Báo cáo chính trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng khoá VIII Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam [17] đã khẳng định vị trí và định hướng phát
triển cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo:
Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và
học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hoá”. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên,
đề cao năng lực tự học, hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập
trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện
“giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học tập”
143 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu đề xuất chương trình liên thông từ bậc trung học chuyên nghiệp lên đại học ngành vận hành máy tàu biển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRẦN VĂN GIÁP
NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT CHƯƠNG TRÌNH LIÊN THÔNG
TỪ BẬC TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP LÊN ĐẠI HỌC
NGÀNH VẬN HÀNH MÁY TÀU BIỂN
Chuyên ngành : Quản Lý Giáo Dục
Mã số : 5.07.03
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ SƠN
Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2004
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của bản thân đến:
o Đảng ủy, Ban giám hiệu , Phòng Nghiên cứu khoa học và Sau đại học Trường Đại học
Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
o Quí Thầy Cô giảng dạy lớp Cao học ngành Quản lý giáo dục.
o Quí Thầy Cô giáo, Cán bộ Công nhân viên các Phòng, Khoa, Bộ môn Trường Đại học
Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
o Thầy hướng dẫn PGS.TS. LÊ SƠN .
o Hiệu Trưởng, các thầy ,cô giáo, cán bộ công nhân viên Trường Trung Học Hàng Hải II,
Trường Đại Học Hàng Hải Việt Nam, Trường Đại Học Giao Thông Vận Tải TP.Hồ Chí
Minh .
o Các đồng chí cán bộ kỹ thuật và máy trưởng các Công Ty Vận Tải biển tại khu vực TP.
Hồ Chí Minh.
o Tiến Sỹ khoa học Hoàng Ngọc Vinh – chuyên viên Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo.
o Các bạn học viên lớp Cao học khoá 11 ngành Quản lý giáo dục.
Đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này !
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
- ANTA Australian National Training Authority.
- ATCB An toàn cơ bản.
- AVCC Australian Vice- Chancellors Committee.
- CNKT Công nhân kỹ thuật.
- CTĐT Chương trình đào tạo.
- DWT Dead weight ( Trọng tải toàn phần ).
- ĐTLT Đào tạo liên thông.
- ĐVHT Đơn vị học trình.
- GMDSS Hệ thống thông tin liên lạc toàn cầu.
- GTVT Giao thông vận tải.
- GTVT TP.HCM Giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh.
- HTTĐĐC Hệ thống tự động điều chỉnh.
- IMO International Maritime Organization (Tổ chức Hàng
Hải Quốc Tế) .
- KTX Ký túc xá.
- KT HĐL Khai thác hệ động lực.
- STCW Bộ luật về các tiêu chuẩn huấn luyện cấp bằng đi ca
ca cho thuyền viên.
- TAFE Technical and Further Education.
- THCN Trung học chuyên nghiệp.
- THHH II Trung học hàng hải II.
- THPT Trung học phổ thông.
- VTĐ Vô tuyến điện.
PHẦN MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài :
Báo cáo chính trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng khoá VIII Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam [17] đã khẳng định vị trí và định hướng phát
triển cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo:
Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và
học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hoá”. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên,
đề cao năng lực tự học, hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập
trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện
“giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học tập”.
Đưa chủ trương , chính sách của Đảng về giáo dục và đào tạo vào cuộc sống là nhiệm vụ
của toàn Đảng, toàn dân nói chung và đặc biệt là của ngành giáo dục nói riêng .
Sau hơn 15 năm đổi mới, toàn Đảng và toàn dân Việt Nam đã đạt đươc những thành tựu
to lớn và rất quan trọng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Chúng ta đã đa dạng hoá loại hình
trường lớp và phương thức giáo dục; quy mô giáo dục tăng nhanh; Trình độ hiểu biết và khả
năng tiếp cận tri thức mới trong học sinh , sinh viên ngày càng được nâng cao[6].
