Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam ngày càng xuất hiện nhiều các đô thị với quy mô và mức độ khác nhau. Đặc điểm của các đô thị nói chung là nền kinh tế phát triển và dân cư tập trung đông. Chính vì vậy, đi kèm với sự phát triển kinh tế- xã hội cũng nảy sinh nhiều vấn đề môi trường, trong đó chất thải rắn luôn là vấn đề bức xúc ở mọi đô thị.
Trong một thời gian dài, việc quản lý rác thải sinh hoạt đô thị ở nước ta là do các cơ quan nhà nước đảm nhiệm. Người dân không hề có ý thức và trách nhiệm đối với vấn đề thu gom và sử lý rác thải. Cố gắng của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các Công ty MTĐT, trong việc quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị đã góp phần không nhỏ trong việc đảm bảo vệ sinh môi trường của các thành phố, đô thị. Tuy nhiên, trong tương lai các biện pháp này sẽ không bền vững và nảy sinh nhiều vấn đề. Nguyên nhân là do mức sống của người dân ngày càng cao làm cho lượng rác sinh hoạt luôn tăng, vượt quá khả năng thu gom của các Công ty MTĐT. Nhận thức rõ điều này, Chính phủ Việt Nam đang cố gắng tập trung mọi nỗ lực nhằm giải quyết vấn đề bằng cách phối hợp các biện pháp chính sách tài chính và các hoạt động nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của người dân. Ý tưởng và phương pháp phát huy vai trò của cộng đồng nhằm tăng cường quyền làm chủ và trách nhiệm của người dân trong việc bảo vệ môi trường được gọi là “ Xã hội hoá công tác vệ sinh môi trường”.
Ngày 12/10/2000, UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 5466/QĐ-UB về việc tổ chức thực hiện thí điểm xã hội hoá công tác thu gom và vận chuyển một phần rác thải sinh hoạt trên địa bàn thành phố. Cho đến nay, mô hình này đã đem lại lợi ích nhiều mặt, giải quyết vấn đề rác thải của thành phố, góp phần làm môi trường sạch đẹp, tạo điều kiện cho người dân làm chủ và có trách nhiệm bảo vệ môi trường sống, nâng cao ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường của người dân thủ đô, giảm chi phí ngân sách nhà nước, tăng đóng góp của người dân trong việc thu gom và duy trì vệ sinh môi trường, tạo công ăn việc làm cho một số lao động địa phương.
Bước đầu mô hình đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Nhà nước đã thay đổi một số chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị tham gia xã hội hoá. Các cơ quan quản lý Nhà nước cũng kết hợp chặt chẽ với các đơn vị và các đơn vị đã đạt được những thành tựu đáng kể. Song để hoàn thiện và phát huy rộng rãi mô hình này Nhà nước phải hoàn thiện các cơ chế chính sách làm tăng hiệu quả kinh tế cũng như quản lý.
Để phát huy tối đa những lợi ích từ việc xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, cụ thể là công tác thu gom và vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt, phế thải xây dựng, tác giả lựa chọn đề tài: “ Nghiên cứu mô hình xã hội hoá công tác thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt, phế thải xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội và khả năng ứng dụng tại phường Khương Trung, quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội” nhằm nghiên cứu và phân tích một mô hình xã hội hoá công tác vệ sinh môi trường ở Hà Nội.
88 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2290 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu mô hình xã hội hoá công tác thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt, phế thải xây dựng ở Hà Nội và ứng dụng tại Khương Trung, Thanh Xuân -Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam ngày càng xuất hiện nhiều các đô thị với quy mô và mức độ khác nhau. Đặc điểm của các đô thị nói chung là nền kinh tế phát triển và dân cư tập trung đông. Chính vì vậy, đi kèm với sự phát triển kinh tế- xã hội cũng nảy sinh nhiều vấn đề môi trường, trong đó chất thải rắn luôn là vấn đề bức xúc ở mọi đô thị.
