triển cao su thiên nhiên - Giai đoạn khai thác cao su hoang dại (1500- 1870) Ở giai đoạn này, sản phẩm mủ cao su được khai thác từ các cây cao su hoang dại trong rừng Amazone. Đến cuối giai đoạn này (1830) nhà máy chế biến mủ cao su đầu tiên ra đời, đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc sử dụng sản phẩm mủ cao su vào các kỹ nghệ: giày dép, sản phẩm nhựa dẻo, áo mưa, ống nhựa, thiết bị giải phẫu [37]. - Giai đoạn di nhập và nhân trồng cao su thiên nhiên (1870- 1914) Năm 1876, Henry Wickham mang 70.000 hạt cao su từ vùng Rio. Tapajoz ở vùng thượng lưu sông Amazone về vườn thực vật Kew (Anh), nhưng chỉ có 2.700 hạt nảy mầm và phát triển thành cây. Đến tháng 9 năm 1876, 1919 cây cao su từ vườn Kew được đưa tới vườn thực vật Ceylon (Srilanka). Năm 1897, 22 cây được chuyển từ vườn Kiew sang Singapore. Năm 1883, các cây cao su ở Sri Lanka và Malaysia có hạt được làm nguồn cung cấp giống cho nhiều nước [21]. 5 Ở Việt Nam, cao su được di nhập lần đầu tiên vào năm 1897 bởi Bác sĩ Yersin và đã được trồng ở suối dầu Nha Trang - Khánh Hòa [9]. - Giai đoạn phát triển thành cây công nghiệp (từ 1914 đến nay) Giai đoạn 1914 - 1945: đã phản ánh nhu cầu tiêu thụ sản phẩm cao su trên thế giới ngày càng tăng mạnh. Sản phẩm cao su cung cấp trên thị trường chủ yếu là từ các vườn cây cao su trồng. Sản lượng cao su thế giới đã tăng từ 125.000 tấn vào năm 1914 lên đến 1.504.000 tấn vào năm 1941. Sau đó diện tích và sản lượng cao su thế giới giảm xuống do chiến tranh thế giới lần II [9]. Giai đoạn 1945 cho đến nay: Sau chiến tranh thế giới lần II nhiều ngành công nghiệp phát triển với tốc độ nhanh, đặc biệt là công nghiệp xe hơi, đã kéo theo nhu cầu sử dụng sản phẩm cao su ngày càng tăng. Đó là động lực cơ bản cho ngành cao su thiên nhiên phát triển, đến nay tổng diện tích cao su trên toàn thế giới là khoảng 9 triệu hecta, sản lượng năm 2009 đạt hơn 9,6 triệu tấn. Bảng 1.1 Sản lượng cao su thiên nhiên thế giới năm 1999 và năm 2009 Đơn vị tính: 1.000 tấn Sản lượng cao su thiên nhiên Năm 1999 Năm 2009 Tăng (+)/ giảm (-) Mỹ Latinh 145 226 + 81 Châu Phi 366 444 + 78 Châu Á 6.110 8.947 + 2.837 Tổng cộng 6.621 9.617 + 2.996 Nguồn:Tập đoàn Nghiên cứu cao su quốc tế (IRSG) Trong đó, các nước Châu Á chiếm hơn 93% tổng sản lượng cao su thế giới, Châu Phi chiếm 4,62% và Mỹ Latinh chiếm 2,35%. Sau 10 năm sản lượng cao su thế giới đã tăng 45,25%, cụ thể: Châu Á tăng 42,85%, Mỹ Latinh tăng 1,22% và Châu Phi tăng 1,18%. 1.1.3 Hiện trạng và định hướng phát triển của ngành cao su Việt Nam - Những quan điểm chủ yếu 6 Tập trung thâm canh vườn cây hiện có, mở rộng diện tích phù hợp với khả năng đầu tư, vườn cây phải được thâm canh ngay từ đầu, coi trọng đổi mới thiết bị và công nghệ chế biến mủ cao su. Khuyến khích nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển vườn cây. Trong đó, kinh tế quốc doanh đóng vai trò hỗ trợ để thực hiện tốt đầu vào (cung ứng vật tư, tiến bộ kỹ thuật, khuyến nông) và đầu ra (chế biến, tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm). Sản xuất phải đạt hiệu quả toàn diện, coi trọng hiệu quả kinh tế [15]. - Hiện trạng của ngành cao su Việt Nam Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2009, tổng diện tích cây cao su đạt 674.200 ha, tăng 55.600 ha (9%) so với năm 2008. Trong đó, diện tích cho khai thác là 421.600 ha, tăng 5,6% (chiếm 62,5% tổng diện tích); sản lượng đạt 725.200 tấn, tăng 9,4%; năng suất cao su cả nước đạt bình quân 