Đúng vậy, rừng là tài nguyên quý giá của quốc gia, là lá phổi xanh của nhân
loại. Rừng không những là tài nguyên có khả năng tự tái tạo và phục hồi mà rừng
còn có chức năng sinh thái vô cùng quan trọng. Rừng là thành phần quan trọng nhất
của sinh quyển, là nguồn vật chất và tinh thần cơ bản thoả mãn nhu cầu của con
ng-ời. Rừng và đời sống xã hội là hai mặt của một vấn đề, nó có mối quan hệ với
nhau rất chặt chẽ và nếu cóso sánh với những cái chung thì có những đặ điểm riêng
của nó. Tất cả mọi đờisống xã hội, các quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
con ng-ời đều có liên quan đến rừng. Nếu không có rừng thì xã hội loài ng-ời sẽ
không thể tồn tại đ-ợc[27]. Song để tách rời giữa rừng và đời sống xã hội không đơn
giản bởi thực tế cho ta thấy rừng là một hệsinh thái vô cùng phong phú và phức tạp
bao gồm nhiều thành phần và các quy luậtsắp xếp khác nhau theo không gian và
thời gian. Để duy trì và ổn định đ-ợc hệ sinh thái này đòi hỏi con ng-ời cần nghiên
cứu, tìm hiểu rất sâu về hệ sinh thái rừng và từ đó có những biện pháp tác động hợp
lý. Tuy nhiên những kho tàng quý báu của hệ sinh thái còn là một bí ẩn nhiều điều
lý thú mà sự hiểu biết của chúng ta còn hạn chế.
104 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2808 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu đặc điểm tái sinh dưới tán rừng trồng khu vực hồ núi cốc tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Download::: 1
Bộ giáo dục vμ đμo tạo Bộ nông nghiệp vμ pTNT
Tr−ờng đại học lâm nghiệp
------------X W--------------
Nguyễn Thanh Tiến
Nghiên cứu đặc điểm tái sinh d−ới tán
rừng trồng khu vực Hồ Núi Cốc
Tỉnh Thái Nguyên
luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp
Hà Tây – 2004
Download::: 2
đặt vấn đề
“Rừng là vàng, nếu mình biết bảo vệ
xây dựng thì rừng rất quý”
Trích lời Hồ Chí Minh
Đúng vậy, rừng là tài nguyên quý giá của quốc gia, là lá phổi xanh của nhân
loại. Rừng không những là tài nguyên có khả năng tự tái tạo và phục hồi mà rừng
còn có chức năng sinh thái vô cùng quan trọng. Rừng là thành phần quan trọng nhất
của sinh quyển, là nguồn vật chất và tinh thần cơ bản thoả mãn nhu cầu của con
ng−ời. Rừng và đời sống xã hội là hai mặt của một vấn đề, nó có mối quan hệ với
nhau rất chặt chẽ và nếu có so sánh với những cái chung thì có những đặ điểm riêng
của nó. Tất cả mọi đời sống xã hội, các quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
con ng−ời đều có liên quan đến rừng. Nếu không có rừng thì xã hội loài ng−ời sẽ
không thể tồn tại đ−ợc[27]. Song để tách rời giữa rừng và đời sống xã hội không đơn
giản bởi thực tế cho ta thấy rừng là một hệ sinh thái vô cùng phong phú và phức tạp
bao gồm nhiều thành phần và các quy luật sắp xếp khác nhau theo không gian và
thời gian. Để duy trì và ổn định đ−ợc hệ sinh thái này đòi hỏi con ng−ời cần nghiên
cứu, tìm hiểu rất sâu về hệ sinh thái rừng và từ đó có những biện pháp tác động hợp
lý. Tuy nhiên những kho tàng quý báu của hệ sinh thái còn là một bí ẩn nhiều điều
lý thú mà sự hiểu biết của chúng ta còn hạn chế.
