Trong xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại theo nền
kinh tế thị trường, đồng thời đang từng bước gia nhập vào nền kinh tế thế giới. Mặt
khác, sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã đặt ra yêu cầu xã hội cần có một đội ngũ
nhân lực trí tuệ để hội nhập nền kinh tế quốc tế. Muốn đạt được mục tiêu đó bước đầu
của khâu đào tạo là cung cấp được nguồn nhân lực có trình độ đáp ứng được nhu cầu
phát triển các mặt của xã hội.
Trong hoạt động của con người, để thực hiện có hiệu quả công việc con
người cần có một số phẩm chất tâm lý đặc trưng phù hợp với hoạt động nghề nghiệp
của mình. Như vậy, vấn đề đặt ra đối với các cơ sở đào tạo, nhất là đối với các trường
đại học – nơi đào tạo các chuyên gia trong những lĩnh vực khoa học công nghệ cần tổ
chức chương trình đào tạo phát triển năng lực nghề nghiệp của mỗi ngành nghề cụ
thể. Có như vậy, sinh viên ra trường mới có những phẩm chất nghề nghiệp phù hợp
và đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thị trường lao động xã hội.
68 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu tự đánh giá của sinh viên trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh về phẩm chất nghề nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
_________________
NGUYỄN THỊ MỸ LINH
NGHIÊN CỨU TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VỀ PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU
Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại theo nền
kinh tế thị trường, đồng thời đang từng bước gia nhập vào nền kinh tế thế giới. Mặt
khác, sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã đặt ra yêu cầu xã hội cần có một đội ngũ
nhân lực trí tuệ để hội nhập nền kinh tế quốc tế. Muốn đạt được mục tiêu đó bước đầu
của khâu đào tạo là cung cấp được nguồn nhân lực có trình độ đáp ứng được nhu cầu
phát triển các mặt của xã hội.
Trong hoạt động của con người, để thực hiện có hiệu quả công việc con
người cần có một số phẩm chất tâm lý đặc trưng phù hợp với hoạt động nghề nghiệp
của mình. Như vậy, vấn đề đặt ra đối với các cơ sở đào tạo, nhất là đối với các trường
đại học – nơi đào tạo các chuyên gia trong những lĩnh vực khoa học công nghệ cần tổ
chức chương trình đào tạo phát triển năng lực nghề nghiệp của mỗi ngành nghề cụ
thể. Có như vậy, sinh viên ra trường mới có những phẩm chất nghề nghiệp phù hợp
và đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thị trường lao động xã hội.
Cùng với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, trường Đại học Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh không ngừng phát triển với nhiều đóng góp lớn lao vào sự
nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng như đã đào tạo và cung cấp
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế xã hội. Với vị trí là một trường đại
học đào tạo đa ngành thuộc lĩnh vực kinh tế, quy mô đào tạo rất lớn, hơn 45.000 sinh
viên hàng năm (chính quy và không chính quy), vì vậy, vấn đề nghiên cứu tìm hiểu
những phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên trường Đại học Kinh tế là cần thiết trong
giai đoạn hiện nay.
Với ý nghĩa nêu trên, chúng tôi thấy đề tài “Nghiên cứu tự đánh giá của sinh
viên trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh về phẩm chất nghề nghiệp” cần
được thực hiện.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng tự đánh giá của sinh viên
Đại học Kinh tế về phẩm chất nghề nghiệp và một số yếu tố ảnh hưởng đến việc hình
thành các phẩm chất nghề nghiệp, từ đó đề xuất một số biện pháp để hình thành một
số phẩm chất nghề nghiệp cho sinh viên.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu tài liệu để xác định một số vấn đề lý luận về đặc điểm tâm lý của
sinh viên và phẩm chất nghề nghiệp
- Khảo sát thực trạng tự đánh giá của sinh viên trường Đại học Kinh tế về phẩm
chất nghề nghiệp của ngành kinh tế.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tổ chức nội dung giáo dục phẩm chất nghề
nghiệp cho sinh viên trường Đại học Kinh tế
4. KHÁCH THỂ – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Khách thể: Sinh viên trường Đại học Kinh tế TP.HCM
- Đối tượng: Sự tự đánh giá một số phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên
5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Mặc dù đa số sinh viên tự đánh giá về các phẩm chất nghề nghiệp một cách
tích cực và các yếu tố như giới tính, nơi cư trú và việc đi làm thêm có ảnh hưởng
đến kết quả tự đánh giá, nhưng các phẩm chất nghề nghiệp trên cơ sở tự đánh giá
của sinh viên vẫn khác so với yêu cầu mục tiêu đào tạo của trường.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các phương pháp dưới đây được sử dụng:
6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: đọc sách, tham khảo tài liệu và các vấn đề có
liên quan, phục vụ cho việc viết cơ sở lý luận.