1,72 tấn/ha, tăng 3,5% so với năm 2008. Bảng 1.2 Diện tích và sản lượng cao su Việt Nam từ 1976 -2009 Năm Tổng diện tích (ha) Diện tích tăng (ha) Diện tích khai thác (ha) Sản lượng (tấn) Năng suất (kg/ha) 1976 76.600 - - - - 1980 87.700 11.000 41.000 28.823 703 1985 180.200 92.500 63.650 47.900 753 1990 221.700 41.500 81.100 57.900 714 1995 278.400 56.700 146.900 124.700 849 2000 412.000 133.600 238.000 290.800 1.222 2005 482.700 70.700 334.000 481.000 1.440 2006 522.200 39.500 356.400 555.300 1.558 2007 556.300 34.100 373.300 601.700 1.612 2008 618.600 62.300 399.000 662.700 1.661 2009 674.200 55.600 421.600 725.200 1.720 Nguồn: Hiệp hội cao su Việt Nam (VRA). 7 Địa bàn phát triển cây cao su cũng đã mở rộng ra khỏi vùng trồng cao su truyền thống Miền Đông Nam Bộ. Tây Nguyên đã trở thành địa bàn trọng điểm để phát triển diện tích cao su của cả nước trong giai đoạn 1984 - 2010, bên cạnh đó các tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ và Duyên Hải Bắc Trung Bộ (khu 4 cũ) cũng đã khẳng định được khả năng phát triển và tính hiệu quả kinh tế của cây cao su trên vùng đất này [8], [15]. Kết quả sản lượng trên các vùng trồng cao su khác trong nước cho thấy, nhìn chung năng suất bình quân giữa các vùng trồng cao su có chênh lệch khá lớn. Cây cao su ở Tây Nguyên, Duyên Hải Miền Trung và Bắc Trung Bộ đạt năng suất thấp hơn vùng Đông Nam Bộ. Tuy nhiên, đối với những giống thích nghi tốt với vùng trồng ít thuận lợi, có năng suất không cách biệt lớn so với vùng thuận lợi đã mở ra triển vọng duy trì và phát triển cây cao su có hiệu quả kinh tế thoả đáng ở Tây Nguyên và Miền Trung với những giống phù hợp. - Định hướng phát triển của ngành cao su Việt Nam trong giai đoạn tới Chiến lược phát triển cao su thiên nhiên của Việt Nam đến năm 2020 là thâm canh các diện tích cao su sẵn có, đồng thời tích cực phát triển thêm diện tích tại các địa bàn có điều kiện sinh thái thích hợp cho cây cao su [4]. Ứng dụng nhanh những tiến bộ kỹ thuật về sinh học trước hết là giống cao su [8] để nâng cao năng suất bình quân của các vùng trồng cao su, rút ngắn thời gian kiến thiết cơ bản của cây cao su. Viện nghiên cứu cao su Việt Nam đang chủ trì những chương trình, dự án trọng điểm cấp nhà nước và cấp bộ nhằm mục tiêu nghiên cứu, tuyển chọn và khuyến cáo những dòng vô tính cao su thích hợp theo vùng sinh thái. Đồng thời kèm theo các giải pháp kỹ thuật và công nghệ nhằm phát huy tối đa hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững vùng cao su, phục vụ chế biến và xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2015 cả nước có 700.000 ha cao su. Năng suất đạt 2,0 tấn/ha cho Đông Nam Bộ và 1,7 tấn/ha cho Tây Nguyên [4]. Trong đó diện tích cao su tiểu điền sẽ chiếm tỉ trọng khoảng 50% [4]. 8 1.2 Đặc điểm sinh vật học và sinh thái của cây cao su 1.2.1 Đặc điểm sinh vật học của cây cao su Đối với cây cao su (Hevea brasiliensis) hoang dại tại vùng nguyên quán Amazone (Nam Mỹ) là một loại cây đại mộc và có chu kỳ sống trên 100 năm. Khi được nhân trồng trong sản xuất với mật độ từ 400 đến 571 cây/ha và chu kỳ sống được giới hạn lại từ 30 đến 40 năm, nên đã làm kích thước và hình dáng cây cao su trong sản xuất trở nên nhỏ bé hơn so với cây ở tình trạng hoang dại, cao tối đa 25 - 30m và vanh thân tối đa là 1m [9]. - Trong sản xuất cây cao su được chia làm 2 giai đoạn Giai đoạn kiến thiết cơ bản: Là khoảng thời gian từ 5 - 8 năm đầu tiên của cây cao su sau khi trồng. Đây là