Trong những năm gần đây, diện tích trồng bông ở vùng Tây Nguyên có sự
sụt giảm nghiêm trọng. Theo thống kê của Công ty Bông Việt Nam niên vụ
2007/2008 diện tích bông khoảng 3.700 ha, đến niên vụ 2009/2010 diện tích bông
tại Tây Nguyên chỉ còn khoảng 1.500 ha, những nguyên nhân chính làm cho diện
tích bông suy giảm: Thứ nhất, do quy trình kỹ thuậtcanh tác bông còn phức tạp,
năng suất bông chưa thực sự ổn định, hiệu quả kinh tế của cây bông chưa cao
Thứ hai, do cây bông chưa đủ khả năng cạnh tranh với một số cây trồng ngắn ngày
khác như: ngô, đậu xanh, đậu tương, lạc
Để khôi phục được vùng bông Tây Nguyên, vấn đề cấpthiết được đặt ra là:
Làm thế nào để cây bông nhanh chóng có chỗ đứng vững chắc trong cơ cấu cây
trồng nông nghiệp ngắn ngày của vùng? Có 2 hướng đểgiải quyết vấn đề này: Một
là, nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật về giống, quytrình canh tác, quản lý dịch hại
thích hợp và đồng bộ, giảm chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của cây bông
với cây trồng khác. Hai là, nghiên cứu các mô hình trồng bông thích hợp để tăng
hiệu quả sử dụng đất và hiệu quả kinh tế cho người trồng bông, tạo cơ hội nâng cao
diện tích và sản lượng bông của vùng.
Trong những năm gần đây, Viện nghiên cứu Bông và PTNN Nha Hố đã lai
tạo được một số giống bông lai mới với các đặc tính tốt như: có tiềm năng cho
năng suất cao, thân cành gọn, chín tập trung đã tạo điều kiện thuận lợi cho cây
bông phát triển tốt. Vì vậy, việc nghiên cứu các môhình trồng bông xen canh với
một số cây trồng ngắn ngày khác là một trong những giải pháp thiết thực nhất,
nhằm góp phần khai thác tốt điều kiện đất đai và tạo ra cơ cấu cây trồng ổn định,
nâng cao hiệu quả sử dụng đất và hiệu quả kinh tế, tạo cơ hội mở rộng diện tích và
nâng cao sản lượng bông.
64 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2559 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu một số mô hình trồng bông xen canh với cây ngắn ngày tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
TRẦN ĐĂNG THẾ
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG BÔNG
XEN CANH VỚI CÂY NGẮN NGÀY TẠI HUYỆN
CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ NÔNG NGHIỆP
BUÔN MA THUỘT, NĂM 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
TRẦN ĐĂNG THẾ
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG BÔNG
XEN CANH VỚI CÂY NGẮN NGÀY TẠI HUYỆN
CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG
Chuyên ngành: Trồng trọt
Mã số: 60 62 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ NÔNG NGHIỆP
Thư ký hội đồng Người hướng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Văn Sanh TS. Lâm Thị Bích Lệ
BUÔN MA THUỘT, NĂM 2011
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, diện tích trồng bông ở vùng Tây Nguyên có sự
sụt giảm nghiêm trọng. Theo thống kê của Công ty Bông Việt Nam niên vụ
2007/2008 diện tích bông khoảng 3.700 ha, đến niên vụ 2009/2010 diện tích bông
tại Tây Nguyên chỉ còn khoảng 1.500 ha, những nguyên nhân chính làm cho diện
tích bông suy giảm: Thứ nhất, do quy trình kỹ thuật canh tác bông còn phức tạp,
năng suất bông chưa thực sự ổn định, hiệu quả kinh tế của cây bông chưa cao
Thứ hai, do cây bông chưa đủ khả năng cạnh tranh với một số cây trồng ngắn ngày
khác như: ngô, đậu xanh, đậu tương, lạc
Để khôi phục được vùng bông Tây Nguyên, vấn đề cấp thiết được đặt ra là:
Làm thế nào để cây bông nhanh chóng có chỗ đứng vững chắc trong cơ cấu cây
trồng nông nghiệp ngắn ngày của vùng? Có 2 hướng để giải quyết vấn đề này: Một
là, nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật về giống, quy trình canh tác, quản lý dịch hại
thích hợp và đồng bộ, giảm chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của cây bông
với cây trồng khác. Hai là, nghiên cứu các mô hình trồng bông thích hợp để tăng
hiệu quả sử dụng đất và hiệu quả kinh tế cho người trồng bông, tạo cơ hội nâng cao
diện tích và sản lượng bông của vùng.
