Cây lạc (Arachis hypogaea L.) là cây công nghiệp ngắn ngày có giá trị kinh tế cao được
dùng làm thực phẩm và xuất khẩu. Ở nước ta vùng Bắc Trung Bộ có diện tích trồng lạc lớn
nhất so với 24 tỉnh thành trồng lạc trong cả nước, chiếm 22,5% tổng diện tích trồng và 21,6%
tổng sản lượng lạc trên cả nước. Diện tích trồng lạc ở Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa
tương ứng là 16200 ha chiếm 8,1%; 16000 ha chiếm 8,0%; 12800 ha chiếm 6,4% tương ứng
so với cả nước. Sản lượng lạc ở Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa là 37300 tấn chiếm 8,3%;
36900 tấn chiếm 8,2%; 23600 tấn tương ứng, chiếm 5,2% cả nước (Tổng cục thống kê, 2015).
Bệnh mốc vàng hại lạc do nấm Aspergillus flavus Link. gây ra là đối tượng hại có ý
nghĩa kinh tế quan trọng với cây lạc. Nấm A. flavus có khả năng sinh độc tố aflatoxin, có thể
gây ung thư và một số bệnh nguy hiểm trên người và động vật. Các nghiên cứu về nấm
A.flavus và sự hình thành aflatoxin trên lạc và các sản phẩm từ lạc trên thế giới được tiến
hành toàn diện và hệ thống, với gần 2000 công trình được xuất bản (Mehan et al. 1991).
Lê Văn Giang cs. (2011), khảo sát trên 60 mẫu lạc ở Nghệ An, có 59 mẫu (98,30%) bị
nhiễm nấm A. flavus, trong đó 30 mẫu (50,0%) sinh độc tố aflatoxin từ 2 – 100 ppb và 10
mẫu (16,67%) vượt quá tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế. Đây chính là mối nguy hại cho
sức khỏe đối với người sử dụng những sản phẩm lạc này.
Nghiên cứu của Torres et al. (2014) đã tóm tắt những tiến bộ gần đây ở các quốc gia
trồng lạc trên thế giới về các phương pháp ngăn ngừa ô nhiễm aflatoxin trên lạc. Trong đó,
tập trung chủ yếu vào các chiến lược trước thu hoạch, nhấn mạnh đến các hướng nghiên cứu
cần tập trung trong tương lai bao gồm: chọn tạo giống lạc kháng nấm, kiểm soát sinh học và
sử dụng ozon để giảm ô nhiễm aflatoxin trên lạc.
Tại Việt Nam nghiên cứu phòng trừ nấm mốc A. flavus đã có một số thành công. Bên
cạnh các biện pháp canh tác và bảo quản được áp dụng để phòng chống bệnh, các tác giả
Nguyễn Thị Xuân Sâm, Lê Thiên Minh, Nguyễn Thùy Châu năm 2010-2011 đã phân lập,
tuyển chọn được các dòng nấm A. flavus TH97, DA2 không sinh độc tố dùng trong phòng
trừ các dòng nấm A. flavus sinh độc tố aflatoxin. Trung tâm nghiên cứu và phát triển đậu đỗ
đã tuyển chọn thành công giống lạc L17 có khả năng kháng nấm A.flavus (Nguyễn Văn
Thắng, 2010). Chúng ta đã nghiên cứu và ứng dụng thành công các chế phẩm sản xuất từ
nấm Trichoderma chống các bệnh thối rễ, chết ẻo do các nấm Rhizoctonia solani,
Fusarium solani, Phytophtora, Sclerotium rolfsii gây ra. Mặc dù vậy, hướng nghiên cứu ứng
dụng nấm đối kháng Trichoderma để phòng trừ nấm mốc A. flavus nhằm giảm thiểu độc tố
aflatoxin trên lạc cũng như các cây trồng khác chưa được quan tâm.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài: “Nghiên cứu nấm đối kháng Trichoderma
phòng trừ bệnh mốc vàng do nấm Aspergillus flavus Link. hại lạc tại Nghệ An” đã được
tiến hành nhằm tuyển chọn và ứng dụng được nấm đối kháng Trichoderma trong phòng trừ
bệnh mốc vàng hại lạc.