Đạt được những thành tựu đó là nhờ chúng ta có đường lối đúng về phát triển giáo dục đào
tạo. Liên thông trong giáo dục và đào tạo là một trong số những hướng đi đúng đắn mà chúng ta
có được trong những năm qua. Chủ trương của Đảng, Nhà nước và của Bộ Giáo Dục Và Đào
Tạo về đào tạo liên thông đã tạo điều kiện dễ dàng cho người học có thể chuyển từ một bậc học
này sang bậc học khác hoặc từ ngành học này sang ngành học khác trong hệ thống giáo dục
quốc dân tránh học lại những kiến thức , kỹ năng hiện có. Do vậy, đào tạo liên thông sẽ tiết
kiệm được thời gian và chi phí đào tạo. “Đào tạo liên thông sẽ tạo điều kiện để tiến tới một hệ
thống giáo dục phi rào cản – xu hướng tất yếu của hầu hết các nền giáo dục hiện đại trên thế
giới “[2].
Nhận thức được tầm quan trọng và cần thiết của đào tạo liên thông, Bộ Giáo Dục Và Đào
Tạo đã thành lập ban chỉ đạo “ Xây dựng chương trình liên thông “ do Bộ Trưởng làm trưởng ban.
Sau một quá trình nghiên cứu , ngày 05/12/2002 Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo đã ra quyết
định số 49/2002/QĐ-BGD&ĐT về việc ban hành Quy định tạm thời về đào tạo liên thông Dạy
nghề, Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng và Đại học. Quyết định nói trên đã chính thức xác nhận
tính cần thiết của đào tạo liên thông tại Việt Nam.
Thực ra, trước đó đào tạo liên thông đã được tiến hành nhiều năm nay ở nước ta dưới hình
thức đào tạo chuyên tu nhằm đáp ứng nhu cầu người học và thực hiện chính sách cán bộ. Nhiều
thế hệ học sinh, sinh viên đã được đào tạo nâng cao trình độ , chuyển đổi nghề nghiệp , có công
ăn việc làm thích hợp ổn định cuộc sống và đóng góp công sức của mình vào sự tiến bộ của xã
hội. Tuy nhiên với hình thức đào tạo này, chúng ta còn một số tồn tại sau [2]:
1.- Chưa có những đánh giá và những nghiên cứu về loại hình đào tạo liên thông này để
có chỉ đạo tốt hơn.
2.- Chưa có những giải pháp và cơ chế chính sách thống nhất chỉ đạo từ cơ quan quản lý
nhà nước về giáo dục .
3.- Chưa kiểm soát được chất lượng đào tạo tại các cơ sở tiến hành đào tạo liên thông.
Đối với ngành Hàng hải Việt Nam , đào tạo liên thông dưới hình thức chuyên tu - chuyển
cấp từ bậc học trung học chuyên nghiệp lên đại học đã bắt đầu từ năm 1977 . Một trong những
nguyên nhân khiến ngành Hàng hải sớm có đào tạo liên thông là do tiền thân của Trường Đại
Học Hàng Hải Việt Nam và Trường Đại Học Giao Thông Vận Tải TP. Hồ Chí Minh hiện nay là
Trường Trung Học Hàng Hải trước đây và phần lớn thuyền viên tốt nghiệp trung học phải nhanh
chóng học chuyển cấp lên đại học để đáp ứng kịp thời nhu cầu về nhân lực của ngành .
Cũng như một số ngành khác, đào tạo liên thông trong ngành Hàng hải ngoài những tồn
tại nêu trên còn có những nhược điểm sau :
1.- Chương trình đào tạo do chưa được tập trung nghiên cứu một cách khoa học nên chưa
đáp ứng với yêu cầu chất lượng đào tạo hiện nay của ngành vận tải biển .
2.- Hình thức liên thông chưa tuân thủ các quy định mới của Bộ Giáo Dục & Đào Tạo.
Thật cần thiết khi đặt ra nhiệm vụ giải quyết những tồn tại nêu trên, vì vậy tôi quyết định
chọn đề tài “Nghiên cứu đề xuất Chương trình đào tạo liên thông từ bậc Trung học chuyên
nghiệp lên đại học chuyên ngành vận hành máy tàu biển “ làm luận văn tốt nghiệp Cao học .
Ngoài ra, việc xây dựng được một chương trình liên thông có khoa học từ bậc trung học chuyên
nghiệp lên đại học còn là nhiệm vụ mà ngành giao cho trường phải thực hiện ngay trong năm
học 2004- 2005.