khoảng thời gian cần thiết để vanh thân cây cao su đạt được 50cm đo cách mặt đất 1m, tùy điều kiện sinh thái, chăm sóc và giống [9],[14]. Ở điều kiện sinh thái đặc thù của vùng Tây Nguyên Việt Nam, thời gian kiến thiết cơ bản phổ biến là từ 7 - 8 năm. Tuy nhiên với điều kiện chăm sóc, quản lý vườn cây đúng quy trình, chọn giống và vật liệu trồng thích hợp thì có thể rút ngắn thời gian kiến thiết cơ bản từ 6 tháng đến 1 năm [27]. Giai đoạn kinh doanh: Là khoảng thời gian khai thác mủ cây cao su. Cây cao su được khai thác khi có trên 50% tổng số cây có vanh thân đạt ≥ 50cm. Giai đoạn kinh doanh có thể dài từ 25 đến 30 năm [14]. Trong giai đoạn này cây vẫn tiếp tục tăng trưởng nhưng ở mức thấp hơn nhiều so với giai đoạn kiến thiết cơ bản. Sản lượng mủ thấp ở những năm cạo đầu tiên, sau đó tăng nhanh ở các năm cạo thứ 3 và thứ 4. Đến năm thứ 5 - 6 năng suất gần như đã ổn định ở mức cao [9],[14]. Sau giai đoạn trung niên khi cây ở tuổi cạo trên 20 năm, năng suất giảm nhanh do ảnh hưởng tới các yếu tố: gãy đổ do gió bão, bệnh, làm giảm mật độ vườn cây, đồng thời năng lực tái tạo mủ của cây cũng giảm sút. Các yếu tố trên là nguyên nhân trực tiếp làm giảm năng suất mủ cao su [9],[14]. Cây cao su có hệ thống rễ rất phát triển bao gồm rễ cọc và rễ bàng. Rễ cọc có thể rất sâu, nếu đất có cấu trúc tốt có thể ăn sâu tới 10m, thông thường là từ 3 9 đến 5m. Hệ thống rễ bàng của cây cao su 7 - 8 năm tuổi có thể lan rộng 6 - 7m, ở năm tuổi thứ 24 rễ có thể lan rộng 10 - 15m [9]. Lá cao su là lá kép gồm có 3 lá chét mọc cách, kích thước, màu sắc của lá có thể thay đổi theo môi trường, nhưng hình dạng lá là đặc tính di truyền. Vì vậy, hình dạng lá là yếu tố quan trọng để nhận dạng và phân biệt giống cao su [9],[14]. Thông thường từ năm thứ 3 trở đi sau khi trồng, bộ lá cao su được thay hàng năm vào khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau. Thời điểm bắt đầu và kết thúc rụng lá là tùy thuộc vào điều kiện từng vùng và đặc tính của giống [9],[21]. Hoa trổ lần đầu tiên trên cây cao su là khi cây được 5 - 6 tuổi. Hoa cao su là hoa đơn tính đồng chu có hoa cái và hoa đực mọc trên cùng một nhánh, mỗi nhánh có 10 - 12 chùm, mỗi chùm có khoảng 15 - 20 hoa cái có kích thước lớn hơn hoa đực, mọc riêng lẻ ở đầu cành. Hoa đực mọc đều khắp trong chùm với tỷ lệ gấp 60 lần hoa cái [9]. Hoa cái cấu tạo gồm có một bầu noãn có 3 tâm bì ghép liền nhau, mỗi tâm bì là một buồng nhỏ đóng kín chứa 1 noãn. Vào thời điểm hoa chín, nuốm hoa có màu vàng trắng, ẩm ướt, sau đó khoảng 4 ngày nuốm đổi màu nâu đỏ và khô đi. Hoa đực thường nở trước, sau đó vài ngày hoa cái mới nở. Do đó, trường hợp tự thụ phấn trên một hoa hầu như không xảy ra. Trong tự nhiên, hoa cao su thụ phấn nhờ côn trùng là chủ yếu [6]. Tỷ lệ đậu quả trong tự nhiên khoảng 1 - 2%, khi giao phấn chéo nhân tạo, tỷ lệ đậu quả có thể đạt 2 - 5% và chịu ảnh hưởng của giống mẹ [9]. Quả cao su là loại quả nang rộng có đường kính 3 - 5cm, quả nang gồm 3 ngăn, mỗi ngăn chứa 1 hạt, trong thực tế hiếm thấy có quả chứa ít hơn 3 hạt [9]. Hạt cao su hình bầu dục hoặc hơi tròn tùy theo giống, rộng 1,5 - 2cm, dài 2- 3,5cm, khối lượng 3,5 - 6g, bình quân 1kg hạt có khoảng 200 - 250 hạt. 10 1.2.2 Đặc điểm di truyền của cây cao su Cây cao su có số nhiểm sắc thể 2n = 36, có thể cây cao su là một dạng tứ bội với số lượng nhiểm sắc thể cơ bản n = 9 [21]. Các nghiên cứu về di truyền trên các đặc tính kinh tế quan trọng của cây cao su như sản lượng và sinh trưởng cho thấy sản lượng và sinh trưởng di truyền theo phương thức cộng hợp (additive) và di truyền cao. Giá trị khả năng phối hợp chung (GCA, General combining ability) biến thiên từ 31% đến 93% cho sinh trưởng. Ưu thế lai cao nhất về sản lượng có thể vượt bố mẹ tốt nhất là 252%, sinh trưởng có ưu thế lai thấp hơn và cao hơn bố mẹ tốt nhất khoảng 34% [40]. 