Trong những năm gần đây, Viện nghiên cứu Bông và PTNN Nha Hố đã lai
tạo được một số giống bông lai mới với các đặc tính tốt như: có tiềm năng cho
năng suất cao, thân cành gọn, chín tập trung đã tạo điều kiện thuận lợi cho cây
bông phát triển tốt. Vì vậy, việc nghiên cứu các mô hình trồng bông xen canh với
một số cây trồng ngắn ngày khác là một trong những giải pháp thiết thực nhất,
nhằm góp phần khai thác tốt điều kiện đất đai và tạo ra cơ cấu cây trồng ổn định,
nâng cao hiệu quả sử dụng đất và hiệu quả kinh tế, tạo cơ hội mở rộng diện tích và
nâng cao sản lượng bông.
2
Xuất phát từ những cơ sở khoa học và thực tiễn sản xuất, chúng tôi tiến
hành đề tài: “Nghiên cứu một số mô hình trồng bông xen canh với cây ngắn
ngày tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông”.
2. Mục tiêu đề tài
Xác định được mô hình trồng bông xen canh thích hợp với cây ngắn ngày
có hiệu quả kinh tế cao tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học
Các kết quả thu được của đề tài sẽ cung cấp những dẫn liệu khoa học về một
số mô hình trồng bông xen canh với cây trồng ngắn ngày đạt hiệu quả kinh tế cao.
Kết quả nghiên cứu của đề tài làm cơ sở cho việc bố trí các mô hình trồng bông
thích hợp tại địa phương. Đồng thời làm cơ sở cho những nghiên cứu chuyên sâu về cây
bông tại huyện Cư Jút nói riêng và vùng Tây Nguyên nói chung.
- Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất, đem
lại hiệu quả kinh tế cho người trồng bông, nâng cao vị trí cây bông trong hệ thống cơ
cấu cây trồng tại địa phương, tạo điều kiện mở rộng diện tích, tăng năng suất và sản
lượng bông.
4. Giới hạn của đề tài
- Giống nghiên cứu: Đề tài chỉ tiến hành trên giống bông lai F1 VN04-3,
thuộc loài bông Luồi (G. hirsutum L.), là giống có triển vọng và hiện đang trồng
phổ biến tại vùng nghiên cứu.
- Địa bàn nghiên cứu: Đề tài của chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu tại
huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông.
- Thời gian nghiên cứu: Đề tài tiến hành trong vụ mưa năm 2009 và 2010.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1 Khái niệm xen canh
- Xen canh laø troàng cuøng moät luùc nhieàu loaïi caây troàng treân moät ñôn vò dieän
tích trong cuøng moät vụ, nhaèm taän duïng toái ña caùc ñieàu kieän töï nhieân saün coù ñeå ña
daïng hoùa saûn phaåm vaø laøm taêng hieäu quaû ñoàng voán ñaàu tö của ngöôøi saûn xuaát.
- Moät heä thoáng troàng xen coù hieäu quaû sinh hoïc cao laø heä thoáng canh taùc
thoûa maõn 4 yeâu caàu :
+ Toång saûn löôïng thu hoaïch cao nhaát.
+ Dieän tích söû duïng ñaát ít nhaát.
+ Toå hôïp caây troàng hôïp lyù nhaát.
+ Kỹ thuaät canh taùc phuø hôïp nhất.
- Ñeå ñaùnh giaù hieäu quaû sinh hoïc vaø hieäu quaû kinh teá, IRRI (1973,1977)
vaø Mead and Willey (1980) ñaõ ñeà xuaát khaùi nieäm tæ leä ñaát töông ñöông (LER -
Land vaø ñöôïc tính theo coâng thöùc:
LER = Lx + Ly + Lz =
A
P
+
A
P
+
A
P
x
x
y
y
z
z
Trong ñoù:
Lx ; Ly ; Lz laø nhöõng LER rieâng bieät cuûa caùc xaây troàng x, y, z.