2- Mục đích nghiên cứu :
Qua việc khảo sát thực trạng về công tác đào tạo và đào tạo liên thông đối với ngành vận
hành máy tàu biển tại các trường hàng hải, đề tài sẽ đề xuất một chương trình khung đào tạo
liên thông từ bậc trung học chuyên nghiệp lên đại học cho chuyên ngành này.
3- Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1- Đối tượng nghiên cứu : Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chương trình đào tạo
trung học chuyên nghiệp và đại học chuyên ngành vận hành máy tàu biển.
3.2- Khách thể nghiên cứu :
- Hoạt động đào tạo đối với chuyên ngành vận hành máy tàu biển tại trường trung học
hàng hải.
- Hoạt động đào tạo đối với chuyên ngành vận hành máy tàu biển tại trường đại học Giao
Thông Vận Tải TP. Hò CHí Minh.
4- Giả thuyết khoa học
Nếu nắm vững được lý luận xây dựng chương trình đào tạo liên thông, vận dụng vào
phân tích mục tiêu đào tạo và các đặc điểm của đối tượng sinh viên Hàng Hải thì có thể thiết kế
được một chương trình liên thông thích hợp và khả thi.
5- Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.- Xây dựng cơ sở lý luận về đào tạo liên thông nói chung và liên thông từ bậc trung
học chuyên nghiệp lên đại học nói riêng.
5.2.- Khảo sát thực trạng hoạt động đào tạo đối với chuyên ngành vận hành máy tàu biển
ở các trường Trung Học Hàng Hải và Đại Học Giao Thông Vận Tải TP. Hồ Chí Minh trong 03
năm gần đây.
5.3.- Thiết kế quy trình xây dựng chương trình đào tạo liên thông và xây dựng chương
trình khung (Mục tiêu chương trình, các môn học, cấu trúc và tổ chức các môn học, thời gian đào
tạo) đào tạo liên thông cho chuyên ngành Vận hành máy tàu biển.
6- Giới hạn đề tài
6.1- Về thời gian : Khảo sát thực trạng đào tạo đối với chuyên ngành vận hành máy tàu
biển tại Trường Trung Học Hàng Hải và tại Đại Học Giao Thông Vận Tải TP. Hồ Chí Minh
trong các năm học 1999-2000, 2000-2001, 2001-2002 .
6.2- Về không gian : Nghiên cứu tiến hành trong phạm vi các trường Trường Trung Học
Hàng Hải và tại Đại Học Giao Thông Vận Tải TP. Hồ Chí Minh .
6.3- Về quy mô : Nghiên cứu tiến hành đối với chuyên ngành Vận hành máy tàu biển ở
mức độ là đề xuất một chương trình đào tạo liên thông từ bậc trung học chuyên nghiệp lên đại
học. Do thời gian và giới hạn ở mức độ một luận văn cao học , nên luận văn chỉ tập trung vào
hai khâu (khảo sát nhu cầu, thực trạng và thiết kế xây dựng chương trình ) trong bốn khâu
thuộc mô hình quản lý của tiến sỹ U. E. Deming (Mỹ ). Hai khâu chưa được xem xét tới trong
luận văn là tổ chức đào tạo thí điểm và đánh giá kết quả của công tác đào tạo.
7- Phương pháp nghiên cứu
7.1-Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Nghiên cứu lý luận : Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, Nhà nước, tài liệu, sách báo, tư
liệu lưu trữ, thống kê, báo cáo khoa học có liên quan đến đề tài.
7.2- Phương pháp điều tra :
Điều tra bằng phiếu câu hỏi đối với học viên, cán bộ quản lý về thực trạng chương trình
đào tạo của ngành máy tàu biển tại các trường Trung học Hàng Hải và Đại Học Giao Thông
Vận Tải TP. Hồ Chí Minh .
7.3- Phương pháp phỏng vấn trao đổi trực tiếp với các chuyên gia quản lý công tác đào
tạo và sử dụng nhân lực đào tạo về chương trình đào tạo hiên hành , những yêu cầu từ thực tế
học tập và sản xuất để đưa vào chương trình đào tạo.