27 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 515 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu nấm đối kháng trichoderma phòng trừ bệnh mốc vàng do nấm aspergillus flavus link. hai lạc tại Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
------------ ----------
HỒ THỊ NHUNG
NGHIÊN CỨU NẤM ĐỐI KHÁNG Trichoderma
PHÒNG TRỪ BỆNH MỐC VÀNG DO NẤM
Aspergillus flavus Link. HAỊ LAC̣ TAỊ NGHÊ ̣AN
CHUYÊN NGÀNH: BẢO VỆ THỰC VẬT
MÃ SỐ: 62.62.01.12
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
HÀ NỘI - 2017
Công trình hoàn thành tại:
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Người hướng dẫn: 1. GS.TS. VŨ TRIỆU MÂN
2. PGS. TS. NGUYỄN VĂN VIẾT
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án được bảo vệ tại hội đồng đánh giá luận án cấp Viện
họp tại Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi giờ phút, ngày tháng năm 201
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây lạc (Arachis hypogaea L.) là cây công nghiệp ngắn ngày có giá trị kinh tế cao được
dùng làm thực phẩm và xuất khẩu. Ở nước ta vùng Bắc Trung Bộ có diện tích trồng lạc lớn
nhất so với 24 tỉnh thành trồng lạc trong cả nước, chiếm 22,5% tổng diện tích trồng và 21,6%
tổng sản lượng lạc trên cả nước. Diện tích trồng lạc ở Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa
tương ứng là 16200 ha chiếm 8,1%; 16000 ha chiếm 8,0%; 12800 ha chiếm 6,4% tương ứng
so với cả nước. Sản lượng lạc ở Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa là 37300 tấn chiếm 8,3%;
36900 tấn chiếm 8,2%; 23600 tấn tương ứng, chiếm 5,2% cả nước (Tổng cục thống kê, 2015).
Bệnh mốc vàng hại lạc do nấm Aspergillus flavus Link. gây ra là đối tượng hại có ý
nghĩa kinh tế quan trọng với cây lạc. Nấm A. flavus có khả năng sinh độc tố aflatoxin, có thể
gây ung thư và một số bệnh nguy hiểm trên người và động vật. Các nghiên cứu về nấm
A.flavus và sự hình thành aflatoxin trên lạc và các sản phẩm từ lạc trên thế giới được tiến
hành toàn diện và hệ thống, với gần 2000 công trình được xuất bản (Mehan et al. 1991).
Lê Văn Giang cs. (2011), khảo sát trên 60 mẫu lạc ở Nghệ An, có 59 mẫu (98,30%) bị
nhiễm nấm A. flavus, trong đó 30 mẫu (50,0%) sinh độc tố aflatoxin từ 2 – 100 ppb và 10
mẫu (16,67%) vượt quá tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế. Đây chính là mối nguy hại cho
sức khỏe đối với người sử dụng những sản phẩm lạc này.
Nghiên cứu của Torres et al. (2014) đã tóm tắt những tiến bộ gần đây ở các quốc gia
trồng lạc trên thế giới về các phương pháp ngăn ngừa ô nhiễm aflatoxin trên lạc. Trong đó,
tập trung chủ yếu vào các chiến lược trước thu hoạch, nhấn mạnh đến các hướng nghiên cứu
cần tập trung trong tương lai bao gồm: chọn tạo giống lạc kháng nấm, kiểm soát sinh học và
sử dụng ozon để giảm ô nhiễm aflatoxin trên lạc.