6.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, gồm:
- 1 phiếu thăm dò mở nhằm tìm hiểu nhận thức của sinh viên về các phẩm chất
nghề nghiệp, được xây dựng trên cơ sở kết quả điều tra sơ bộ ban đầu qua trao đổi
với sinh viên, giáo viên và tham khảo tài liệu
- 1 phiếu thăm dò kín (thang đo) nhằm tìm hiểu mức độ tự đánh giá của sinh
viên về các phẩm chất nghề nghiệp.
6.3. Phương pháp thống kê: phục vụ cho việc xử lý kết quả thu được từ bảng phỏng
vấn, thang đo, bao gồm:
- Thống kê tần số (Frequency)
- Tính điểm trung bình (Mean)
- Phân tích biến lượng (Anova)
- So sánh trung bình (F - test)
trong phần mềm SPSS for Win 11.0
7. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu nội dung tự đánh giá của sinh viên qua các
khía cạnh đặc biệt chiếm vị trí quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của lứa
tuổi này là những phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề nghiệp tương lai của họ như:
đạo đức, học tập, giao tiếp xã hội, ý chí, đặc điểm cá nhân, xu hướng nhân cách và
cảm xúc. Sinh viên được chọn là những người đang chuẩn bị vào Giai đoạn chuyên
ngành (Sinh viên năm thứ 2).
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài nội dung của phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm 2 chương sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2. Thực trạng tự đánh giá về phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên trường
Đại học Kinh tế TP.HCM.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Từ lâu trong xã hội đã chú trọng đến việc đảm bảo cho lao động nghề có được
những phẩm chất phù hợp với nghề. Để xác định những phẩm chất tâm lý phù hợp
với đặc điểm nghề nghiệp cá nhân, cần phải tính đến những thiên hướng và năng lực
của bản thân; phải biết những phẩm chất cá nhân có phù hợp với những yêu cầu mà
nghề đó quy định hay không; trong đó phải xét đến các khả năng về thể chất, đặc
điểm tính cách, hứng thú, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, và bao hàm cả lĩnh vực tình
cảm và ý chí.
Để đảm bảo cho con người tham gia vào hoat động nghề nghiệp có được các
phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề cao, người ta đã quan tâm ngay từ khâu tuyển
chọn. Năm 1883, nhà Tâm lý học Anh F.Galton đã dùng test chẩn đoán nhân cách để
phục vụ cho việc tư vấn nghề; năm 1908, nhà Tâm lý học Mỹ F.Parsons cũng dùng
test và angket để nghiên cứu năng lực học sinh nhằm mục đích hướng nghiệp; năm
1912, giáo sư G.Munsterberg – Giám đốc phòng thí nghiệm trường Đại học tổng hợp
Harward- đã soạn thảo bảng hướng dẫn tuyển chọn về mặt tâm lý những người làm
nghề điện thoại viên.