Ax , Ay , Az laø naêng suaát cuûa caùc caây troàng x, y, z trong ñieàu kieän troàng xen.
Px , Py , Pz laø naêng suaát cuûa caùc caây trồng ñoù trong ñieàu kieän troàng thuaàn.
Tuy nhieân, saûn löôïng c aây tr oàng khoâng chæ qua n heä vôùi dieän tíc h ñaát,
c aây tr oàng, quaûn lyù vaø moâi tröôøng ( nhö ñöôïc nguï yù bôûi LER) maø c oøn c où qua n
heä maät thieát vôùi thôøi gian sinh tröôûng c uûa c aây tr oàng hoaëc thôøi gia n maø ñaát bò
c hi eám giöõ bôûi moät caây tr oàng hay toå hôïp c aùc c aây tr oàng nhö trong tröôøng hôïp
4
vöøa xen, vöøa goái, canh taùc ña ca nh, ña taàng. Ñieàu ñoù ñaõ kha i s inh r a khaùi
nieäm môùi: “Tyû leä thôøi gian töông ñöông” (A rea Time Equiva lenc y Ratio -
A TER) ñöôïc phaùt trieån bởi Heisc h 1978:
ATER =
t
t
x
y
y
=
I
t
t x
y
y
i
m
I
i
I
i
m I i
m
i =1
n
i
I
i
m
i
n
=
∑ ∑
1
Trong ñoù: t i
m : laø thôøi gian phaùt trieån cuûa caây troàng i trong ñieàu kieän troàng thuaàn.
t I : laø thôøi gian toøan boä heä thoáng troàng xen.
y i
I : Naêng suaát (taán/ha) cuûa caây troàng i trong troàng xen.
y i
m : Naêng suaát (taán/ha) cuûa caây troàng i trong troàng thuaàn.
n : laø toång soá caùc caây troàng trong heä thoáng.
Wiiley, Rao (1980) ñaõ phaùt trieån khaùi nieäm LER trong vieäc ñaùnh giaù möùc
ñoä caïnh tranh giöõa caùc caây troàng xen baèng chæ tieâu “chæ soá caïnh tranh’’
(Competitive Ratio - CR):
CRX =
A
P
:
A
P
x
S
S
X
X
Y
Y
Y
X
Trong ñoù:
AX vaø AY: laø naêng suaát cuûa caùc caây troàng X vaø Y trong troàng xen.
PX vaø PY: laø naêng suaát cuûa caùc caây troàng xen trong troàng thuaàn.
SY: laø khoâng gian töông öùng bò chieám choã bôûi caây troàng Y.
SX: laø khoâng gian töông öùng bò chieám choã bôûi caây troàng X.
Ñeå ñaùnh giaù hieäu quaû kinh teá cuûa vieäc troàng xen coù 4 chæ tieâu cơ baûn ñaõ
ñöôïc ñeà nghò bôûi Perrin et al. (1976) bao goàm: Toång chi phí, toång thu nhaäp, lôïi
nhuaän vaø hieäu quaû ñaàu tö:
HQÑT(%) = L ô ïi n h u a än
T o ån g c h i p h í ña àu t ö
X 1 0 0
5
1.1.2 Những nghiên cứu về xen canh
1.1.2.1 Nghiên cứu ngoài nước
Ở nhiều nước, cây bông thường được trồng xen với nhiều cây trồng khác
để làm tăng năng suất và quản lý sâu hại. Hiệu quả của việc trồng bông xen với
rau Húng quế đã được kiểm chứng trên đồng ruộng đối với sự lan tràn của dịch
hại, khả năng ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả kinh tế tại Ai Cập. Cây
Húng quế được biết đến như là loại cây có tác dụng xua đuổi đối với nhiều loại
sâu hại, được trồng xen với bông theo 3 tỷ lệ (không xen, tỷ lệ xen trung bình và
tỷ lệ xen lớn), với khoảng cách hàng 60 cm và 90 cm được nhắc lại 4 lần, so với
công thức trồng bông thuần, công thức xen canh bông - Húng quế đã làm giảm
sự xuất hiện của sâu hại một cách có ý nghĩa, mật độ sâu hồng trên cây bông
giảm 50% (Schader Christian và cs) [35].