Tại Việt Nam nghiên cứu phòng trừ nấm mốc A. flavus đã có một số thành công. Bên
cạnh các biện pháp canh tác và bảo quản được áp dụng để phòng chống bệnh, các tác giả
Nguyễn Thị Xuân Sâm, Lê Thiên Minh, Nguyễn Thùy Châu năm 2010-2011 đã phân lập,
tuyển chọn được các dòng nấm A. flavus TH97, DA2 không sinh độc tố dùng trong phòng
trừ các dòng nấm A. flavus sinh độc tố aflatoxin. Trung tâm nghiên cứu và phát triển đậu đỗ
đã tuyển chọn thành công giống lạc L17 có khả năng kháng nấm A.flavus (Nguyễn Văn
Thắng, 2010). Chúng ta đã nghiên cứu và ứng dụng thành công các chế phẩm sản xuất từ
nấm Trichoderma chống các bệnh thối rễ, chết ẻo do các nấm Rhizoctonia solani,
Fusarium solani, Phytophtora, Sclerotium rolfsii gây ra. Mặc dù vậy, hướng nghiên cứu ứng
dụng nấm đối kháng Trichoderma để phòng trừ nấm mốc A. flavus nhằm giảm thiểu độc tố
aflatoxin trên lạc cũng như các cây trồng khác chưa được quan tâm.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài: “Nghiên cứu nấm đối kháng Trichoderma
phòng trừ bệnh mốc vàng do nấm Aspergillus flavus Link. hại lạc tại Nghệ An” đã được
tiến hành nhằm tuyển chọn và ứng dụng được nấm đối kháng Trichoderma trong phòng trừ
bệnh mốc vàng hại lạc.
2. Mục đích và yêu cầu
2.1. Mục đích
Tuyển chọn được các nguồn nấm Trichoderma có khả năng đối kháng với nấm mốc
Aspergillus flavus hại cây lạc trồng tại Nghệ An và xây dựng được quy trình kỹ thuật sản xuất
và biện pháp sử dụng chế phẩm Trichoderma phòng trừ Aspergillus flavus hiệu quả trên đồng
ruộng.
2
2.2. Yêu cầu
Tuyển chọn được các nguồn nấm Trichoderma có khả năng đối kháng cao với nấm
mốc Aspergillus flavus hại lạc tại Nghệ An.
Xây dựng được quy trình kỹ thuật sản xuất và biện pháp sử dụng chế phẩm
Trichoderma phòng trừ Aspergillus flavus hiệu quả trên đồng ruộng.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án bổ sung những thông tin mới về tuyển chọn sử dụng nấm đối kháng
Trichoderma asperellum được phân lập từ vùng đất trồng lạc để phòng trừ nấm A. flavus hại
trên lạc tại Nghệ An. Kết quả luận án là tài liệu phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và phục vụ
sản xuất.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Sử dụng chế phẩm Trichoderma asperellum để phòng trừ nấm A. flavus hại trên lạc tại
Nghệ An, không những làm giảm sự nhiễm nấm mốc A. flavus gây bệnh mốc vàng hại lạc
giai đoạn trên đồng ruộng và trong quá trình bảo quản, tăng hiệu quả kinh tế trong trồng lạc
mà còn góp phần bảo vệ môi trường và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài nấm Trichoderma được phân lập từ các mẫu đất trồng lạc, sử dụng trong
phòng trừ nấm A. flavus gây bệnh mốc vàng hại lạc tại Nghệ An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tuyển chọn các nguồn nấm Trichoderma có khả năng đối kháng cao và sản
xuất chế phẩm sinh học Trichoderma có khả năng phòng trừ hiệu quả nấm mốc Aspergillus
flavus trên cây lạc và ứng dụng rộng rãi cho vùng chuyên canh lạc tỉnh Nghệ An.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Là công trình nghiên cứu có hệ thống về sử dụng nấm đối kháng Trichoderma
asperellum được phân lập từ vùng đất trồng lạc để chuyên phòng trừ nấm A. flavus hại trên
lạc tại Nghệ An.
- Ứng dụng thành công các kỹ thuật sinh học phân tử dựa vào trình tự vùng gen ITS để
định danh các nguồn nấm Trichoderma có khả năng đối kháng cao với nấm mốc hại lạc A.
flavus.
