Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là một trong những bệnh truyền nhiễm do
virus Dengue được truyền từ muỗi Aedes aegypti gây nên. Theo Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO), bệnh xảy ra ở khắp mọi nơi từ thành thị đến nông thôn như Châu Phi,
Châu Mỹ, Tây Địa Trung Hải Tuy nhiên, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương
vẫn là hai nơi có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất. Ngày nay SXHD có xu hướng lan rộng ra
nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Trong năm 2003 chỉ có 8/10 quốc gia trong khu
vực Đông Nam Á có lưu hành dịch SXHD. Tính đến năm 2006, 10/10 quốc gia
trong khu vực đã xuất hiện dịch [167].
Bệnh SXHD có nhiều trường hợp diễn biến nhẹ nhưng cũng có nhiều trường
hợp diễn biến rất phức tạp và nghiêm trọng. Trong vòng 20 năm (1980 - 1999) số
trường hợp mắc đã tăng lên 5 lần so với 30 năm trước đó. Tại Việt Nam, bệnh
SXHD đã trở thành một bệnh dịch lan truyền rộng rãi, là vấn đề y tế quan trọng vì tỉ
lệ mắc và tử vong cao nếu chúng ta không phát hiện, xử trí đúng và phòng chống
kịp thời [36], [69], [124], [166]. Năm 1999, chương trình Quốc gia phòng chống
bệnh SXHD tại Việt Nam đã triển khai với mục tiêu giảm chết, giảm mắc, không để
dịch xảy ra và xã hội hóa hoạt động phòng chống SXHD [86]. Từ khi triển khai
chương trình đến nay, thực trạng hoạt động phòng chống SXHD cho thấy số chết do
SXHD có chiều hướng giảm nhưng số mắc không giảm nhiều. Do đó, trong những
năm gần đây phòng chống SXHD là vấn đề y tế được nước ta đặt lên hàng đầu, tỷ lệ
mắc SXHD tập trung nhiều nhất ở khu vực phía Nam, đặc biệt là tại các tỉnh ở khu
vực Đồng bằng Sông Cửu Long, nơi thường xuyên xuất hiện bệnh quanh năm gây
nguy hiểm cho cộng đồng [86].
10 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1139 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Nghiên cứu giải pháp can thiệp nhằm giảm nguy cơ sốt xuất huyết dengue ở huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
PHẠM THỊ NHÃ TRÚC
NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP CAN THIỆP NHẰM
GIẢM NGUY CƠ SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE
TẠI HUYỆN GIÁ RAI, TỈNH BẠC LIÊU
CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ: 62 72 76 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
Giáo viên hƣớng dẫn:
PGS.TS. PHẠM TRÍ DŨNG
Hà Nội - 2014
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là một trong những bệnh truyền nhiễm do
virus Dengue được truyền từ muỗi Aedes aegypti gây nên. Theo Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO), bệnh xảy ra ở khắp mọi nơi từ thành thị đến nông thôn như Châu Phi,
Châu Mỹ, Tây Địa Trung Hải Tuy nhiên, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương
vẫn là hai nơi có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất. Ngày nay SXHD có xu hướng lan rộng ra
nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Trong năm 2003 chỉ có 8/10 quốc gia trong khu
vực Đông Nam Á có lưu hành dịch SXHD. Tính đến năm 2006, 10/10 quốc gia
trong khu vực đã xuất hiện dịch [167].