Nghiên cứu ảnh hưởng của việc trồng bông xen canh đối với sâu bệnh và thiên
địch, Dong Y.G (1988) cho rằng: trồng ngô xen bông tạo điều kiện thuận lợi cho bọ
rùa Coccinella và hạn chế được rệp hại bông so với trồng bông thuần. Trong công tác
phòng trừ tổng hợp sâu hại bông thì trồng xen là biện pháp có hiệu quả trong công
tác phòng trừ sâu bệnh hại. Tại Trung Quốc, trồng lúa mì xen bông đã làm chậm sự
xuất hiện của rệp khoảng 5-7 ngày. Số rệp trên cây bông trồng xen thấp hơn 79,3%
so với trồng bông thuần, mật độ thiên địch ở mô hình bông trồng xen cao hơn 4,9
lần so với bông trồng thuần. Trồng xen cây họ đậu hoặc ngô với bông cũng hấp
dẫn thiên địch hơn, làm tăng Bọ rùa Coccinella từ 74,4-168% so với bông thuần và
hạn chế được rệp bông. Ở tỉnh Jiangsu (Trung Quốc), trồng lúa mạch xen bông là
biện pháp thông thường để làm tăng các loài thiên địch trên cây bông [62].
Tại Indonesia, trồng bông xen ngô đã hạn chế tác hại của sâu xanh hại bông
rõ rệt. Với mục đích trồng ngô để dẫn dụ sâu xanh nên việc thiết kế kiểu trồng xen,
bố trí thời vụ gieo ngô sao cho khi thời kỳ sâu xanh ở mức cao trùng với thời kỳ
phun râu của ngô đã làm giảm tác hại của sâu xanh đối với bông và hạn chế được
việc sử dụng thuốc hoá học.
6
Tại Mỹ (Nam Alabama), trồng lạc liên tục thì năng suất lạc giảm rõ rệt do bị
tuyến trùng (Hoplolaimus columbus) phá hại nặng. Tuy nhiên, khi đưa cơ cấu trồng
lạc sau vụ bông đã cải thiện được năng suất lạc rõ rệt và có hiệu quả kinh tế
(Roberson D.G và ctv, 1991).
Theo Darrel S. M và Donald M. E (1980) trồng thuần một loại cây chỉ sử
dụng được 60-80% hiệu suất của đất. Trồng xen giúp nâng cao năng suất cây
trồng, phòng trừ sâu hại dễ dàng hơn, đặc biệt nếu trồng cây họ đậu sẽ cho nhiều
nguồn lợi hơn [53].
Trên thế giới, phần lớn cây họ đậu được sử dụng để trồng xen với cây
bông. Vì cây họ đậu có phản ứng trung tính với ánh sáng, chịu che bóng và có
khả năng cố định đạm, tăng độ màu mỡ cho đất. Theo Kunase Karan.V và cs
[57], việc xen 3 hàng đậu xanh với bông (giống MCu5) đã làm giảm được lượng
đạm cần bón theo khuyến cáo là 25%, nhưng năng suất bông vẫn không bị giảm.
Nghiên cứu về khả năng trồng xen của giống bông C50 với những cây
trồng khác trong điều kiện nhờ nước trời ở Tamil Nadu (Ấn Độ) cho thấy: năng
suất bông trồng thuần cao hơn so với mô hình bông trồng xen. Năng suất bông
giảm do trồng xen có thể đạt tối đa là 28%, ớt và rau mùi đều không thích hợp
cho trồng xen. Bông xen với đậu đen cho hiệu quả kinh tế cao nhất, đậu đen
được khuyến cáo dùng làm cây trồng xen trong những năm có lượng mưa thấp
(dẫn theo Trần Anh Hào, 1996) [9].
Các nghiên cứu của Tarhalkar P. P, Mudholkar N. J (1990) cho rằng: Tại Ấn
Độ cây bông có thời vụ kéo dài, giai đoạn đầu sinh trưởng chậm tạo thành một thời
vụ ngắn khoảng 70-100 ngày. Do vậy, những cây có tán lá thấp như: lúa mạch, đậu
xanh, đậu đen, lạc, đậu tương đều có thể trồng xen với cây bông. Trồng xen các cây
đậu xanh, đậu đen, đậu đũa, hướng dương với bông thì mật độ các loài chích hút trên
bông trồng xen thấp hơn bông trồng thuần, trong đó trồng xen đậu xanh vào bông
cho tổng thu nhập cao nhất [50].