- Đề xuất được quy trình sản xuất chế phẩm nấm Trichoderma asperellum đạt nồng độ
5,3 × 109 bào tử/gam. Chế phẩm T. asperellum có tác dụng giảm sự nhiễm nấm mốc A. flavus
gây bệnh mốc vàng hại lạc giai đoạn trên đồng ruộng và giảm độc tố aflatoxin trong quá trình
bảo quản đạt 92,08%, tăng hiệu quả kinh tế trong trồng lạc.
6. Cấu trúc của luận án
Luận án dày 155 trang đánh máy vi tính khổ A4 với 37 bảng số liệu, 9 hình. Luận án
gồm 5 phần: Mở đầu 3 trang; Tổng quan tài liệu 32 trang; Vật liệu, nội dung và phương pháp
nghiên cứu 18 trang; Kết quả nghiên cứu và thảo luận 56 trang; Kết luận và kiến nghị 02
trang. Đã tham khảo 138 tài liệu bao gồm 40 tài liệu tiếng Việt và 97 tài liệu tiếng Anh, Phụ
lục 21 trang.
3
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Các xu hướng kiểm soát sinh học A. flavus sinh độc tố aflatoxin trên thế giới hiện nay
với 3 hướng chính là: (i) Hướng nghiên cứu sử dụng Bacillus (B. pumilus, B. subtilis)
(Munimbazi et al., 1998;); (ii) Hướng nghiên cứu sử dụng các chủng A. flavus, A.
parasiticus không sinh độc tố, đã có những thành công, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, như chủng A.
flavus AF36 (Cotty, 1994); (iii) Hướng nghiên cứu sử dụng nấm đối kháng Trichoderma đã
có những thành công nhất định, đặc biệt ở Ấn Độ, như sử dụng 5 loài T. harzianum, T.
viride, T. auroviride, T. longibrachiatum, T. hamatum kiểm soát sinh học A. flavus sinh độc
tố aflatoxin (Reddy et al., 2010).
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Cho đến nay ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng nấm đối kháng
Trichoderma để phòng trừ một số loại bệnh do nấm gây ra hại rễ cây trồng và ứng dụng
nấm đối kháng Trichoderma sản xuất phân hữu cơ sinh học nhưng hướng nghiên cứu ứng
dụng nấm đối kháng Trichoderma để làm giảm thiểu độc tố aflatoxin trên lạc cũng như các
cây trồng khác chưa được quan tâm. Đã có các chế phẩm từ nấm Trichoderma chống được
các loại nấm bệnh cây trồng gây bệnh thối rễ, chết yểu, xì mủ, do các nấm bệnh gây nên
(Rhizoctonia solani, Fusarium solani, Phytophtora, Sclerotium rolfsii, ) nhưng chưa có
chế phẩm nào chuyên phòng trừ nấm A. flavus. Các nghiên cứu trong nước phòng trừ nấm
mốc A. flavus sinh độc tố aflatoxin đã có thành công ở một số hướng như: dùng nấm A.
flavus không sinh độc tố (chủng A. flavus TH97 của Nguyễn Thị Xuân Sâm, A. flavus DA2
của Lê Thiên Minh, Nguyễn Thùy Châu; chọn tạo giống kháng nấm A. flavus như giống lạc
D8 (hay L17) của Nguyễn Văn Thắng (Trung tâm nghiên cứu và phát triển đậu đỗ)...; ngoài
ra kết hợp với các biện pháp canh tác và biện pháp bảo quản sau thu hoạch.
1.3. Những tồn tại và vấn đề đề tài tập trung nghiên cứu
Nghiên cứu Trichoderma phòng trừ A. flavus đang được quan tâm nghiên cứu trên thế
giới, đặc biệt là Ấn Độ. Ở Việt Nam, cho đến nay mới chỉ có những công trình nghiên cứu
ứng dụng nấm đối kháng Trichoderma để phòng trừ một số loại bệnh do nấm gây ra hại rễ
cây trồng như Rhizoctonia solani, Fusarium solani, Phytophtora, Sclerotium rolfsiivà ứng
dụng nấm đối kháng Trichoderma vào sản xuất phân hữu cơ sinh học. Việc nghiên cứu ứng
dụng nấm đối kháng Trichoderma để làm giảm thiểu độc tố aflatoxin trên lạc cũng như các
cây trồng khác chưa được quan tâm.