Bệnh SXHD có nhiều trường hợp diễn biến nhẹ nhưng cũng có nhiều trường
hợp diễn biến rất phức tạp và nghiêm trọng. Trong vòng 20 năm (1980 - 1999) số
trường hợp mắc đã tăng lên 5 lần so với 30 năm trước đó. Tại Việt Nam, bệnh
SXHD đã trở thành một bệnh dịch lan truyền rộng rãi, là vấn đề y tế quan trọng vì tỉ
lệ mắc và tử vong cao nếu chúng ta không phát hiện, xử trí đúng và phòng chống
kịp thời [36], [69], [124], [166]. Năm 1999, chương trình Quốc gia phòng chống
bệnh SXHD tại Việt Nam đã triển khai với mục tiêu giảm chết, giảm mắc, không để
dịch xảy ra và xã hội hóa hoạt động phòng chống SXHD [86]. Từ khi triển khai
chương trình đến nay, thực trạng hoạt động phòng chống SXHD cho thấy số chết do
SXHD có chiều hướng giảm nhưng số mắc không giảm nhiều. Do đó, trong những
năm gần đây phòng chống SXHD là vấn đề y tế được nước ta đặt lên hàng đầu, tỷ lệ
mắc SXHD tập trung nhiều nhất ở khu vực phía Nam, đặc biệt là tại các tỉnh ở khu
vực Đồng bằng Sông Cửu Long, nơi thường xuyên xuất hiện bệnh quanh năm gây
nguy hiểm cho cộng đồng [86].
Cung cấp kiến thức ban đầu cho người dân để nhận biết được những yếu tố
nguy cơ gây ra bệnh SXHD sẽ rất có ích cho việc phòng bệnh tại cộng đồng. Nhiều
nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành phòng bệnh SXH đã thực hiện ở nước ta
trong nhiều năm qua cho thấy kiến thức, thái độ của người dân trong việc phòng
bệnh là không thấp nhưng thực hành phòng chống bệnh của người dân vẫn chưa cao
và tỷ lệ này thay đổi ở từng địa phương. Từ kết quả nghiên cứu kiến thức, thái độ,
thực hành phòng chống SXHD của người dân tại một huyện thuộc địa bàn tỉnh Bạc
Liêu cho thấy thực hành phòng chống SXHD của người dân vẫn chưa cao (chiếm
3
60,9%) và 91,7% ổ bọ gậy tập trung trong các DCCN trong và xung quanh nhà, thái
độ về phòng bệnh chỉ chiếm 53,6% [56]. Tại Bạc Liêu mặc dù đã triển khai nhiều
hoạt động phòng bệnh của chương trình PCSXH quốc gia nhưng số ca mắc SXHD
vẫn còn trên 1.000 ca mắc hàng năm [74], [75], [76], [77], [78], [79], cao điểm năm
2008 có 4.024 ca mắc [76]. Chính vì vậy, chúng tôi đã triển khai nghiên cứu được
thực hiện tại địa phương với mục tiêu tìm ra giải pháp can thiệp phù hợp nhằm giảm
các chỉ số vectơ truyền bệnh trong cộng đồng. Huyện Giá Rai là một trong các
huyện của tỉnh Bạc Liêu có tỷ lệ mắc SXHD cao nhất nhì trong các huyện của Bạc
Liêu trong nhiều năm liền [57]. Bên cạnh đó, Giá Rai là huyện có đặc điểm bán
thành thị và nông thôn nên rất dễ nhân rộng giải pháp can thiệp cho các huyện khác
và thành phố. Chính vì vậy, chúng tôi đã chọn huyện Giá Rai để thử nghiệm can
thiệp.
Câu hỏi đặt ra là tình hình dịch bệnh SXHD giai đoạn 2006 - 2012 đã diễn ra
như thế nào? Những yếu tố nào liên quan đến tình hình gia tăng dịch bệnh SXHD ở
Bạc Liêu? Giải pháp can thiệp nào là phù hợp và được cộng đồng chấp nhận trong
công tác phòng chống bệnh SXHD? Sau can thiệp thử nghiệm các giải pháp tại
cộng đồng thì chỉ số của giải pháp can thiệp nào đạt hiệu quả can thiệp cao? Làm
thế nào để duy trì các giải pháp can thiệp sau khi kết thúc chương trình nghiên cứu?