Trong một thời gian dài, việc quản lý rác thải sinh hoạt đô thị ở nước ta là do các cơ quan nhà nước đảm nhiệm. Người dân không hề có ý thức và trách nhiệm đối với vấn đề thu gom và sử lý rác thải. Cố gắng của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các Công ty MTĐT, trong việc quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị đã góp phần không nhỏ trong việc đảm bảo vệ sinh môi trường của các thành phố, đô thị. Tuy nhiên, trong tương lai các biện pháp này sẽ không bền vững và nảy sinh nhiều vấn đề. Nguyên nhân là do mức sống của người dân ngày càng cao làm cho lượng rác sinh hoạt luôn tăng, vượt quá khả năng thu gom của các Công ty MTĐT. Nhận thức rõ điều này, Chính phủ Việt Nam đang cố gắng tập trung mọi nỗ lực nhằm giải quyết vấn đề bằng cách phối hợp các biện pháp chính sách tài chính và các hoạt động nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của người dân. Ý tưởng và phương pháp phát huy vai trò của cộng đồng nhằm tăng cường quyền làm chủ và trách nhiệm của người dân trong việc bảo vệ môi trường được gọi là “ Xã hội hoá công tác vệ sinh môi trường”.
Ngày 12/10/2000, UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 5466/QĐ-UB về việc tổ chức thực hiện thí điểm xã hội hoá công tác thu gom và vận chuyển một phần rác thải sinh hoạt trên địa bàn thành phố. Cho đến nay, mô hình này đã đem lại lợi ích nhiều mặt, giải quyết vấn đề rác thải của thành phố, góp phần làm môi trường sạch đẹp, tạo điều kiện cho người dân làm chủ và có trách nhiệm bảo vệ môi trường sống, nâng cao ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường của người dân thủ đô, giảm chi phí ngân sách nhà nước, tăng đóng góp của người dân trong việc thu gom và duy trì vệ sinh môi trường, tạo công ăn việc làm cho một số lao động địa phương.
Bước đầu mô hình đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Nhà nước đã thay đổi một số chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị tham gia xã hội hoá. Các cơ quan quản lý Nhà nước cũng kết hợp chặt chẽ với các đơn vị và các đơn vị đã đạt được những thành tựu đáng kể. Song để hoàn thiện và phát huy rộng rãi mô hình này Nhà nước phải hoàn thiện các cơ chế chính sách làm tăng hiệu quả kinh tế cũng như quản lý.
Để phát huy tối đa những lợi ích từ việc xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, cụ thể là công tác thu gom và vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt, phế thải xây dựng, tác giả lựa chọn đề tài: “ Nghiên cứu mô hình xã hội hoá công tác thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt, phế thải xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội và khả năng ứng dụng tại phường Khương Trung, quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội” nhằm nghiên cứu và phân tích một mô hình xã hội hoá công tác vệ sinh môi trường ở Hà Nội.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Luận văn tập trung nghiên cứu mô hình xã hội hoá công tác thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt, phế thải xây dựng ở Hà Nội, các mục tiêu cơ bản là:
- Phân tích, đánh giá hiệu quả mô hình xã hội hoá công tác thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt, phế thải xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Xây dựng mô hình xã hội hoá công tác thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt, phế thải xây dựng cho địa bàn phường Khương Trung, quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội.
3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu.
* Nội dung nghiên cứu.
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề chất thải rắn đô thị.
Chương 2: Mô hình HTX Vệ sinh môi trường Thành Công và hiệu quả thực tế của mô hình tại phường Văn Chương, quận Đống Đa thành phố Hà Nội.
Chương 3: Xây dựng mô hình xã hội hoá công tác thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt, phế thải xây dựng cho phường Khương Trung, quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu.
Trong khuôn khổ của luận văn chỉ nghiên cứu mô hình xã hội hoá công tác thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt, phế thải xây dựng của HTX Thành Công, đánh giá hiệu quả của mô hình khi áp dụng thực tế vào phường Văn Chương, từ đó xây dựng một mô hình xã hội hoá công tác thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt, phế thải xây dựng cho phường Khương Trung.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp phân tích chi phí- lợi ích kinh tế.