Kết quả nghiên cứu tại Rio Grande do Norte (Brazil) đã chỉ ra rằng: trồng 2
hàng bông xen 1 hàng đậu đũa cho năng suất bông cao hơn trồng 1 hàng bông xen
7
1 hàng đậu đũa. Số lượng cây đậu đũa không ảnh hưởng lớn đến năng suất bông
(Bererra Neto F và cs, 1991) [38].
Kết quả nghiên cứu về hiệu quả của việc trồng bông xen canh với đậu đen
trong điều kiện trồng bông nhờ nước trời ở Ấn Độ cho thấy: Bông được trồng xen
với đậu đen cho năng suất cao hơn so với bông trồng xen với đậu triều, cao lương.
Trồng bông xen đậu đen cho năng suất bông hạt (được quy đổi đông đặc) cao và
mang lại tổng thu nhập cao hơn so với bông trồng thuần hoặc bông trồng xen với
đậu triều, cao lương (Biajdar J.M và cs, 1987) [42]. Trồng bông xen lạc làm tăng
hiệu quả kinh tế và hiệu suất sử dụng đất một cách có ý nghĩa so với trồng bông
xen đậu xanh hoặc trồng bông thuần, tuy năng suất bông ở mô hình bông xen lạc
có thấp hơn (0,91 tấn/ha) so với bông thuần (1,04 tấn/ha) nhưng không đáng kể
(Balkar S.Y; Vaidya C.S và ctv, 1990).
1.1.2.2 Nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, Trần Anh Hào (1996) đã kết luận: cây trồng xen thích hợp
với cây bông ở Ninh Thuận là cây đậu xanh và ở Đồng Nai là đậu tương. Trồng
xen đậu xanh và đậu tương với bông theo tỷ lệ 1:1 làm giảm 6,2% năng suất bông
nhưng thu được sản phẩm đậu xanh và đậu tương, vì vậy tổng thu nhập và tỷ suất
lợi nhuận cao hơn so với trồng bông thuần. Đồng thời, việc trồng xen đậu xanh với
bông còn có tác dụng làm tăng thiên địch như: ong mắt đỏ, nhện Do đó, tỷ lệ sâu
xanh giảm, tỷ lệ bệnh và chỉ số bệnh xanh lùn cũng giảm hẳn so với bông trồng
thuần. Trồng gối ngô vào bông cũng làm cho sâu xanh trên cây bông chỉ tồn tại ở
mức thấp và khá ổn định [9].
Theo Nguyễn Thị Thanh Bình (1999), biện pháp xen canh bông với đậu
xanh theo tỷ lệ 1:1 kết hợp với biện pháp xử lý hạt bằng Gaucho 70WP (5g/1 kg
hạt) có tác dụng phòng trừ rệp và hạn chế được gần 60% mức độ bệnh xanh lùn so
với không phòng trừ [1].
Kết quả thử nghiệm qua 2 năm (2001 và 2002) tại Quảng Ngãi, bước đầu
cho thấy: cây bông trong hệ thống trồng xen với các cây trồng truyền thống tại địa
phương đã cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với bông trồng thuần và cao hơn so
8
với cơ cấu cây trồng khác (Tổng công ty Bông Việt Nam, 2003) [26]. Việc trồng
bông xen với các cây trồng khác đã tận dụng được thời gian, không gian và tiết
kiệm được công chăm sóc. Các mô hình bông xen lạc, đậu cô ve hoặc đậu tương
trong điều kiện mùa khô có tưới bổ sung đều cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với
mô hình bông trồng thuần (Lê Quang Quyến và cs, 2004) [24].
Theo Phạm Xuân Hưng (2002), tại Thanh Hóa, trồng bông xen lạc với mật
độ từ 1,0 đến 1,2 vạn cây/ha làm tăng năng suất bông để có thể bù đắp được sự
giảm năng suất lạc. Đặc biệt, hiệu quả kinh tế của mô hình trồng bông xen lạc khá
cao và cao hơn nhiều so với trồng ngô xen lạc, vì cây ngô chống chịu với điều kiện
khô hạn kém hơn cây bông, hiệu quả kinh tế thấp hơn cây bông [13].