7.4 Trưng cầu ý kiến xây dựng chương trình đào tạo liên thông.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐÀO TẠO LIÊN THÔNG
KHÁI NIỆM VỀ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO XÂY DỰNG CHƯƠNG
TRÌNH ĐÀO TẠO LIÊN THÔNG
THIẾT KẾ QUI TRÌNH XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
LIÊN THÔNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Tổng quan về vấn đề nghiên cứu :
Con người sinh ra vốn có khả năng sinh tồn , một trong số đó là khả năng tìm kiếm việc
làm thích hợp trong một xã hội đa dạng. Việc cải thiện việc làm, thay đổi công việc trong quá
trình lao động của người lao động là quy luật tất yếu trong một xã hội phát triển và đào tạo liên
thông (ĐTLT ) nhằm phục vụ cho quy luật đó sẽ hoàn toàn có cơ sở để hình thành và phát triển
.
1.1.1- Đào tạo liên thông trên thế giới :
Trên thế giới đào tạo liên thông đã hình thành và phát triển ở nhiều quốc gia như Hoa
Kỳ, Canada, Australia, SingaporCác quốc gia này đang nỗ lực gắn chặt hơn nữa giáo dục và
đào tạo với thị trường lao động qua chính sách “ Từ trường học đến việc làm “. Chính vì vậy ,
quá trình liên thông trong đào tạo có thể xem như một trong những giải pháp thực hiện mục tiêu
nói trên.
* Tại Hoa Kỳ : Đào tạo liên thông đã hình thành và phát triển ở những năm thập kỷ 60
cuả thế kỷ XX. Ơû đây, người ta chia yêu cầu về trình độ ra ba mức [4]:
Mức 1 – mức thấp nhất (entry level) cho công nhân
Mức 2 – nâng cao (advanced level) cho cán bộ kỹ thuật
Mức 3 - mức chuyên nghiệp (professional level) cho kỹ sư
Mỗi mức đều chỉ ra những yêu cầu cụ thể, học sinh phải đạt được chuẩn và hướng dẫn
chương trình kèm theo ở mỗi bậc học. Trên cơ sở đó thực hiện liên thông (articulation and
credits transfer) giữa các bậc học.
* Tại Australia : Khung trình độ chuẩn chia ra làm các bậc : chứng chỉ cấp I; chứng chỉ
cấp II; chứng chỉ cấp III; chứng chỉ cấp IV; sau trung học phổ thông – Diploma (tương dương
bằng THCN của ta); Cao đẳng – Advance diploma (tương đương bằng cao đẳng của ta); đại
học; thạc sĩ; tiến sĩ. Mỗi bậc học đều có khung trình độ chuẩn, nêu lên những khác biệt năng lực
nghề nghiệp hoặc trình độ yêu cầu mỗi bậc học thuộc hệ thống TAFE (Technical and Further
Education). Căn cứ vào khung trình độ quốc gia, hầu hết các trường đại học đều có chính sách
thỏa thuận công nhận tín chỉ ở bậc học dưới. Để có thể liên thông giữa các bậc học thì cần thiết
phải có bằng diploma hoặc advance diploma để liên thông lên đại học và trên đại học.
Trong chính sách liên thông có hướng dẫn chi tiết về những điều kiện để học sinh có thể
vào học một hoặc một vài khóa học trong nhà trường nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho họ có thể
theo học. Trên cơ sở hợp tác giữa các trường chuyên nghiệp và các trường đại học, những chi
tiết cụ thể về thỏa thuận chuyển tín chỉ sẽ do khoa ở các trường chịu trách nhiệm ban hành. Cơ
quan quản lý cao nhất của mỗi bậc học này là AVCC (Australian Vice- Chancallors Committee)
phụ trách khối đại học và ANTA (Australian National Training Authority) chịu trách nhiệm
trong khối giáo dục kỹ thuật và nghề nghiệp (Vocational Education and Training - VET) trong
việc ban hành qui định, những nguyên tắc và chỉ dẫn điều hành mang tính hệ thống về đào tạo
liên thông đối với các bậc học.