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập cũng như hoàn thành luận văn tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân tôi còn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo khoa Môi trường và các cán bộ của HTX Thành Công.
Tôi xin chân thành cảm ơn T.S Lê Hà Thanh đã tận tình hướng dẫn trong quá trình nghiên cứu , hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn Th.S Huỳnh Thị Mai Nhung đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn CB Nguyễn Quốc Hưng cùng các cán bộ nhân viên của HTX Thành Công đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn tới toàn thể thầy cô giáo và cán bộ công nhân viên khoa Môi trường đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong 4 năm học vừa qua.
Sinh viên
Nguyễn Thị Huế
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung luận văn đã viết là do
bản thân thực hiện, không sao chép, cắt ghép các tài
liệu, chuyên đề hoặc luận văn của người khác.
Nếu sai phạm tôi xin chịu kỷ luật của nhà trường.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Huế
Chương I : TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ
I. Khái niệm về chất thải rắn.
Chất thải rắn là một vấn đề nóng bỏng tại các đô thị, các khu kinh tế phát triển. Mỗi người có một cái nhìn khác nhau về các loại chất thải rắn này nên được nhìn nhận dưới nhiều quan niệm. Tuy nhiên có hai quan niệm chính nổi bật đó là theo quan niệm chung và theo quan niệm mới:
Theo quan niệm chung; Chất thải rắn là toàn bộ các loại vật chất được con người loại bỏ trong các hoạt động kinh tế_xã hội của mình (bao gồm các hoạt động sản xuất, các hoạt động sống và duy trì sự tồn tại của cộng đồng v.v…). Trong đó quan trọng nhất là các loại chất thải sinh ra từ các hoạt động sản xuất và hoạt động sống.
Theo quan niệm mới; Chất thải rắn đô thị (gọi chung là rác thải đô thị ) được định nghĩa là: Vật chất mà người tạo ra ban đầu vứt bỏ đi trong khu vực đô thị mà không đòi hỏi được bồi thường cho sự vứt bỏ đó. Thêm vào đó, chất thải được coi là chất thải rắn đô thị nếu chúng được xã hội nhìn nhận như một thứ mà thành phố phải có trách nhiệm thu gom và tiêu hủy.
Như vậy theo quan niệm này, chất thải rắn đô thị có các đặc trưng là:
- Bị vứt bỏ trong khu vực đô thị;
- Thành phố có trách nhiệm thu dọn.
II. Khái niệm về chất thải rắn đô thị.
2.1. Định nghĩa và đặc điểm chất thải rắn sinh hoạt đô thị.
Chất thải rắn sinh hoạt: là những chất thải liên quan đến các hoạt động của con người, nguồn tạo thành chủ yếu từ các khu dân cư, các cơ quan, trường học, các trung tâm dịch vụ, thương mại. Chất thải rắn sinh hoạt có thành phần bao gồm kim loại, sành sứ, thủy tinh, gạch ngói vỡ, đất, đá, cao su, chất dẻo, thực phẩm dư thừa hoặc quá hạn sử dụng, xương động vật, tre, gỗ, lông gà lông vịt, vải, giấy, rơm, rạ, xác động vật, vỏ rau quả v.v…Theo phương diện khoa học, có thể phân biệt các loại chất thải rắn sau:
Chất thải thực phẩm bao gồm các thức ăn thừa. rau, quả…loại chất thải này mang bản chất dễ bị phân hủy sinh học, quá trình phân hủy tạo ra các mùi khó chịu, đặc bịêt trong điều kiện thời tiết nóng, ẩm. Ngoài các loại thức ăn dư thừa từ gia đình còn có thức ăn dư thừa từ các bếp ăn tập thể, các nhà hàng, khách sạn, ký túc xá, chợ…
Chất thải trực tiếp của động vật chủ yếu là phân, bao gồm phân người và phân của các động vật khác.
Chất thải lỏng chủ yếu là bùn ga cống rãnh, là các chất thải ra từ các khu vực sinh hoạt của dân cư.