Vì vậy, nghiên cứu sản xuất chế phẩm nấm Trichoderma có khả năng kiểm soát nấm
A. flavus gây bệnh mốc vàng trên lạc, giảm thiểu được hàm lượng aflatoxin sẽ giúp nâng
cao chất lượng nông sản, có ý nghĩa trong ứng dụng vào sản xuất lạc.
CHƯƠNG II. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Mẫu đất trồng lạc để phân lập Trichoderma; mẫu đất trồng lạc để đánh giá tỷ lệ
nhiễm A. flavus; mẫu hạt lạc giống thu từ nhà dân; mẫu hạt lạc giống thu từ các chợ.
- Chế phẩm nấm đối kháng Trichoderma được sản xuất từ nguồn nấm Trichoderma
asperellum (Tri.020(2).NC), lượng bào tử 5,3 × 109 bt/g.
- Các loại môi trường nuôi cấy: PDA, WA 0,01%, CAM; hóa chất trong phân tích
DNA các nguồn nấm Trichoderma.
4
2.2. Thiết bị và dụng cụ
Tủ hấp khử trùng, buồng nuôi cấy vi sinh, tủ sấy, đĩa petri, ống nghiệm
2.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Các nghiên cứu được tiến hành tại Nghệ An, phân tích DNA được thực hiện tại
Trung tâm BIOTEC (Thái Lan). Thời gian nghiên cứu từ năm 2011 - 2015.
2.4. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng nhiễm nấm A. flavus trên hạt giống và đất trồng lạc tại Nghệ An.
- Thu thập, phân lập và tuyển chọn các nguồn nấm Trichoderma có khả năng đối
kháng với nấm mốc A. flavus hại lạc tại Nghệ An.
- Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật sản xuất chế phẩm Trichoderma phòng trừ A.
flavus hại lạc tại Nghệ An.
- Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật sử dụng chế phẩm Trichoderma phòng trừ A.
flavus hại lạc tại Nghệ An.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng nhiễm nấm A. flavus trên hạt giống và đất trồng lạc tại Nghệ An
theo phương pháp của Lester W. Burgess (2009); Mathur S.B (2000), Lin và Dianese
(1976); Hamed et al. (2004).
Thu thập, phân lập, tuyển chọn các nguồn nấm Trichoderma có khả năng đối kháng
với nấm mốc A. flavus hại lạc tại Nghệ An theo phương pháp của Rahman et al. (2009),
Skidmore and Dickinson (1976) và Dennis et al. (1971).
Định loại của các nguồn nấm Trichoderma đối kháng cao với A. flavus bằng công
nghệ sinh học phân tử: Chiết xuất DNA: theo phương pháp Cirad Protocol, dùng cặp mồi
vùng ITS rDNA, phản ứng PCR, tinh chiết sản phẩm PCR: bẳng bộ kít Aquick PCR
Purification Kit, gửi sản phẩm PCR sang Macrogen (Seoul, Hàn Quốc) để giải trình tự gen,
hoàn thiện lại trình tự gen bằng phần mền Bioedit. Căn chuỗi trình tự bằng phần mềm
ClustalX 2.1. Dùng phần mềm trực tuyến chuyên cho nấm Trichoderma là TrichOKEY v.
2.0 để định danh loài. Dùng phần mềm MEGA v.6 để xây dựng cây phát sinh loài.
Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật sản xuất chế phẩm T. asperellum phòng trừ nấm A.
flavus hại lạc: nghiên cứu môi trường nhân giống cấp 1, môi trường nhân giống cấp 2, môi
trường nhân sinh khối và các tỷ lệ nước/cơ chất, chế độ đảo trộn cấp khí và chiếu sáng theo
phương pháp thường quy trong bảo vệ thực vật và kế thừa các nghiên cứu trước của Trần
Thị Thuần và cs. (1995), Nguyễn Hồng Tuyên và cs. (2013) và Trần Thị Thúy (2013).