Trên đất cát ở huyện Thăng Bình (Quảng Nam), trong điều kiện vụ Xuân hè:
Mô hình bông xen lạc theo kiểu 1 hàng bông kép (1,4 - 0,6 m) xen 4 hàng lạc cho
hiệu quả kinh tế cao nhất và vượt mô hình trồng bông thuần (5,5 triệu đồng/ha) và
mô hình trồng lạc thuần (2,7 triệu đồng/ha) [26].
Theo Đinh Quang Tuyến & cs (2008), tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông
trồng bông xen đậu tương theo kiểu 1/4 (1 hàng bông xen 4 hàng đậu tương, với
khoảng cách giữa 2 hàng bông là 1,4m) cho lãi thuần cao nhất (đạt 17,5 triệu
đồng/ha). Tại Kông Chro (Gia Lai), trồng bông xen đậu xanh theo kiểu 2/4
(bông hàng kép cách nhau 1,4m xen 4 hàng đậu xanh) cho lãi thuần đạt 13,3
triệu đồng/ha. Trồng bông xen ngô theo kiểu 4/1 (4 hàng bông xen 1 hàng ngô)
cho lại lãi thuần và thu nhập cao tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông và huyện Chư
Sê, tỉnh Gia Lai [29].
1.2 Tình hình sản xuất bông trong nước và trên thế giới
1.2.1 Tình hình sản xuất bông trên thế giới
Trong bốn thập kỷ qua, sản xuất và tiêu thụ bông vải trên toàn thế giới có
những bước tăng trưởng mạnh, sản lượng bông xơ từ 9,8 triệu tấn (năm 1960/1961)
lên đến 21,1 triệu tấn vào những năm 2001/2002 (Badiane và ctv, 2002). Niên vụ
2001/2002 trên thế giới có hơn 50 quốc gia sản xuất bông với diện tích hàng năm
khoảng 30 - 35 triệu ha, tập trung chủ yếu ở các nước có điều kiện khí hậu nhiệt đới
9
và á nhiệt đới. Gần 10 năm trở lại đây, diện tích bông toàn cầu biến động trong
khoảng 30 - 35 triệu ha với sản lượng bông xơ khoảng 20 - 26 triệu tấn/năm. Tổng giá
trị sản xuất bông đạt 21 tỷ USD/năm, trong đó các nước đang phát triển chiếm khoảng
70% giá trị. Sản xuất bông ở khu vực châu Á chiếm 60% sản lượng toàn cầu, châu Phi
chiếm 15% và châu Mỹ La Tinh < 5%, (ICAC, 2001-2010) [41]. (bảng 1.1)
Bảng 1.1: Tình hình sản xuất bông trên thế giới trong những năm gần đây
Niên vụ
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất bông
xơ (tạ/ha)
Sản lượng bông
xơ (triệu tấn)
2001/2002 33,5 6,40 21,5
2002/2003 31,2 6,19 19,3
2003/2004 32,6 6,20 20,2
2004/2005 35,7 6,94 24,8
2005/2006 32,9 6,75 22,2
2006/2007 33,8 7,90 26,7
2007/2008 33,6 7,56 25,7
2008/2009 33,8 7,94 26,9
2009/2010 30,2 7,26 21,8
2010/2011* 33,6 7,49 25,1
Ghi chú: (*): Số liệu niên vụ 2010/2011 ước tính (Nguồn:Theo ICAC, 2001-2011)[41]
Bảng 1.2: Diện tích, năng suất và sản lượng bông của một số quốc gia đứng
đầu thế giới trong niên vụ (2007 – 2009)
Niên vụ
Quốc gia
Diện tích (triệu ha) Năng suất bông xơ (tạ/ha)
2007/08 2008/09 2009/010 2007/08 2008/09 2009/010
Trung Quốc 6,02 5,95 5,30 12,99 13,10 13,5
Mỹ 4,25 3,06 - 9,85 9,11 -
Ấn Độ 9,44 9,37 10,26 5,67 5,34 4,88
Pakistan 3,00 2,90 3,00 6,46 6,76 6,67
Uzbekistan 1,43 1,42 1,3 8,15 7,51 6,53
Braxin 1,08 0,85 0,84 14,88 14,86 14,19
Thổ Nhĩ Kỳ 0,52 0,35 0,28 12,98 13,25 13,61
Toàn thế giới 33,6 33,8 - 7,96 7,66 -
(Nguồn:Theo ICAC, 2001-2011)[41]
Theo thống kê của Bộ nông nghiệp Mỹ, niên vụ 2009/2010, cây bông được
trồng ở hơn 90 quốc gia với diện tích là 30,2 triệu ha. Trong đó, các nước có diện
tích trồng bông đứng đầu thế giới là: Ấn Độ (10,26 triệu ha), Trung Quốc (5,3 triệu
10
ha), Mỹ (3,06 triệu ha), Pakistan (3,0 triệu ha), Uzbekistan (1,3 triệu ha), Brazil
(0,84 triệu ha) và Thổ Nhĩ Kỳ (0,28 triệu ha). Trong số các nước sản xuất bông
đứng đầu thế giới thì Braxin, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ là các nước có năng suất
bông đạt mức khá cao, năng suất bông xơ bình quân chung của các quốc gia này
đạt mức từ 13 - 14,19 tạ bông xơ/ha.