Tro và các chất dư thừa thải bỏ khác bao gồm: các loại vật liệu sau đốt cháy, các sản phẩm sau khi đun nấu bằng than, củi và các chất thải dễ cháy khác trong gia đình, trong kho của các công sở, cơ quan, xí nghiệp, các loại xỉ than.
Các chất thải rắn từ đường phố có thành phần chủ yếu là lá cây, que, củi, nilon, vỏ bao gói…
Như vậy, chất thải rắn sinh hoạt chiếm phần lớn trong tổng lượng rác thải phát sinh tại các đô thị.Chúng ta cần biết được đặc điểm của từng loại để có biện pháp sử lý sao cho hiệu quả.
Đặc điểm chất thải rắn sinh hoạt đô thị:
Chất thải rắn sinh hoạt bao gồm chủ yếu là các chất hữu cơ dễ phân hủy như các loại rau, quả, củ, thực phẩm thừa và hư hỏng, xác và các bộ phận của động vật, vỏ hoa quả…Ngoài ra là các vật liệu khác bao gồm các chất dễ cháy: cao su, nhựa, nilon, giấy, cacton, vải, gỗ; các chất không cháy: thủy tinh, kim loại, đất đá,vật liệu xây dựng…Trong chất thải rắn sinh hoạt đôi khi cũng có các loại chất thải rắn nguy hại như: chất dẻo PVC, keo diệt chuột, pin, bóng đèn hỏng có chứa thủy ngân. Tỷ lệ thành phần chất thải rắn đô thị ở Hà Nội so với tổng khối lượng được trình bày tại bảng sau:
Bảng 1: Thành phần chất thải rắn sinh hoạt ở Hà Nội năm 2003.
Thành phần chất thải
Tỷ lệ % so với tổng lượng chất thải rắn năm
Hữu cơ
49,1
Giấy, vải
1,9
Nhựa
15,6
Kim loại
6,0
Thủy tinh
7,2
Đất đá. vật liệu xây dựng
18,4
Các loại khác
1,8
(Theo nguồn: Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam 2004- chất thải rắn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Thế giới(WB), Cơ quan phát triển Quốc tế Canada(CIDA). Việt Nam, 2004)
Trong quá trình thu gom và vận chuyển lượng chất thải rắn là yếu tố cần quan tâm hàng đầu. Nhìn chung, lượng chất thải rắn sinh hoạt phụ thuộc vào hai yếu tố chính là mức độ phát triển kinh tế và việc tăng dân số.
Theo thống kê của Công ty MTĐT Hà Nội, lượng chất thải rắn sinh hoạt ở Hà Nội tăng lên rõ rệt trong vài năm gần đây (bảng 2), điều đó thể hiện mức sống của dân cư cũng như sự phát triển của Hà Nội đã được nâng cao.
Bảng 2: Lượng chất thải rắn sinh hoạt ở Hà Nội qua các năm:
Năm
Lượng chất thải rắn sinh hoạt
2000
1.300 tấn / ngày
2001
1.500 tấn / ngày
2002
1.800 tấn / ngày
2003
2.100 tấn / ngày
2004
2.300 tấn / ngày
(Theo nguồn: Hiện trạng môi trường Việt Nam 2005.Bộ Tài nguyên và môi trường. Hà Nội, 2005)
Theo các kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả, bình quân lượng chất thải rắn sinh hoạt ở các đô thị nước ta khoảng từ 0,5-1,2 kg/người/ngày.Trọng lượng chất thải rắn đô thị ở dao động từ 400-420 kg/m3. Hiện Công ty MTĐT sử dụng hệ số chuyển đổi đơn vị từ trọng lượng sang thể tích rác bằng 0,42 ÷ 0,45 (Theo đề án thực hiện xã hội hoá công tác thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt, phế thải xây dựng tại phường Văn Chương, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, UBND quận Đống Đa, HTX Thành Công. Hà Nội, 2002), nghĩa là:
M = (0,42÷0,45) × V
Trong đó: M là khối lượng rác tính theo đơn vị tấn
V là thể tích rác tính theo đơn vị khối
2.2. Thành phần chất thải rắn đô thị.
Chất thải rắn đô thị bao gồm nhiều thành phần khác nhau. Tuy nhiên có thể phân loại thành các thành phần chính như trình bày trong bảng sau:
Bảng 3: Thành phần phân loại của chất thải rắn đô thị.