Ơ Liên Xô đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, từ những năm 20
của thế kỷ XX, việc nghiên cứu tâm lý phục vụ cho tuyển chọn, tư vấn và đào tạo
nghề rất được chú trọng. Năm 1921, phòng thí nghiệm tâm lý chuyên nghiên cứu
nhân cách học sinh phục vụ hướng nghiệp được thành lập trong Viện nghiên cứu lao
động trung ương và Viện nghiên cứu lao động toàn Ucraina; năm 1927, Hội nghị toàn
liên bang về tâm sinh lý lao động và tuyển chọn nghề được tổ chức ở Mátxcơva,
nhiều nhà tâm lý học nổi tiếng như E.A.Climôp, V.I.Segurôva đã đi sâu nghiên cứu
về xu hướng, về hứng thú nghề nghiệp như là phẩm chất quyết định hiệu quả hoạt
động nghề [23, tr.52]; ngoài ra còn có nghiên cứu về mặt tâm lý của một loạt các
nghề phổ biến và xây dựng những phương pháp xác định sự phù hợp nghề nghiệp của
con người. Những nghiên cứu này được tiến hành cho học sinh trước khi bước vào
chọn nghề, để tránh sự lãng phí trong đào tạo khi các em lựa chọn nghề không đúng
với hoàn cảnh thực tế của mình. Từ năm 1970 ở các trường Lêningrat, tiến hành
nghiên cứu nhân cách của học sinh lớn bằng cách phát hiện thiên hướng nghề nghiệp
của các em với sự giúp đỡ của Viện bồi dưỡng Giáo viên,
Riêng đối với ngành sư phạm, tác giả Ph.N.Gôlôbin có công trình nghiên cứu
về “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên”, ông đã vạch ra được những phẩm
chất tâm lý chủ yếu quyết định sự thành công trong công tác của người giáo viên, qua
đó đề ra những yêu cầu nghề nghiệp làm cơ sở giúp cho sinh viên, giáo viên rèn
luyện và phát triển năng lực sư phạm phù hợp.
Đề tài nghiên cứu “Mối quan hệ giữa khuynh hướng, hứng thú nghề nghiệp và
kết quả học tập của sinh viên học viện Quân y” của tác giả Nguyễn Sinh Phúc được
đăng trên Tạp chí Tâm lý học 5/1999, bàn về mối quan hệ giữa phẩm chất nghề
nghiệp và kết quả học tập. Tác giả tập trung khảo sát mối quan hệ giữa 3 yếu tố
khuynh hướng nghề, hứng thú nghề và kết quả học tập. Tuy nhiên phần tìm hiểu xu
hướng nghề nghiệp trên sinh viên của tác giả khá đơn giản, chỉ điều tra bằng những câu
hỏi về mức độ yêu thích đối với nghề nghiệp chớ không bàn gì đến các phẩm chất nghề
nghiệp.
Đề tài “Nghiên cứu mức độ phù hợp của kỳ thi tuyển sinh vào trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí minh với kết quả học tập của học sinh ở lớp 12 và kỳ thi
tú tài” do tác giả Đoàn Văn Điều làm chủ nhiệm. Đây là đề tài cấp cơ sở mã số 2000-
06, ĐHSP TPHCM, 2001, do một số giảng viên khoa Tâm lý – Giáo dục của trường
Đại học Sư phạm thực hiện, cũng đề cập đến sự tự đánh giá của sinh viên về xu
hướng nghề nghiệp và kết quả học tập. Công trình tập trung nghiên cứu những vấn đề
xoay quanh đầu vào của sinh viên trúng tuyển vào Đại học Sư phạm năm 2000, trong
đó có vấn đề “tự đánh giá phù hợp với nghề”, “tự đánh giá các phẩm chất sư phạm”
của sinh viên và chỉ số tương quan giữa các yếu tố trên với kết quả học tập bậc phổ
thông và kết quả tuyển sinh đại học. Do khách thể nghiên cứu của đề tài là những
sinh viên năm thứ nhất, nên những đánh giá cũng chưa khái quát cao về các phẩm
chất đặc trưng của nghề sư phạm.
Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số B91-38-06, Viện Nghiên cứu phát triển giáo
dục năm 1993, tác giả Mạc Văn Trang có nghiên cứu những yêu cầu tâm lý cơ bản
đối với một số nghề và nghiên cứu trắc đạc tâm lý của cá nhân phù hợp nghề.