Hiện nay, những nước có diện tích trồng bông đứng đầu thế giới là: Ấn Độ (9,37
triệu ha), Trung Quốc (5,95 triệu ha), Mỹ (3,06 triệu ha), Pakistan (2,90 triệu ha),
Uzbekistan (1,42 triệu ha), Brazil (0,85 triệu ha) và Thổ Nhĩ Kỳ (0,35 triệu ha). Trong
số các nước sản xuất bông đứng đầu thế giới thì Braxin, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ là
các nước có năng suất bông đạt mức khá cao, năng suất bông xơ bình quân chung của
các quốc gia này đạt mức từ 12,98 - 14,88 tạ/ha, ước tính diện tích trồng bông tăng
(33,6 triệu ha), sản lượng bông xơ đạt 25,1 triệu tấn (ICAC, 2001 - 2011) [41].
1.2.2 Tình hình sản xuất bông trong nước
Bảng 1.3: Diễn biến tình hình sản xuất bông ở Việt Nam trong những năm qua
Niên vụ Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn)
1996/1997 10.676 6,00 6.866
1997/1998 11.716 9,00 10.986
1998/1999 19.963 8,00 16.245
1999/2000 17.705 10,00 17.578
2000/2001 23.250 9,00 20.340
2001/2002 29.573 11,00 32.530
2002/2003 35.200 10,50 36.960
2003/2004 23.633 12,12 28.650
2004/2005 20.260 9,55 19.358
2005/2006 23.098 9,20 21.254
2006/2007 15.445 11,20 17.300
2007/2008 7.446 9,83 7.324
2008/2009 3.240 10,60 3.434
2009/2010 10.470 - -
(Nguồn: Theo Công ty bông Việt Nam, 1996 – 2010 [4])
Trước thời Pháp thuộc, giống bông được sử dụng chủ yếu các giống bông Cỏ
địa phương (Gossypium arboreum. L), giống bông này cho năng suất thấp. Một số ít
11
diện tích ở Trung và Nam bộ đã được trồng các giống bông Luồi (Gossypium
hirsutum. L) nhập nội, với năng suất đạt 300 - 500 kg/ha (Lê Quang Quyến, 1999)
[23]. Đầu thế kỷ 20, nước ta đã xuất khẩu bông sang Nhật, Hồng Kông. Trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, diện tích trồng bông đã được phát triển mạnh, trong đó Liên
khu V đạt khoảng 10.000 ha và Liên khu IV đạt khoảng 13.000 ha (Nguyễn Văn Bình
và ctv, 1996) [2], (Hoàng Đức Phương, 1983) [21].
Sau năm 1954, các giống bông Luồi nhập nội được thay thế một phần các
giống bông Cỏ địa phương. Sau năm 1975, năng suất bông hạt thấp (chỉ đạt 3 - 4
tạ/ha). Nguyên nhân năng suất và diện tích bông giảm ở giai đoạn này là do sâu
bệnh phá hại nặng và chưa có các giống bông thích hợp cho các vùng (Lê Quang
Quyến, 1999) [23]. Chi phí sản xuất quá lớn do đầu tư thuốc trừ sâu rất cao nên
người trồng bông luôn bị thua lỗ, mặt khác môi trường bị ô nhiễm nặng, ngành
bông Việt Nam gặp rất nhiều khó