Để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu chúng tôi đã tiến hành đưa ra thử nghiệm các
giải pháp can thiệp cho huyện Giá Rai nói riêng và tỉnh Bạc Liêu nói chung. Với
các lý do trên chúng tôi đã tiến hành: “Nghiên cứu giải pháp can thiệp nhằm giảm
nguy cơ sốt xuất huyết Dengue tại huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu”.
4
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ sốt xuất huyết Dengue tại tỉnh Bạc Liêu giai đoạn
2006 – 2012 và một số yếu tố liên quan.
2. Xây dựng và triển khai thử nghiệm giải pháp can thiệp tại cộng đồng góp
phần hạn chế dịch sốt xuất huyết Dengue trên địa bàn huyện Giá Rai, tỉnh
Bạc Liêu.
3. Đánh giá hiệu quả can thiệp và khả năng duy trì các giải pháp tại xã Phong
Thạnh Đông A, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu sau hai năm can thiệp.
5
Chƣơng I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu sốt xuất huyết Dengue (SXHD)
Theo hướng dẫn giám sát và phòng chống sốt xuất huyết Dengue (SXHD),
Bộ Y tế đã định nghĩa bệnh SXHD là bệnh nhiễm virus Dengue cấp tính do muỗi
truyền và có thể gây thành dịch lớn [18]. Nói cách khác, SXHD là một thể bệnh với
những biểu hiện lâm sàng khác nhau và với sự biến đổi không thể dự đoán trước
được về lâm sàng và hậu quả của nó [110], [161]. Bệnh được truyền qua vết đốt của
muỗi vằn Aedes aegypti. Virus Dengue thuộc nhóm Flaviviridae với 4 type huyết
thanh DEN - 1, DEN - 2, DEN - 3, DEN - 4. Khi vào cơ thể, virus nhân lên trong tế
bào bạch cầu đơn nhân để gây bệnh. Trước đây, SXHD chủ yếu là bệnh ở vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới nhưng ngày nay virus Dengue đã bắt đầu lan tràn khắp
nơi trên thế giới [173].
Vào những năm 1778 - 1780, những vụ dịch SXHD đầu tiên được ghi nhận
xảy ra ở Châu Á, Châu Phi và Bắc Mỹ. Sự xuất hiện gần như đồng thời của các vụ
dịch trên ba lục địa khác nhau chứng tỏ rằng virus gây bệnh cũng như vectơ truyền
bệnh đã phân bố rộng rãi trên toàn thế giới từ hơn 200 năm trước. Vào thời gian này
SXHD chỉ được xem là một bệnh nhẹ. Một vụ đại dịch SXHD xuất hiện ở Đông
Nam Á sau Chiến tranh thế giới thứ II và từ đó lan rộng trên toàn cầu [173].
Tại khu vực Đông Nam Á, virus Dengue lần đầu tiên được phát hiện ở
Philippines vào năm 1950 nhưng đến năm 1970 bệnh đã trở thành nguyên nhân
nhập viện và tử vong thường gặp ở trẻ em trong khu vực [110]. Tỷ lệ mắc bệnh trên
toàn thế giới đã gia tăng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Trước năm 1970, trên
thế giới chỉ có 9 quốc gia có dịch lưu hành. Con số này đã tăng lên hơn 4 lần vào
năm 1995. Nhìn chung, trong hơn 50 năm qua, tỷ lệ mắc SXHD đã tăng lên 30 lần
và lan nhanh ra hơn 60 quốc gia trên thế giới, bệnh xuất hiện ở cả vùng thành thị và
nông thôn [169].