Nghiên cứu sử dụng chế phẩm nấm T. asperellum phòng trừ nấm A. flavus hại lạc
trong điều kiện nhà lưới, đồng ruộng và trên mô hình theo phương pháp của Srilakshmi
(2001), Thakur (2003) và Lester W. Burgess (2009), (Askew & Laing 1993) và Mathur
S.B và Olga K., 2000.
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thực trạng nhiễm nấm A. flavus trên hạt lạc và đất trồng lạc tại Nghệ An
3.1.1. Thành phần nấm hại hạt lạc tại Nghệ An năm 2012
Các mẫu hạt lạc đã được thu thập ở các huyện Nghi Lộc, Nam Đàn, Yên Thành, Diễn
Châu, Hưng Nguyên, Anh Sơn và thành phố Vinh. Đã xác định được 6 loài nấm gây hại
chính trên các mẫu lạc được thu thập: có 6 loài nấm thuộc 4 bộ gây hại chính trên hạt lạc
Xuất hiện phổ biến là các loài nấm A. niger, A. flavus, và Penicillium sp.
5
3.1.2. Tỷ lệ nhiễm nấm A. flavus trên hạt lạc thu từ các chợ Nghệ An năm 2012
Đã tiến hành các đợt thu thập, phân lập nấm gây bệnh trên 245 mẫu hạt lạc từ các chợ
khu vực Nghi Lộc và thành phố Vinh, để đánh giá mức độ nhiễm nấm A. flavus trên hạt lạc
tại các chợ của khu vực này. Tỷ lệ mẫu hạt lạc nhiễm nấm A. flavus ở các chợ khá cao từ
28,6 – 51,4%, cao nhất là chợ Nghi Ân với số mẫu bị nhiễm chiếm đến 51,4%. Tỷ lệ mẫu
hạt lạc nhiễm A. flavus thấp nhất ở chợ Quán Lau – Thành phố Vinh. Các chợ khu vực Nghi
Lộc có tỷ lệ số mẫu nhiễm A. flavus khá cao và khá đều nhau giữa các chợ, từ 45,7 – 51,4
%. Các chợ trong khu vực thành phố Vinh: Chợ Ga, chợ Quang Trung, chợ Quán Lau, chợ
Vinh có tỷ lệ nhiễm mẫu nhiễm nấm A. flavus thấp hơn Nghi Lộc từ 28,6 – 51,4%.
3.1.3. Tỷ lệ nhiễm nấm A. flavus trên hạt lạc thu từ nông hộ Nghệ An năm 2012
Mẫu hạt lạc giống thu từ nông hộ có tỷ lệ nhiễm A. flavus từ 15,6 – 64,4%. Tại huyện
Nghi Lộc, tỷ lệ mẫu lạc nhiễm A. flavus cao nhất ở xã Nghi Phong 64,4%, sau đó là Nghi
Trung 60,0%. Các xã còn lại của Nghi Lộc như Nghi Ân, Nghi Trường và Nghi Long tỷ lệ hạt
lạc nhiễm A. flavus thấp hơn chiếm từ 35,6 – 37,8%. Các xã Hưng Thông – Hưng Nguyên,
Kim Liên – Nam Đàn và Diễn An – Diễn Châu có số mẫu lạc giống nhiễm nấm A. flavus từ
44,4 – 51,1 %. Thấp nhất ở Đỉnh Sơn – Anh Sơn với 15,6 % số mẫu bị nhiễm nấm A. flavus.
3.1.4. Thành phần nấm hại trong đất trồng lạc tại Nghệ An năm 2012
Thành phần nấm bệnh trong đất trồng lạc ở 3 xã Nghi Trường, Nghi Ân, Nghi Phong
của huyện Nghi Lộc và vùng phụ cận vụ xuân năm 2012 gồm 11 loài thuộc 6 bộ và 6 họ
khác nhau. Các loài nấm phổ biến là loài A. flavus gây bệnh mốc vàng, loài A. niger gây
bệnh héo rũ gốc mốc đen, Penicillium sp. gây mốc xanh trên lạc.