Hợp phần
% trọng lượng
Độ ẩm(%)
Trọng lượng riêng(kg/m3 )
Khoảng giá trị(KGT)
Trung bình
KGT
TB
KGT
TB
Chất thải thực phẩm
Giấy
Caton
Chất dẻo
Vải vụn
Cao su
Da vụn
Sản phẩm vườn
Gỗ
Thủy tinh
Can hộp
Kim loại không thép
Kim loại thép
Bụi, tro, gạch
6-25
25-45
3-15
2-8
0-4
0-2
0-2
0-20
1-4
4-16
2-8
0-1
1-4
0-10
15
40
4
3
2
0,5
0,5
12
2
8
6
1
2
4
50-80
4-10
4-8
1-4
6-15
1-4
8-12
30-80
15-40
1-4
2-4
2-4
2-6
6-12
70
6
5
2
10
2
10
60
20
2
3
2
3
8
128-80
32-128
38-80
32-128
32-96
96-192
96-256
84-224
128-20
160-480
48-160
64-240
128-1120
320-960
228
81,6
49,6
64
64
128
160
104
240
193,6
88
160
320
480
Tổng hợp
100
15-40
20
180-420
300
(Theo nguồn: Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam 2005-chất thải rắn, bộ Tài nguyên và môi trường 2005)
2.3. Các nguồn tạo thành chất thải rắn đô thị.
Chất thải rắn đô thị được tạo thành từ nhiều nguồn khác nhau. Thông thường có các nguồn phát sinh chính sau:
- Hộ dân: phát sinh từ các hộ gia đình. Thành phần rác thải này bao gồm rau quả, củ thừa và hư hỏng, thực phẩm, giấy, nhựa, gỗ, thủy tinh…Ngoài ra rác hộ dân có thể chứa các chất thải độc hại như các loại sơn, pin, bóng đèn có chứa thủy ngân…
- Quét đường: phát sinh từ các hoạt động vệ sinh đường phố, khu vui chơi giải trí và danh lam thắng cảnh. Nguồn rác này do người đi đường, các đối tưọng tham gia giao thông và các hộ dân sống dọc hai bên đường xả ra. Thành phần chúng có thể gồm cành cây và lá cây, giấy vụn, nilông, xác động vật chết, thực phẩm…
- Khu thương mại: phát sinh từ các hoạt động bán buôn của các cửa hàng bách hóa, nhà hàng, khách sạn, siêu thị, văn phòng giao dịch…Các loại chất thải từ khu thương mại bao gồm giấy, bìa cactông, nhựa, gỗ, thực phẩm, thủy tinh, kim loại, đồ điện tử gia dụng…Ngoài ra các khu thương mại có thể chứa một phần các chất thải độc hại.
- Cơ quan, công sở: phát sinh từ các cơ quan, xí nghiệp, trường học, văn phòng làm việc. Thành phần rác thải ở đây gần giống như ở khu thương mại.
- Chợ: phát sinh từ các hoạt động mua bán ở các chợ, thành phần chủ yếu là rác hữu cơ bao gồm rau, củ, quả thừa, hư hỏng, thực phẩm hỏng.
- Phế thải xây dựng từ các công trình xây dựng: phát sinh từ các hoạt động xây dựng và tháo dỡ các công trình xây dựng, đường giao thông. Các loại chất thải gồm gỗ, thép, bê tông, gạch, thạch cao, bôi…Ngoài ra còn có các loại chất thải độc hại khác như sơn, các loại hóa chất, phụ gia sử dụng trong xây dựng.