Qua đánh giá của WHO, ước tính hàng năm có khoảng 50 triệu người nhiễm
virus Dengue và 2,5 tỷ người đang sống trong vùng lưu hành SXHD. Không chỉ có
số trường hợp mắc bệnh gia tăng mà khả năng nhiễm nhiều loại virus khác nhau
cũng ngày càng đáng báo động. Hàng năm có khoảng 500.000 trường hợp SXHD
6
cần nhập viện, phần lớn trong số đó là trẻ em; tỷ lệ tử vong chung vào khoảng
2,5%. Nếu không được điều trị đúng và kịp thời, tỉ lệ tử vong của SXHD có thể
vượt quá 20%. Trong các vụ dịch, tỷ lệ mắc bệnh ở những đối tượng nhạy cảm
thường là 40 - 50% nhưng cũng có thể cao đến 80 - 90% [142], [161], [172].
Ngày nay, SXHD hiện đã trở thành dịch trên 100 quốc gia ở Châu Phi, Châu
Mỹ, khu vực phía Đông Địa Trung Hải, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương,
trong đó Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương là hai khu vực chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất [141].
1.1.1. Tình hình sốt xuất huyết Dengue trên thế giới
Năm 1987, tại Thái Lan báo cáo có 175.000 ca mắc và 1.000 ca tử vong. Đến
năm 1996, tại Brazil có 180.000 ca mắc, tiếp theo là các nước như Mỹ Latinh, các
nước Đông Nam Á và khu vực Tây Thái Bình Dương đã báo cáo có 1.300.000 ca
mắc và 3.500 ca tử vong vào năm 1998 [122], [174].
Năm 2001, tại Brazil chu kỳ dịch đã lặp lại và tăng một cách đáng kể so với
năm 1996 là gần 400.000 trường hợp mắc bệnh, đặc biệt đã thấy các trường hợp
xuất huyết nặng ở người lớn. Đến năm 2007, một vụ dịch lớn đã xảy ra tại
Singapore, Campuchia, Malaysia, Philippines và Việt Nam với hơn 133.000 trường
hợp lâm sàng được báo cáo và 850 trường hợp tử vong [122], [174].
0
50
100
150
200
250
300
350
400
1
9
9
1
1
9
9
2
1
9
9
3
1
9
9
4
1
9
9
5
1
9
9
6
1
9
9
7
1
9
9
8
1
9
9
9
2
0
0
0
2
0
0
1
2
0
0
2
2
0
0
3
2
0
0
4
2
0
0
5
2
0
0
6
2
0
0
7
2
0
0
8
2
0
0
9
2
0
1
0
2
0
1
1
S
ố
c
a
m
ắ
c
(x
1
0
0
0
)
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
Năm
T
ỷ
su
ấ
t
tử
v
o
n
g
(
%
)
Số ca mắc (x1000)
Tỷ suất tử vong (%)
Biểu đồ 1.1. Số trường hợp mắc/chết SXHD ở khu vực Tây Thái Bình Dương,
giai đoạn 1991 - 2011 (Nguồn: WHO Western Pacific Regional Office) [174]
Đến năm 2011, các nước thuộc khu vực Tây Thái Bình Dương đã xảy ra
244.880 trường hợp mắc, trong đó 839 ca tử vong, tỷ lệ chết/mắc là 0,34%. Tại
7
Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Philippines, Marshall, Singapore và Việt
Nam có hơn 1.000 trường hợp mắc vào năm 2011, số trường hợp mắc cao hơn so
với năm 2010. Bên cạnh đó, có sự biến đổi lớn giữa các quốc gia trong khu vực về
phân phối type huyết thanh. Tại Campuchia năm 2011 có 15.980 trường hợp mắc và
73 trường hợp tử vong với cao điểm dịch vào tháng 7. Nhóm mắc bệnh là nam vị
thành niên và người lớn chiếm tỷ lệ cao hơn nữ. Có sự phân bố đầy đủ 4 type huyết
thanh qua kết quả giám sát huyết thanh và phân lập virus: 77% type DEN - 1; 19%
type DEN - 2; 2% type DEN - 3 và 2% type DEN - 4. Tại Lào có số mắc thấp hơn
Campuchia với 3.905 trường hợp mắc và 7 trường hợp tử vong với một đỉnh dịch
xảy ra trong tháng chín. Riêng Philippine năm 2011 đã có số ca mắc cao nhất trong
khu vực với 125.975 trường hợp mắc và 654 ca tử vong, cao điểm dịch xảy ra vào
tháng 8. Số trường hợp mắc ở nam thanh niên cao hơn nữ thanh niên. Không có sự
phân bố đầy đủ 4 type huyết thanh ở quốc gia này, chủ yếu là DEN - 1 (44%),
DEN - 3 (43%) và DEN - 2 (13%) [174].