3.1.5. Tỷ lệ nhiễm nấm A. flavus trên đất trồng lạc của các điểm điều tra tại Nghệ An năm 2012
Đánh giá tỷ lệ nhiễm A. flavus trên 420 mẫu đất được thu từ các vùng trồng lạc Nghi
Lộc, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Diễn Châu, Quỳnh Lưu: Tỷ lê ̣nhiêm̃ A. flavus trên đất trồng
lac̣, chỉ từ 3,3-20,0%, ở các vùng luân canh lúa lac̣ tỷ lê ̣mẫu đất nhiêm̃ A. flavus thấp. Điều
kiêṇ gieo trồng và giai đoaṇ phát triển của lac̣ cũng ảnh hưởng đến tỷ lê ̣ nhiêm̃ A. flavus
trong đất. Mâũ đất thu đươc̣ trên vùng đất cát pha như Nghi Lôc̣, Hưng Nguyên và Quỳnh
Lưu vào giai đoaṇ ra hoa hình thành củ không có tưới có tỷ lê ̣ nhiêm̃ A. flavus từ 10,0-
20,0% cao hơn so với các mâũ đất thu ở Nam Đàn, Diêñ Châu vào giai đoaṇ đẻ nhánh trên
vùng đất cát pha có tưới nước (3,3-5,0%).
3.1.6. Khả năng sinh độc tố aflatoxin của các mẫu nấm A. flavus phân lập được trên hạt
lạc giống thu từ các chợ của huyện Nghi Lộc và thành phố Vinh
Với 107 mẫu nấm A. flavus phân lập được trên hạt lạc giống thu từ các chợ, trong đó
51 mẫu của các chợ ở Nghi Lộc và 56 mẫu của các chợ thành phố Vinh cho thấy: Tỷ lệ
các mẫu nấm A. flavus được phân lập từ hạt lạc thu từ các chợ sinh độc tố aflatoxin từ
71,43-83,33%. Các chợ của Nghi Lộc trung bình có 80,39% số mẫu A. flavus sinh độc tố
aflatoxin. Các chợ của thành phố Vinh trung bình có 76,79% mẫu A. flavus sinh aflatoxin.
Trên tổng số 107 mẫu A. flavus thu từ các chợ có 84 mẫu sinh độc tố aflatoxin chiếm
78,50% (bảng 3.1).
6
Bảng 3.1. Số lượng các mẫu nấm A. flavus phân lập được trên hạt lạc giống thu từ các chợ
của huyện Nghi Lộc và thành phố Vinh sinh độc tố aflatoxin
Tổng
mẫu
Màu sắc trên
môi trường CAM
Màu sắc dưới
đèn UV
Tổng số
mẫu sinh
aflatoxin
Tỷ lệ
mẫu
sinh
aflatoxin
Trắng
Vàng
nhạt
Vàng
sẫm
Tím Xanh
Nghi Lộc 51 5 15 31 10 41 41 80,39
Chợ Nghi Ân 18 1 5 12 3 15 15 83,33
Chợ Sơn 17 3 5 9 4 13 13 76,47
Chợ Mới 16 1 5 10 3 13 13 81,25
Thành phố Vinh 56 5 16 35 13 43 43 76,79
Chợ Ga 16 1 6 9 3 13 13 81,25
Chợ Vinh 16 1 4 11 4 12 12 75,00
Chợ Quán Lau 10 2 2 6 2 8 8 80,00
Chợ Quang Trung 14 1 4 9 4 10 10 71,43
Tổng 107 10 31 66 23 84 84 78,50
3.1.7. Khả năng sinh độc tố aflatoxin của các mẫu nấm A. flavus phân lập được trên hạt
lạc giống thu từ nông hộ Nghệ An
Khả năng sinh độc tố aflatoxin của 191 mẫu nấm A. flavus phân lập được trên hạt lạc
giống thu từ các nông hộ Nghệ An được trình bày trong bảng 3.2. Tỷ lệ mẫu nấm A. flavus
sinh độc tố aflatoxin cao ở hầu hết các nông hộ từ 73,91-100%, trung bình chiếm 81,68%
(bảng 3.2).