- Bệnh viện và các cơ sở y tế: gồm rác y tế phát sinh từ các hoạt động khám bệnh, điều trị bệnh trong các bệnh viện và cơ sở y tế. Các loại chất thải gồm bệnh phẩm, dụng cụ y tế, chai lọ chứa thuốc, các loại thuốc quá hạn sử dụng…Ngoài ra trong quá trình chăm nuôi bệnh nhân cũng phát sinh các loại chất thải rắn tương tự như ở các hộ gia đình.
- Hoạt động công nghiệp: bao gồm hai hoạt động chính là hoạt động sản xuất và hoạt động quản lý. Chất thải phát sinh từ hoạt động quản lý cũng tương tự như ở các cơ quan, công sở. Các chất thải phát sinh từ các hoạt động sản xuất của các xí nghiệp, nhà máy sản xuất công nghiệp có thành phần và tính chất độc hại tùy thuộc vào đặc điểm ngành công nghiệp. Đối với các khu công nghiệp lớn còn có các loại chất thải giống như hộ gia đình phát sinh từ việc sinh hoạt hàng ngày của công nhân tại khu công nghiệp.
Như vậy tất cả các hoạt động của con người đều trực tiếp hay gián tiếp làm phát sinh ra chất thải rắn đô thị. Mức độ nhiều hay ít phụ thuộc vào cuộc sống sinh hoạt của mỗi người. Từ đó, con người cần có ý thức thu gom chất thải rắn sinh hoạt đảm bảo vệ sinh môi trường.
2.4. Phân loại chất thải rắn đô thị.
Dựa vào đặc điểm và nguồn phát sinh các loại chất thải rắn ở đô thị, có thể phân loại như sau:
- Rác thải hữu cơ dễ phân hủy: rau, củ, quả, thực phẩm…
- Chất hữu cơ khó phân hủy: giấy, thủy tinh, nhựa, vải, gỗ...
- Chất vô cơ: kim loại, bê tông, thạch cao…
- Chất thải nguy hại:sơn, hóa chất…
- Rác y tế: bệnh phẩm, thuốc, bông băng…
Người ta dựa vào đặc điểm của mỗi loại chất thải để có cách thu gom và xử lý riêng. Phế thải xây dựng có khối lượng lớn được vận chuyển đến bãi đổ và tận dụng để san lấp. Chất thải y tế và chất thải công nghịêp do có khả năng lây nhiễm và mức độ độc hại cao nên được phân loại và tổ chức thu gom, vận chuyển, xử lý riêng.
Những loại chất thải khác phát sinh trong đời sống sinh hoạt hàng ngày được gọi là chất thải sinh hoạt. Chất thải sinh hoạt chiếm số lượng lớn tại các đô thị và đang là vấn đề được quan tâm nhiều nhất. Do đó, trong giới hạn của chuyên đề này, tác giả tập trung chủ yếu vào chất thải rắn sinh hoạt. Đây là loại chất thải chiếm khối lượng chủ yếu và là đối tượng chính của công tác thu gom chất thải rắn ở đô thị.
III.Tổ chức quản lý chất thải rắn đô thị Hà Nội.
3.1. Hiện trạng công tác quản lý chất thải rắn đô thị Hà Nội.
Trong những năm qua tốc độ đô thị hóa ở Hà Nội tăng mạnh dẫn đến dân số tăng liên tục từ 2,3 triệu người năm 1995 đến năm 2003 dân số đã xấp xỉ gần 3,0 triệu người. Mức sống của người dân đang không ngừng cải thiện nên lượng rác thải sinh hoạt bình quân tính theo đầu người tăng từ 0,44 kg/người/ngày lên 0,55 kg/người/ngày. Theo thông kê của Công ty môi trường đô thị thì tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt trong nội thành là 500.000 tấn/năm và tăng dần từ 1.300 tấn/ngày đến 1.500 tấn/ngày năm 2000 cho đến nay là khoảng 2.700 tấn/ngày. Ngoài ra Hà Nội hiện có 9 cụm công nghiệp cũ đã có từ những năm 60 và 70 đồng thời đang phát triển 5 khu công nghiệp mới và 3 khu dự kiến đầu tư trong qui hoạch phát triển tư nay đến năm 2010 bao gồm 20 ngành công nghiệp với hơn 500 nhà máy, xí nghiệp, 35 bệnh viện, 55 chợ và trung tâm thương mại, hơn 1.000 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, hàng trăm cơ sở dịch vụ…do vậy lượng chất thải công nghiệp gia tăng hàng năm là 5 % trong đó khoảng 38% là chất thải nguy hại.