Tại khu vực Đông Nam Á, từ năm 2000 đến nay SXH đã lan nhanh ra toàn
khu vực. Năm 2003, có 8 quốc gia trong khu vực có dịch SXH là: Bangladesh, Ấn
Độ, Indonesia, Maldives, Myanmar, Sri Lanka, Thái Lan và Timor - Leste. Tại
Nepal đã xuất hiện trường hợp SXH lần đầu tiên vào tháng 11/2006. Riêng Hàn
Quốc là nước duy nhất của khu vực Đông Nam Á là không có SXH. Các nước nằm
trong khu vực nhiệt đới gió mùa và xích đạo như Indonesia, Myanmar, Sri Lanka,
Thái Lan và Timor - Leste xem dịch SXH là một vấn đề y tế công cộng lớn [169].
0
50000
100000
150000
200000
250000
300000
350000
400000
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
S
ố
c
a
m
ắ
c
0
500
1000
1500
2000
2500
Năm
S
ố
c
a
c
h
ết
Số ca mắc
Số ca chết
Biểu đồ 1.2. Số trường hợp mắc và chết ở khu vực Đông Nam Á [103]
(Nguồn: WHO Regional Office for South - East Asia, New Delhi)
8
Chu kỳ bùng phát dịch SXHD thường xuất hiện lặp lại 5 đến 6 năm một lần.
Mặc dù đã có những vụ dịch xuất hiện, nhưng vẫn còn một số lượng lớn người cảm
nhiễm luôn tồn tại trong quần thể, lý do là vì có tới 4 chủng virus gây bệnh và vì số
người cảm nhiễm mới luôn gia tăng trong quần thể, thông qua số sinh mới và qua
nhập cư từ nơi khác tới [35].
Công tác phòng chống dịch SXH đã được thực hiện thông qua Chiến Lược
Phòng Chống Dengue giai đoạn 2008 - 2015 của WHO tại khu vực Đông Nam Á và
khu vực Tây Thái Bình Dương. Chiến lược này nhằm chuẩn bị đối phó với các mối
đe dọa ngày càng tăng của bệnh SXH với nguy cơ lan rộng đến các khu vực địa lý
mới và gây tử vong cao trong giai đoạn đầu dịch [98]. Theo báo cáo của WHO, năm
2010 đã xảy ra số trường hợp mắc SXHD cao nhất ở khu vực Đông Nam Á tính từ
năm 2003 đến nay, số trường hợp mắc cao nhất là 355.525 trường hợp và tử vong
1982 ca (biểu đồ 1.2) [103]. Sau năm 2010 thì xu hướng dịch giảm, có thể do đây là
năm chu kỳ dịch. Tuổi mắc SXHD có thay đổi, gặp nhiều ở trẻ trên 15 tuổi, tuổi
trung bình mắc SXHD là 31,59 đến 35,42 [155].
Theo WHO, mục tiêu của Chiến lược phòng chống SXHD toàn cầu là giảm
bùng phát dịch trên thế giới. Đến năm 2020, giảm tỷ lệ mắc xuống thấp nhất dưới
50% và tỷ lệ tử vong dưới 25% (tính từ năm 2010) [170]. Để làm được điều này thì
hiệu quả huy động cộng đồng là một chỉ số đánh giá đã được chứng minh từ nhiều
nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về sự thay đổi hành vi của người dân.