ở n−ớc ta, rừng và đất rừng chiếm 3/4 tổng diện tích lãnh thổ, song thực tế
rừng tự nhiên còn rất ít, chủ yếu là rừng thứ sinh ở những mức độ thoái hoá khác
nhau. Nguyên nhân chủ yếu là do ý thức tác động bất hợp lý của con ng−ời nh− đốt
n−ơng làm rẫy, khai thác lạm dụng quá mức cho phép hay nói đúng hơn là sự đói
nghèo và thiếu hiểu biết của ng−ời dân. Theo số liệu thống kê thì độ che phủ năm
1943 là 43%và do bị tàn phá nặng nề vào những năm 1980 đến năm 1990 độ che
Download::: 3
phủ giảm xuống chỉ còn 28,4% và đang có xu h−ớng tăng vào những năm gần đây.
Ngày nay chỉ còn khoảng hơn 9 triệu ha rừng tự nhiên trong đó rừng giàu chiếm
khoảng 30%, rừng trung bình khoảng 35%, còn lại là rừng phục hồi. Rừng giàu còn
lại chủ yếu ở vùng sâu vùng xa, núi cao có độ dốc lớn nên khả năng khai thác cung
cấp sản phẩm cho xã hội bị hạn chế.[27]. Điều đáng nói là độ che phủ tăng lên nhờ
vào khả năng tái tạo của rừng tự nhiên song phải kể đến là diện tích rừng trồng cũng
tăng khá mạnh nh−ng tính đa dạng của hệ sinh thái không cao, nói đúng hơn là chất
l−ợng rừng còn hạn chế, đơn điệu.
Trong những năm gần đây, đ−ợc sự quan tâm của Đảng và Nhà n−ớc việc bảo
vệ và phát triển rừng, diện tích rừng tăng lên đáng kể. Song song với đó là diện tích
rừng trồng tăng lên mạnh mẽ trong đó có cả rừng sản xuất và rừng trồng đặc dụng,
rừng trồng phòng hộ. Để nhằm giảm thiểu các thiên tai, hạn hán, lũ lụt, duy trì sự
cân bằng của hệ sinh thái, rừng trồng phòng hộ ở n−ớc ta đã và đang đóng một vai
trò quan trọng. Thực tế muốn nâng cao tính phòng hộ của rừng đòi hỏi phải có
những biện pháp lâm sinh tác động hợp lý nhằm tạo ra rừng trồng có cấu trúc gần
giống cấu trúc của rừng tự nhiên. Đây là vấn đề mà các nhà khoa học về lâm nghiệp
rất quan tâm. Rừng trồng khu vực Hồ Núi Cốc có tổng diện tích là 11.494,5 ha,
trong đó rừng trồng là 3.683,5 ha, rừng tự nhiên 339,3 ha và còn lại là đất trống, cây
bụi, trảng cỏ, rừng trồng khu vực Hồ Núi Cốc là khu rừng trồng phòng hộ với các
loài cây chủ yếu nh− Bạch đàn, Keo lá tràm, Keo tai t−ợng, Muồng đen… nên cấu
trúc rừng còn hết sức đơn điệu, chất l−ợng rừng không cao, tính đa dạng sinh học
còn hạn chế. Điều quan trọng hơn cả là rừng trồng phòng hộ Hồ Núi Cốc có một vị
trí vô cùng quan trọng trong công tác phòng chống xói mòn, bồi lấp lòng hồ, bảo vệ
đất, bảo vệ n−ớc, tạo cảnh quan môi tr−ờng du lịch sinh thái… Nói đúng hơn rừng
trồng phòng hộ Hồ Núi Cốc đã và đang phát huy vai trò chức năng của khu rừng
phòng hộ đem lại lợi ích kinh tế một cách gián tiếp rất cao. Ngoài việc cung cấp
n−ớc sinh hoạt, n−ớc sản xuất cho thành phố thái nguyên và các huyện lân cận, cung
cấp n−ớc sản xuất cho hơn 1200ha ruộng của các huyện phía Nam và một phần phía
Tây Nam của tỉnh Bắc Giang thì nó còn đang mang lại lợi ích về cảnh quan môi
tr−ờng sinh thái, thu hút hàng vạn khách du lịch thăm quan nghỉ mát.