Bảng 3.2. Số lượng các mẫu nấm A. flavus phân lập được trên hạt lạc giống thu từ nông hộ
Nghệ An sinh độc tố aflatoxin
Địa điểm
Tổng
mẫu
Màu sắc trên
môi trường CAM
Màu sắc dưới
đèn UV
Tổng số
mẫu sinh
aflatoxin
Tỷ lệ
mẫu
sinh
aflatoxin
Trắng
Vàng
nhạt
Vàng
sẫm
Tím Xanh
Nghi Lộc 105 16 33 56 18 87 87 82,86
Hưng Nguyên 20 3 2 15 3 17 17 85,00
Nam Đàn 23 5 7 11 6 17 17 73,91
Diễn Châu 20 3 7 10 4 16 16 80,00
Yên Thành 16 4 4 8 4 12 12 75,00
Anh Sơn 7 0 4 3 0 7 7 100,00
Tổng 191 31 57 103 35 156 156 81,68
3.1.8. Khả năng sinh độc tố aflatoxin của các mẫu nấm A.flavus phân lập được từ đất
trồng lạc ở Nghệ An
Bảng 3.3 cho thấy nuôi cấy trên môi trường CAM 49 mẫu nấm A. flavus phân lập được từ
đất trồng lạc của Nghệ An: có 28 mẫu A. flavus có màu vàng sẫm, 12 mẫu có màu vàng nhạt và
9 mẫu có màu trắng; dưới đèn UV có 38 mẫu A. flavus quan sát thấy huỳnh quang màu xanh,
11 mẫu có huỳnh quang màu tím. Như vậy, với 49 mẫu isolate A. flavus phân lập được từ đất
trồng lạc Nghệ An có 38 mẫu sinh độc tố aflatoxin chiếm 77,55%.
7
Bảng 3.3. Số lượng các mẫu nấm A. flavus phân lập được từ đất trồng lạc ở Nghệ An sinh
độc tố aflatoxin
Địa điểm
Tổng
mẫu
Màu sắc trên
môi trường CAM
Màu sắc dưới
đèn UV
Tổng số
mẫu sinh
aflatoxin
Tỷ lệ
mẫu
sinh
aflatoxin
Trắng
Vàng
nhạt
Vàng
sẫm
Tím Xanh
Nghi Lộc 23 3 7 13 4 19 19 82,61
Hưng Nguyên 9 2 2 5 2 7 7 77,78
Nam Đàn 2 1 0 1 1 1 1 50,00
Diễn Châu 3 2 0 1 2 1 1 33,33
Quỳnh Lưu 12 1 3 8 2 10 10 83,33
Tổng 49 9 12 28 11 38 38 77,55
3.2. Thu thập, phân lập và tuyển chọn các nguồn nấm Trichoderma có khả năng đối
kháng với nấm mốc A. flavus hại lạc tại Nghệ An
3.2.1. Thu thập và phân lập nấm đối kháng Trichoderma trên đất trồng lạc
Tần suất xuất hiện của nấm Trichoderma trên 1000 mẫu đất trồng lạc thu tại Nghệ An,
Thanh Hóa và Hà Tĩnh. Số mẫu đất trồng lạc có nấm Trichoderma của Nghệ An chiếm
44,30%, Thanh Hoá 52,00% và Hà Tĩnh 39,50%. Trong tỉnh Nghệ An, tần suất xuất hiện
Trichoderma của huyện Diễn Châu cao nhất 55,00%, huyện Quỳnh Lưu trung bình 49,50%
và thấp nhất huyện Nghi Lộc 28,50% (bảng 3.4).
Bảng 3.4. Tần suất xuất hiện nấm Trichoderma trên đất trồng lạc tại các điểm thu mẫu từ
2011-2013
STT Điạ điểm thu mâũ Số mẫu
Số mẫu có
Trichoderma
Tần suất
xuất hiện (%)
1 Nghê ̣An 600 266 44,30
Quỳnh Lưu 200 99 49,50
Diễn