* Tại Canada : Đào tạo liên thông cũng tiến hành từ thập niên 60 cuả thế kỷ XX với các
hình thức giống như Mỹ và Australia. Liên thông thực hiện trên cơ sở thoả thuận giữa các hệ
thống , cơ sở đào tạo và các chương trình đào tạo. Bộ Giáo dục British Colombia (Canada) tham
gia quản lý nhà nước trong đào tạo liên thông để đảm bảo chất lượng đào tạo và công bố những
văn bản hướng dẫn để cho quá trình liên thông diễn ra thuận lợi.
* Tại Đông Nam Á : Đào tạo liên thông còn tương đối mới nên còn nhiều vấn đề cần
giải quyết. Trong khu vực, chỉ có Singapor là nước có chương trình đào tạo liên thông khá mềm
dẻo, hiệu quả và đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về nhân lực. Sinh viên hoàn tất một
bằng diploma về polytechnic có thể vào học hầu hết các khoá học ở bậc đại học với những
chuyên ngành tương ứng. Trong khi đó, ở Thái Lan, những học sinh học ở trường nghề rất ít có
cơ hội để vào học đại học, đặc biệt là những trường đại học công.
Đào tạo liên thông ở các nước trên thế giới đã được nghiên cứu và thực hiện từ lâu nên
có những nguyên tắc, trình tự thực hiện và những vấn đề tồn đọng riêng. Mỗi nước có một bài
học khác nhau trong quá trình ĐTLT. (Xem phụ lục 1-một số bài học kinh nghiệm về đào tạo
liên thông ở một số nước )
1.1.2- Đào tạo liên thông tại Việt Nam
Đào tạo liên thông cũng đã xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 1960, với hình thức đào
tạo chuyên tu để vừa bảo đảm chính sách cán bộ , vừa kịp thời bổ sung đội ngũ cán bộ rất thiếu
lúc bấy giờ . Bộ Đại học và THCN (phía Bắc) thời kỳ này đã có một số văn bản quy định và
hướng dẫn đào tạo cũng như văn bằng chứng nhận kết quả học tập cho loại hình này .Có thể nói
đào tạo chuyên tu đã góp phần tạo ra cho đất nước một đội ngũ cán bộ khoa học và quản lý
trưởng thành từ sản xuất và chiến đấu. Chính sách này vẫn còn áp dụng đến ngày nay.
Trong khoảng chục năm trở lại đây, một số hình thức liên thông mới đã được một số
trường áp dụng :
* Một số trường đại học cho phép sinh viên vào học và miễn trừ một số môn đã học ở
một nghành khác ( chủ yếu là các môn văn hóa ) và thời gian học cũng vì thế mà có thể được
rút ngắn .
* Một số trường, được sự chấp thuận của Bộ Giáo dục và Đào tạo như Đại học Bách khoa
Hà Nội, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh,
Đại học Ngoại ngữ, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Y - Dượïc và các đại học sư phạm... tiến
hành đào tạo liên thông với hình thức là tiếp nhận những học sinh không đủ điểm tuyển vào đại
học vào hệ cao đẳng tại trường thi tuyển. Sau khi tốt nghiệp cao đẳng được xét chuyển lên học
đại học trong thời gian 3 đến 3,5 năm. Tổng thời gian để tốt nghiệp đại học là 6 đến 6,5 năm .
* Một hình thức liên thông khác nữa cũng đã tồn tại nhiều năm khi Bộ Giáo Dục Và Đào
Tạo ban hành chính sách đào tạo hai giai đoạn, cho phép học sinh học xong giai đoạn I ở
trường này có thể chuyển sang học tiếp giai đoạn II ở một vài trường khác cùng khối ngành.
Các hình thức đào tạo liên thông nói trên có ưu điểm là giúp cho người học tận dụng hết
năng lực và động cơ học tập để có thể học một lúc nhiều trường hoặc học ở những trường mong
đợi mà ban đầu chưa được vào học do điểm thi đầu vào thấp. Tuy nhiên các hình thức trên cũng
đã bộc lộ những điểm yếu là:
- Học sinh yếu học lực học ở những trường đòi hỏi học lực cao nên chất lượng học thấp.
- Do có thể chuyển trường khi chuyển giai đoạn nên các trường thường bị động về lưu
lượng học sinh.
- Trong hầu hết các trường đào tạo liên thông vẫn chưa định rõ ràng chuẩn trình độ