1.1.2. Tình hình sốt xuất huyết Dengue ở Việt Nam
Gánh nặng bệnh truyền nhiễm luôn là mối đe dọa lớn đối với sức khỏe cộng
đồng ở tất cả các nước trên thế giới. Tại Việt Nam, bệnh SXHD là một bệnh truyền
nhiễm đã và đang tái nổi, tuy con số tử vong do bệnh này là không cao bằng các
bệnh truyền nhiễm khác như HIV/AIDS... nhưng số mắc bệnh xảy ra hàng năm là
không nhỏ, khoản kinh phí hàng năm phải chi trả cho công tác phòng chống bệnh và
dập dịch là rất lớn. Năm 2011, tổng ngân sách phải bỏ ra cho kế hoạch hoạt động
phòng chống bệnh và dập dịch SXHD là 105 tỷ đồng [15]. Chính vì vậy, có thể xem
bệnh SXHD là một trong những bệnh truyền nhiễm mang lại gánh nặng rất lớn cho
Y tế quốc gia.
Qua tài liệu của Đỗ Quang Hà, vụ dịch SXHD đầu tiên xảy ra ở miền Bắc
vào năm 1958 được Chu Văn Tường và Mihow thông báo vào năm 1959, ở miền Nam
vào năm 1960 với 60 bệnh nhân nhi tử vong [27]. Từ đó bệnh trở thành dịch lưu hành
9
địa phương ở vùng châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long và dọc theo bờ biển miền
Trung. Bệnh không chỉ xuất hiện ở đô thị mà cả ở vùng nông thôn, nơi có muỗi
truyền bệnh SXHD [67]. Đây là bệnh gây tử vong hàng đầu trong tổng số 24 bệnh
truyền nhiễm phải báo cáo theo qui định của Bộ Y tế Việt Nam. Sau năm 1963, dịch
SXHD đã xảy ra liên tiếp ở 19 tỉnh, thành khu vực phía Bắc. Từ năm 1970 đến năm
1974, tại Hà Nội bắt đầu xuất hiện các vụ dịch lẻ tẻ ở một số điểm trong nội thành
Hà Nội với số bệnh nhân từ vài chục tới hàng trăm trường hợp phải vào bệnh viện
để điều trị. Trong thời gian đó dịch cũng lan nhanh ra các thành phố, thị xã, thị trấn
và cả vùng nông thôn.
Trong những năm đầu, SXHD chỉ xuất hiện ở một vài địa phương với các ổ
dịch nhỏ, số người mắc bệnh ít nhưng tỷ lệ tử vong cao. Nhưng về sau, dịch càng
lan rộng, với số người mắc bệnh ngày càng nhiều. Ðỉnh cao là vào các năm 1983,
1987 với qui mô toàn quốc. Tỷ lệ mắc bệnh chung cho cả nước từ năm 1981 đến
1987 là 41,02 ca mắc/100.000 dân đến 462,24 ca mắc/100.000 dân. Do công tác
điều trị đạt được nhiều tiến bộ nên tỷ lệ tử vong bắt đầu giảm từ 2,7 ca/100.000 dân
trong năm 1983 xuống còn 0,16 ca/100.000 dân vào 1994. Tỷ lệ mắc bệnh giữa các
năm và giữa các vùng miền trong nước dao động rất khác nhau. Tỷ lệ mắc bệnh ở
miền Nam thường cao hơn nhiều lần so với miền Trung và miền Bắc. Kết quả theo
dõi những năm có dịch lớn (1983, 1987, 1991) cho thấy miền Nam có 87,2% số
huyện thị xuất hiện bệnh; tỷ lệ này ở miền Bắc là 59,5%; miền Trung là 58,7%; Tây
nguyên chỉ có 29,5%. Kết quả khảo sát những vùng này đều thấy sự hiện diện của
trung gian truyền bệnh là muỗi vằn Aedes aegypti với mật độ cao. Càng về sau,
bệnh tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Trung và Nam. Đến năm 1995 - 1996, tỷ lệ
mắc bệnh ở miền Nam cao hơn miền Bắc (66 - 67% so với 2 - 3%) [44].