1.2.3 Đặc điểm sinh thái của cây cao su Cây cao su phát triển ở nhiệt độ trung bình thích hợp nhất là từ 250C - 300C, trên 400C và dưới 100C đều ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sinh trưởng và năng suất mủ của cao su. Ở nhiệt độ 250C là nhiệt độ tối thích để cây cho năng suất cao nhất. Lượng mưa tối thiểu để cho cây cao su sinh trưởng, phát triển bình thường là từ 1.500 - 2.000mm/ năm. Số ngày mưa thích hợp cho cao su là khoảng 100 - 150 ngày mưa cho mỗi năm và phân bố đều trong năm [9], [21]. Ở Tây Nguyên Việt Nam có 2 mùa mưa và khô rõ rệt, lượng mưa tập trung trong khoảng 3,5 - 4 tháng vào giữa mùa mưa. Mùa khô kéo dài 6 tháng và lượng bốc thoát hơi nước lớn đã làm ảnh hưởng lớn tới sự sinh trưởng phát triển của cây cao su. Cây cao su phát triển bình thường ở nơi có tối thiểu 1.600h nắng/ năm, gió nhẹ, tốc độ gió dưới 8m/s, nếu lớn hơn 8m/s sẽ làm ảnh hưởng tới sinh trưởng, lớn hơn 17,2m/s sẽ làm gãy thân, cành và lớn hơn 25m/s sẽ làm trốc gốc [9]. Vì vậy, để hạn chế tác hại của gió ở những vùng trồng cao su thường xuyên có gió bão thì cần phải chọn những dòng vô tính cao su có khả năng kháng gió. Đồng thời phải kết hợp với các biện pháp kỹ thuật khác như trồng dày, lập vành đai chắn gió. 11 Cây cao su có thể phát triển trên các loại đất khác nhau ở vùng khí hậu nhiệt đới ẩm ướt, nhưng thành tích và hiệu quả kinh tế của cây là vấn đề cần lưu ý. Đất thích hợp cho cây cao su, có pH từ 4,5 - 5,5, độ sâu tầng đất canh tác >1m và cao trình từ 200 - 600m [9], [21]. 1.3 Đặc tính sinh lý và công nghệ mủ cao su 1.3.1 Vai trò của mủ cao su trong cây Có nhiều giả thuyết về vai trò của mủ trong cây cao su, nhưng điển hình nhất là giả thuyết cho rằng mủ đóng vai trò vận chuyển và dự trữ dưỡng chất trong cây, nhưng giả thuyết này vẫn còn gây nhiều tranh luận vì mủ đa phần là cao su, là một chất không thể đồng hóa hơn được nữa do đó mủ khó có thể coi là kho dưỡng chất. Điều này đã được chứng minh ở cây thực sinh bị héo vàng, khi gần 60% Hydratcarbon đã mất đi, thì hàm lượng cao su vẫn không giảm [21]. Fernando and Tambiah (1970) đã dựa trên mối tương quan giữa lượng mưa, nhiệt độ với năng suất và đã cho rằng mủ đóng vai trò điều tiết nước trong cây. Tuy nhiên, giả thuyết này chưa được thực tế chấp nhận. Đến nay chưa có một giả thuyết nào đã được chứng minh đầy đủ, vì vậy vai trò của mủ trong cây vẫn chưa xác định được [21]. 1.3.2 Thành phần mủ cao su Mủ cao su tươi là một dung dịch thể keo, có tỷ trọng từ 0,974 tới 0,991 tương ứng DRC% (hàm lượng cao su khô) từ 40% - 25% [18]. Thành phần mủ nước trung bình gồm: Cao su 30 - 40%, nước 55 - 60%, nhựa (resine) 1,5 - 2%, đường 1%, Protein 2%, chất khoáng 0,5 - 1%. Hàm lượng chất dinh dưỡng bình quân trong mủ nước: N = 0,26%, P = 0,05%, K = 0,17%, Ca = 0,003%, Mg = 0,005%, Cu = 0,1 - 1,5 pmm [18], [21]. Trong mủ nước có nhiều loại hạt như: Phân tử cao su, hạt lutoid, hạt Frey- Wyssling, được chứa trong một dung dịch gọi là mủ thanh (Serum C) [21]. 1.3.3 Quá trình sinh tổng hợp mủ cao su Phân tử Hydrocacbon cao su có tr
Luận văn liên quan