Download::: 4
Tuy nhiên để rừng phòng hộ Hồ Núi Cốc đáp ứng mục tiêu phòng hộ gắn liền
với du lịch sinh thái thì chúng đã và đang gặp phải những khó khăn nhất định: Tổ
thành loài cây trồng còn đơn giản, tính đa dạng sinh học còn thấp, chất l−ợng rừng
không cao, độ che phủ không cao, cây sinh tr−ởng phát triển chậm, dễ sâu bệnh
cùng với những biện pháp lâm sinh tác động ch−a hợp lý nên cấu trúc rừng phòng hộ
ở đây còn hết sức đơn điệu.
Thực tế để cải tạo rừng trồng bằng cách trồng mới một số loài cây bản địa tạo
ra hệ sinh thái bền vững quả là khó khăn và hết sức tốn kém. Nguồn kinh phí phục
vụ cho công tác bảo vệ và phát triển, trồng rừng hết sức hạn hẹp. Sức thu hút ng−ời
dân vào việc trồng rừng còn hạn chế.
Qua tìm hiểu chúng tôi thấy thực tế d−ới tán rừng trồng phòng hộ Hồ Núi Cốc
đã và đang xuất hiện một lớp cây tái sinh tự nhiên với những nguồn gốc khác nhau,
rất đa dạng về loài cây, phong phú về chất l−ợng. Đặc biệt trong số những cây tái
sinh tự nhiên rất nhiều cây có triển vọng có thể tạo lên những tầng cây gỗ khác
nhau. Nhằm cung cấp thêm những cơ sở khoa học chuyển hoá rừng trồng thành rừng
gần giống với rừng tự nhiên, có tính bền vững của hệ sinh thái đáp ứng mục tiêu
quan trọng của rừng phòng hộ gằn liền mục tiêu du lịch sinh thái, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu đặc điểm tái sinh d−ới tán rừng trồng khu vực Hồ Núi Cốc
- Tỉnh Thái Nguyên”
Download::: 5
Ch−ơng 1
Tổng quan nghiên cứu
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm về tái sinh rừng
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái
rừng. Biểu hiện đặc tr−ng của tái sinh rừng là sự xuất hiện một thế hệ cây con của
những loài cây gỗ ở các nơi có hoàn cảnh rừng (hoặc mất rừng ch−a lâu): d−ới tán
rừng, lỗ trống trong rừng, rừng sau khai thác, trên đất rừng sau làm n−ơng đốt rẫy...
Vai trò lịch sử của thế hệ cây con là thay thế thế hệ cây gỗ già cỗi. Vì vậy, tái sinh
rừng, hiểu theo nghiã hẹp là quá trình phục hồi lại thành phần cơ bản của rừng, chủ
yếu là tầng cây gỗ. Sự xuất hiện lớp cây con là nhân tố mới làm phong phú thêm số
l−ợng và thành phần loài trong quần lạc sinh vật (thực vật, động vật, vi sinh vật),
đóng góp vào việc hình thành tiểu hoàn cảnh rừng và làm thay đổi cả quá trình trao
đổi vật chất và năng l−ợng diễn ra trong hệ sinh thái. Do đó, tái sinh rừng có thể
hiểu theo nghĩa rộng là sự tái sinh của một hệ sinh thaí rừng. Tái sinh rừng thúc đẩy
việc hình thành cân bằng sinh học trong rừng, đảm bảo cho rừng tồn tại liên tục và
do đó bảo đảm cho việc sử dụng rừng th−ờng xuyên.
Đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của loài cây tái sinh, điều kiện địa lý và
tiểu hoàn cảnh rừng là cơ sở tự nhiên quan trọng có tác dụng quyết định, chi phối sự
hình thành lên những quy luật tái sinh rừng. ở các vùng tự nhiên khác nhau, tái sinh
rừng diễn ra theo các quy luật khác nhau. Tái sinh rừng nhiệt đới tự nhiên là một vấn
đề cực kỳ phức tạp. Kinh nghiệm thực tiễn chỉ cho thấy việc áp dụng máy móc các
ph−ơng thức tái sinh kinh điển của các vùng ôn đới vào các n−ớc nhiệt đới nói chung
và Việt Nam nói riêng không thể mang lại kết quả nh− mong muốn. ở đây, khẳng
định lại một lần nữa, tái sinh rừng không chỉ là một hiện t−ợng sinh học mà còn là
một hiện t−ợng địa lý. Những kiến thức về sinh thái, tái sinh rừng bao gồm mối quan
hệ giữa loài cây tái sinh với hoàn cảnh sinh thái, đặc biệt là tiểu hoàn cảnh rừng, mối
quan hệ sinh vật trong hệ sinh thái rừng có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu quy
Download::: 6
luật tái sinh trong từng loại rừng cụ thể và là cơ sở khoa học quan trọng cho việc đề
xuất các biện pháp tái sinh rừng có hiệu quả. Xét về bản chất khoa học, tái sinh rừng
diễn ra d−ới ba hình thức: Tái sinh hạt, tái sinh chồi, tái sinh thân ngầm ( các loài
tre nứa). Mỗi hình thức tái sinh trên có quy luật riêng và trải qua nhiều giai đoạn
khác nhau.
Đứng trên quan điểm triết học, tái sinh rừng là một quá trình phủ định biện
chứng: rừng non hay thay thế rừng già trên cơ sở đ−ợc thừa h−ởng hoàn cảnh thuận
lợi do thế hệ rừng ban đầu tạo nên. Đứng trên quan điểm chính trị kinh tế học, tái
sinh rừng là quá trình tái sản xuất mở rộng tái nguyên rừng. Đ−ơng nhiên, điều kiện
này chỉ có thể trở thành hiện thực khi ta nắm chắc đ−ợc các biện pháp kỹ thuật lâm
sinh chính xác, nhằm điều hoà và định h−ớng các quá trình tái sinh phục vụ mục
tiêu kinh doanh đã đề ra. Nh− vậy, tái sinh rừng không còn chỉ là tự nhiên, kỹ thuật
mà còn là vấn đề kinh tế xã hội. (Sinh thái rừng – Hoàng Kim Ngũ- Phùng Ngọc
Lan, 1998)[27].
1.1.2. Trên thế giới
a- Nghiên cứu về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là sự sắp xếp tổ chức nội bộ của các thành phần sinh vật trong hệ
sinh thái rừng mà qua đó các loài có đặc điểm sinh thái khác nhau có thể chung sống hài
hoà và đạt tới sự ổn định t−−ng đối trong một giai đoạn phát triển nhất định của tự nhiên.
Cấu trúc rừng vừa là kết quả vừa là sự thể hiện quan hệ đấu tranh và thích ứng lẫn nhau
giữa các sinh vật rừng với môi tr−ờng sinh thái và giữa các sinh vật rừng với nhau.
- Về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng:
Quy luật về cấu trúc rừng là cơ sở quan trọng để nghiên cứu sinh thái học, hệ
sinh thái rừng và đặc biệt là để xây dựng những mô hình lâm sinh cho hiệu quả sản xuất
cao. Trong nghiên cứu cấu trúc rừng ng−ời ta chia thành ba dạng cấu trúc là cấu trúc
sinh thái, cấu trúc không gian và cấu trúc thời gian. Cấu trúc của lớp thảm thực vật là
kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên, là sản phẩm của quá trình đấu tranh sinh tồn
giữa thực vật với thực vật và giữa thực vật với hoàn cảnh sống. Trên quan điểm sinh thái
thì cấu trúc rừng chính là hình thức bên ngoài phản ánh nội dung bên trong của hệ sinh
thái rừng. Thực tế cấu trức rừng nó có tính trật tự và theo quy luật của quần xã.