Trước năm 1990, bệnh SXHD mang tính chất chu kỳ tương đối rõ rệt, với
khoảng cách trung bình 3 - 4 năm. Sau năm 1990, bệnh xảy ra liên tục với cường độ
và qui mô ngày một gia tăng, trung bình 10 năm lại xuất hiện cao điểm dịch. Vụ
dịch lớn đã xảy ra vào năm 1998 với 234.920 trường hợp mắc, 377 trường hợp tử
vong, tỷ lệ mắc là 306,3 trường hợp/100.000 dân, tỷ lệ chết/mắc là 0,19%. Từ năm
2000 đến 2011, tình hình nhiễm SXHD ở Việt Nam không ổn định nhưng thời kỳ
cao điểm của dịch SXHD là từ tháng 6 đến tháng 10 hàng năm. Gần như tất cả các
ca mắc SXHD và tử vong đều ở các tỉnh phía Nam. Trong giai đoạn từ 2001 đến
2011 có 76,9% ca mắc sốt xuất huyết và 83,3% ca tử vong do sốt xuất huyết là ở 20
10
tỉnh phía Nam [96]. Khoảng 90% số ca tử vong do SXHD là ở nhóm tuổi dưới 15.
Chu kỳ dịch SXHD có khoảng cách xảy ra muộn hơn một năm so với giai đoạn
trước năm 1990, thường xảy ra theo chu kỳ từ 3 đến 5 năm một lần. Năm 2000, số
trường hợp tử vong do SXHD ở khu vực phía Nam chiếm tỷ lệ trên 80% tổng số tử
vong của cả nước [65]. Giai đoạn từ năm 1999 - 2003, số mắc trung bình hàng năm
đã giảm đi chỉ còn 36.826 trường hợp và số tử vong là 66 trường hợp. Tuy nhiên từ
năm 2004 đến nay số mắc và số tử vong do SXHD có xu hướng gia tăng. Năm 2006
cả nước đã ghi nhận 77.818 trường hợp mắc SXHD, trong đó 68 ca tử vong, tỷ lệ mắc
88,6 trường hợp/100.000 dân và tỷ lệ chết/mắc là 0,09% [7], [8]. Đến năm 2010, số
mắc SXHD của cả nước tiếp tục tăng lên, ghi nhận có 128.710 ca mắc, trong đó 109
trường hợp tử vong, tỷ lệ mắc lên tới 146,69 trường hợp/100.000 dân và tỷ lệ
chết/mắc là 0,85% [13]. Đến năm 2011, số trường hợp mắc bệnh đã giảm gần một nữa
so với năm 2010, nguyên nhân là có thể do số trường hợp mắc bệnh năm 2010 đã được
miễn dịch ở cộng đồng, mặt khác năm 2011 không còn nằm trong chu kỳ dịch chung
của cả nước (biểu đồ 1.3). Nhìn chung, Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát
tỷ lệ tử vong do SXHD nhưng vẫn chưa đạt được nhiều thành công trong việc giảm
số ca mắc SXHD [96].
0
20000
40000
60000
80000
100000
120000
140000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
S
ố
t
rư
ờ
n
g
h
ợ
p
m
ắ
c
S
D
/S
X
H
D
0
40
80
120
160
200
S
ố
t
rư
ờ
n
g
h
ợ
p
c
h
ết
S
D
/S
X
H
D
Số mắc Số chết
Biểu đồ 1.3. Tình hình mắc và chết sốt xuất huyết ở Việt Nam, 2000 - 2012 [2],
[3], [4], [5], [6], [7, 8], [10], [11], [12], [13], [16], [19]
(Nguồn: Niên giám thống kê các bệnh truyền nhiễm từ năm 2000 đến năm 2012)