Để giảm lượng chất thải chôn lấp từ năm 1996 Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã cho lắp đặt hệ thống phân loại, xử lý chế biến rác sinh hoạt thành phố thành phân hữu cơ tại Cầu Diễn do tổ chức phát triển của Liên hợp quốc(UNDP) tài trợ và năm 2000 tiếp tục đầu tư xây dựng nâng cấp bằng nguồn vốn ODA của chính phủ Tây Ban Nha với công suất xử lý 50.000 tấn rác sinh hoạt/năm đây là bước đột phá về công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt của Hà Nội.
Từ năm 1998 Hà Nội là địa phương đầu tiên triển khai công tác quản lý và xử lý chất thải rắn y tế, đã đầu tư xây dựng lò đốt chất thải rắn nguy hại y tế tập trung tại Cầu Diễn và chính thức đưa vào hoạt động từ năm 2000 đồng thời tổ chức triển khai phân loại chất thải rắn y tế ngay từ cơ sở và thu gom, vận chuyển đến nơi xử lý tập trung.
Từ năm 1998 Hà Nội là địa phương đầu tiên tiến hành việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt bằng phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh tại khu liên hợp xử lý chất thải rắn Nam Sơn-Sóc Sơn với tổng năng lực chôn lấp là 13,8 triệu tấn chất thải rắn sinh hoạt trên tổng diện tích bãi là 83,3 ha. Song song việc vận hành khai thác khu liên hợp xử lý tại Nam Sơn-Sóc Sơn, được phép của Thủ tướng Chính phủ Thành phố Hà Nội đã và đang đầu tư xây dựng các khu xử lý chất thải sinh hoạt tại các huyện Gia Lâm, Đông Anh và Thanh Trì nhắm nâng cao năng lực xử lý chất thải trên địa bàn thành phố.
Về chất thải công nghiệp, đặc biệt là chất thải nguy hại đang là thách thức lớn đối với công tác quản lý môi trường của Thành phố, năm 2002 lực lượng quản lý thị trường, chi Cục bảo vệ thực vật và các Sở khoa học Công nghệ và Môi trường, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công an, Tài chính, Y tế đã phối hợp với Bộ Tư lệnh Hóa học- Bộ quốc phòng, Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường tỉnh Hà Tây tổ chức tiêu hủy hơn 10 tấn thuốc Bảo vệ thực vật cấm sử dụng tồn đọng và một số hóa chất y tế theo đúng Qui chế quản lý chất thải nguy hại ban hành theo Quyết định số 155/QĐ-TTg ngày 16 tháng 7 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ.
Hiện nay Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà Đất Hà Nội đang khẩn trương soạn thảo Qui định tạm thời về Quản lý chất thải công nghiệp(bao gồm cả chất thải nguy hại) để tháng 7 năm 2004 trình Ủy ban nhân dân Thành phố xem xét ban hành tạo cơ sở pháp lý tăng cường các hoạt động Quản lý chất thải công nghiệp nói chung, chất thải nguy hại nói riêng trên địa bàn thành phố.
*Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn đô thị ở Hà Nội.
Giải pháp công nghệ:
- Tăng khả năng thu gom chất thải bằng cách tăng cường và đổi mới trang thiết bị để theo kịp lượng chất thải ngày càng tăng, đồng thời cải thiện mức độ phục vụ và mở rộng phạm vi thu gom như trang bị các xe tải nhỏ để phục vụ cho các đường phố hẹp, các thiết bị cân rác, nén ép rác…
- Phương pháp xử lý rác sinh hoạt cho các đô thị sẽ là ủ rác hữu cơ làm phân compost và chôn lấp