Download::: 7
Các nghiên cứu về cấu trúc sinh thái của rừng m−a nhiệt đới đã đ−ợc Richards
P.W (1933 - 1934), Baur. G.N. (1962), ODum (1971)... tiến hành. Các nghiên cứu này
th−ờng nêu lên quan điểm, khái niệm và mô tả định tính về tổ thành, dạng sống và tầng
phiến của rừng.
Theo tác giả Baur G.N. (1962) [2] đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái
học nói chung và về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng m−a nói riêng, trong đó
đã đi sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt lâm sinh áp dụng
cho rừng m−a tự nhiên. Từ đó tác giả này đã đ−a ra những tổng kết hết sức phong phú
về các nguyên lý tác động xử lý lâm sinh nhằm đem lại rừng cơ bản là đều tuổi, rừng
không đều tuổi và các ph−ơng thức xử lý cải thiện rừng m−a.
Công trình nghiên cứu của tác giả Catinot (1965); Plaudy. J đã biểu diễn cấu
trúc hình thái rừng bằng các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố cấu trúc sinh thái
thông qua việc mô tả phân loại theo các khái niệm dạng sống, tầng phiến...
Tác giả Odum E.P (1971) [28] đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ
sở thuật ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley A.P, năm 1935. Khái niệm hệ sinh
thái đ−ợc làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên quan điểm sinh
thái học.
- Về mô tả hình thái cấu trúc rừng:
Hiện t−ợng thành tầng là sự sắp xếp không gian phân bố của các thành phần sinh
vật rừng trên cả mặt bằng và theo chiều đứng. Ph−ơng pháp vẽ biểu đồ mặt cắt đứng của
rừng do Davit và P.W. Richards (1933 - 1934) đề x−ớng và sử dụng lần đầu tiên ở Guyan
đến nay vẫn là ph−ơng pháp có hiệu quả để nghiên cứu cấu trúc tầng của rừng. Tuy nhiên
ph−ơng pháp này có nh−ợc điểm là chỉ minh hoạ đ−ợc cách sắp xếp theo h−ớng thẳng
đứng của các loài cây gỗ trong một diện tích có hạn. Cusen (1951) đã khắc phục bằng
cách vẽ một số giải kề bên nhau và đ−a lại một hình t−ợng về không gian ba chiều.
Ph−ơng pháp biểu đồ trắc diện do Davit và Richards (1933 - 1934) đề xuất trong
khi phân loại và mô tả rừng nhiệt đới phức tạp về thành phần loài và cấu trúc thảm thực
vật theo chiều nằm ngang và chiều thẳng đứng.
Richards P.W (1952) [74] đã phân biệt tổ thành thực vật của rừng m−a thành hai
loại rừng m−a hỗn hợp có tổ thành loài cây phức tạp và rừng m−a đơn −u có tổ thành
loài cây đơn giản, trong những lập địa đặc biệt thì rừng m−a đơn −u chỉ bao gồm một
Download::: 8
vài loài cây. Cũng theo tác giả này thì rừng m−a th−ờng có nhiều tầng (th−ờng có 3
tầng, trừ tầng cây bụi và tầng cây thân cỏ). Trong rừng m−a nhiệt đới, ngoài cây gỗ lớn,
cây bụi và các loài thân cỏ còn có nhiều loài cây leo đủ hình dáng và kích th−ớc, cùng
nhiều thực vật phụ sinh trên thân hoặc cành cây.
Hiện nay, nhiều hệ thống phân loại thảm thực vật rừng đã dựa vào các đặc tr−ng
nh− cấu trúc và dạng sống, độ −u thế, kết cấu hệ thực vật hoặc năng xuất thảm thực vật.
Ngay từ nửa đầu thế kỷ 19, Humboldt và Grisebach đã sử dụng dạng sinh tr−ởng (toàn
bộ hình thái hoặc cấu trúc và trạng thái của thực vật) của các loài cây −u thế và kiểu
môi tr−ờng sống của chúng để biểu thị cho các nhóm thực vật. Ph−ơng pháp hình thái
của Humboldt và Grisebach đ−ợc các nhà sinh thái học Đan Mạch (Warming, 1904;
Raunkiaer, 1934) tiếp tục phát triển. Raunkiaer đã phân chia các loài cây hình thành
thảm thực vật thành các dạng sống và các phổ sinh học (phổ sinh học là tỉ lệ phần trăm
các loài cây trong một quần xã có các dạng sống khác nhau). Tuy nhiên, nhiều nhà sinh
thái học cho rằng phân loại hình thái, các phổ dạng sống của Raunkiaer kém ý nghĩa
hơn các dạng sinh tr−ởng của Humboldt và Grisebach. Trong các ph−ơng pháp phân
loại rừng dựa theo cấu trúc và dạng sống của thảm thực vật, ph−ơng pháp dựa vào hình
thái bên ngoài của thảm thực vật đ−ợc sử dụng nhiều nhất.
Kraft (1884), lần đầu tiên đ−a ra hệ thống phân cấp cây rừng, ông chia cây rừng
trong một lâm phần thành 5 cấp dựa vào khả năng sinh tr−ởng, kích th−ớc và chất l−ợng
của cây rừng. Phân cấp của Kraft phản ánh đ−ợc tình hình phân hoá cây rừng, tiêu
chuẩn phân cấp rõ ràng, đơn giản và dễ áp dụng nh−ng chỉ phù hợp với rừng thuần loài
đều tuổi.
Việc phân cấp cây rừng cho rừng hỗn loài nhiệt đới tự nhiên là một vấn đề phức
tạp, cho đến nay vẫn ch−a có tác giả nào đ−a ra đ−ợc ph−ơng án phân cấp cây rừng cho
rừng nhiệt đới tự nhiên mà đ−ợc chấp nhận rộng rãi. Sampion Gripfit (1948), khi nghiên
cứu rừng tự nhiên ấn Độ và rừng ẩm nhiệt đới Tây Phi có kiến nghị phân cấp cây rừng
thành 5 cấp cũng dựa vào kích th−ớc và chất l−ợng cây rừng. Richards (1952) [74] phân
rừng ở Nigeria thành 6 tầng dựa vào chiều cao cây rừng.
Download::: 9
Nh− vậy, hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về tầng thứ th−ờng đ−a ra những
nhận xét mang tính định tính, việc phân chia tầng thứ theo chiều cao mang tính cơ giới
nên ch−a phản ánh đ−ợc sự phân tầng phức tạp của rừng tự nhiên nhiệt đới.
- Nghiên cứu định l−ợng cấu trúc rừng:
Việc nghiên cứu cấu trúc rừng đã có từ lâu và đ−ợc chuyển dần từ mô tả định
tính sang định l−ợng với sự hỗ trợ của thống kê toán học và tin học, trong đó việc mô
hình hoá cấu trúc rừng, xác lập mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc rừng đã đ−ợc
nhiều tác giả nghiên cứu có kết quả. Vấn đề về cấu trúc không gian và thời gian của
rừng đ−ợc các tác giả tập trung nghiên cứu nhiều nhất. Có thể kể đến một số tác giả tiêu
biểu nh−: Rollet B (1971), Brung (1970), Loeth et al (1967)... rất nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu cấu trúc không gian và thời gian của rừng theo h−ớng định l−ợng và dùng
các mô hình toán để mô phỏng các qui luật cấu trúc (dẫn theo Trần Văn Con, 2001) [8].
Rollet. B (1971) đã mô tả mối quan hệ giữa chiều cao và đ−ờng kính bằng các hàm hồi
qui, phân bố đ−ờng kính bằng các dạng phân bố xác suất. Nhiều tác giả còn sử dụng
hàm Weibull để mô hình hoá cấu trúc đ−ờng kính loài thông theo mô hình của
Schumarcher và Coil (Belly, 1973). Bên cạnh đó các dạng hàm Meyer, Hyperbol, hàm
mũ, Pearson, Poisson,... cũng đ−ợc nhiều tác giả sử dụng để mô hình hoá cấu trúc rừng.
Một vấn đề nữa có liên quan đến nghiên cứu cấu trúc rừng đó là việc phân loại
rừng theo cấu trúc và ngoại mạo hay ngoại mạo sinh thái [17]. Cơ sở phân loại rừng
theo xu h−ớng này là đặc điểm phân bố, dạng sống −u thế, cấu trúc tầng thứ và một số
đặc điểm hình thái khác của quần xã thực vật rừng. Đại diện cho hệ thống phân loại
rừng theo h−ớng này có Humbold (1809), Schimper (1903), Aubreville (1949),
UNESCO (1973)... Trong nhiều hệ thống phân loại rừng theo xu h−ớng này khi nghiên
cứu ngoại mạo của quần xã thực vật đã không tách rời khỏi hoàn cảnh của nó và do vậy
hình thành một h−ớng phân loại theo ngoại mạo sinh thái.
Khác với xu h−ớng phân loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo chủ yếu mô tả rừng
ở trạng thái tĩnh. Trên cơ sở nghiên cứu rừng ở trạng thái động Melekhov đã nhấn mạnh
sự biến đổi của rừng theo thời gian, đặc biệt là sự biến đổi của tổ thành loài cây trong lâm
phần qua các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát sinh và phát triển của rừng.
Download::: 10
Tóm lại, trên thế giới, các công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng nói
chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú, đa dạng, có nhiều công trình nghiên
cứu công phu và đã đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh rừng. Tuy nhiên, các công
trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên phục hồi sau n−ơng rẫy còn rất ít.
b -Nghiên cứu về tái sinh rừng
Nh− chúng ta đã biết tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù
của hệ sinh thái rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của
những loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng: d−ới tán rừng, chỗ trống trong rừng,
đất rừng sau khai thác, đất rừng sau n−ơng rẫy. Vai trò lịch sử của lớp cây con này là
thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy tái sinh từng hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục
hồi thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng đ−ợc xác định
bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất l−ợng cây con, đặc điểm phân bố. Sự t−ơng
đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và tầng cây gỗ lớn đã đ−ợc nhiều nhà
khoa học quan tâm (Mibbre-ad, 1930; Richards, 1933; 1939; Aubreville, 1938; Beard,
1946; Lebrun và Gilbert, 1954; Joné, 1955-1956; Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet, 1969).
Do tính chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài có giá trị nên trong
thực tiễn, ng−ời ta chỉ khảo sát những loài cây có ý nghĩa nhất định.
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vô cùng phức tạp và còn ít đ−ợc
nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng m−a th−ờng chỉ
tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế d−ới điều kiện rừng đã ít nhiều bị biến
đổi. Van steenis (1956) [77] đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng m−a
nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của các
loài cây −a sáng.
Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới đ−ợc thảo luận nhiều nhất là hiệu quả các cách
thức sử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở các kiểu rừng. Từ
đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều ph−ơng thức chặt tái sinh. Công
trình của Bernard (1954, 1959); Wyatt Smith (1961, 1963) [76] với ph−ơng thức rừng
đều tuổi ở Mã Lai; Nicholson (1958) ở Bắc Borneo; Donis và Maudoux (1951, 1954)
với công thức đồng nhất hoá tầng trên ở Zaia; Taylor (1954), Jones (1960) với ph−ơng
Download