Đi từ phân tích hoạt động nghề nghiệp đến những yêu cầu tâm sinh lý của cá
nhân, để đáp ứng đòi hỏi của nghề cần vận dụng nghiên cứu phẩm chất tâm lý phù
hợp nghề. Người lao động phù hợp nghề có ý nghĩa kinh tế và nhân văn to lớn mà
trong thực tế nhiều khi cả xã hội lẫn cá nhân đều chưa ý thức được tầm quan trọng
của nó. Phù hợp nghề sẽ giúp cho giáo dục đào tạo nghề đạt hiệu quả hơn; cá nhân có
phẩm chất tâm lý phù hợp nghề sẽ làm việc với chất lượng, năng suất lao động cao,
người lao động cảm thấy hứng thú, sáng tạo và gắn bó với nghề hơn. Dưới góc độ
nghiên cứu khoa học giáo dục, tác giả Nguyễn Bá Huy nhận thấy rằng: Quá trình đào
tạo học viên sư phạm ở các nhà trường quân đội hiện nay, cần tập trung giáo dục
những phẩm chất cơ bản sau: Thế giới quan khoa học và niềm tin cộng sản chủ nghĩa,
phẩm chất trí tuệ; phẩm chất xúc cảm, tình cảm; phẩm chất ý chí, phẩm chất tổ chức
kỷ luật và đề ra một số biện pháp giáo dục phẩm chất nghề nghiệp nhằm góp phần
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện đội ngũ giáo viên cũng
như hình thành các phẩm chất nghề nghiệp cho giáo viên trong các nhà trường quân
đội hiện nay [17].
Tác giả Đỗ Văn Thọ, Học viện Cảnh sát nhân dân, trong nghiên cứu “Nâng cao
những phẩm chất tâm lý phù hợp nghề cho sinh viên bằng tác động trực tiếp trong
quá trình giảng dạy-tổ chức học tập” trên tạp chí Tâm lý học số 6/2006, ông nhận xét
rằng nếu tạo được sự thống nhất đồng bộ trong giảng dạy các môn học và trong tổ
chức các hoạt động của sinh viên, thì hiệu quả nâng cao các phẩm chất tâm lý phù
hợp nghề cho sinh viên sẽ cao hơn nhiều.
Mặc dù phẩm chất nghề nghiệp đặc trưng cho từng ngành, từng nghề rất quan
trọng và cần thiết để làm cơ sở cho việc giáo dục và đào tạo nhưng trên thực tế rất ít
các đề tài nghiên cứu về vấn đề này, riêng với lĩnh vực ngành nghề kinh tế hầu như
chưa được nghiên cứu. Chính vì vậy, qua đề tài này tác giả muốn góp phần xác định
những phẩm chất tâm lý phù hợp với ngành nghề kinh tế, để tạo điều kiện trong công
tác giáo dục đào tạo nghề đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn hiện
nay.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.2.1. Khái niệm đánh giá và tự đánh giá
Để tìm hiểu khái niệm tự đánh giá, trước hết cần phải định nghĩa đánh giá là
gì? Đánh giá có nghĩa là nhận xét, bình phẩm về giá trị của một sự vật, một sự việc
hay một người nào đó [30, tr.589]. Như vậy, nội dung của đánh giá là làm rõ giá trị
của một người hay một sự vật. Theo giáo sư Trần Bá Hoành, “đánh giá là quá trình
hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả của công việc, dựa vào sự phân
tích những thông tin thu được đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra,
nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao
chất lượng, hiệu quả công việc [1, tr.5].
Tác giả Văn Thị Kim Cúc (2003), trong nghiên cứu “Tìm hiểu sự đánh giá bản
thân ở trẻ 10-15 tuổi” ở Tạp chí Tâm lý học, số 7, 7/2003 cho rằng Tự đánh giá của
cá nhân được xem như là “Ý thức về giá trị của cái Tôi” [5, tr.19]
Việc tự đánh giá của con người thích hợp và khách quan đến mức nào và thuộc
tính đó thay đổi ra sao theo lứa tuổi? Những khác biệt về đối tượng và phương thức
đánh giá đã gây ra nhiều khó khăn cho việc kiểm tra tính thích hợp của các ý kiến tự
đánh giá. Trong một số trường hợp sự tự đánh giá được kiểm tra bằng phương pháp
so sánh mức độ kỳ vọng được biểu hiện trong đó với các kết quả hoạt động thực tế
như những thành tích thi đấu thể thao, điểm số trong học tập, các số liệu trắc
nghiệm, Ở những trường hợp khác, sự tự đánh giá được đem đối chiếu với sự đánh
giá của những người xung quanh (thầy cô giáo, cha mẹ,) với tư cách là những giám
định viên của cá nhân đó.
Bản thân quá trình tự đánh giá đó có những chức năng khác nhau. Một mặt sự
tự đánh giá là một quá trình nhận thức muốn đạt tới một hoạt động có kết quả, cá thể
phải có những hiểu biết khách quan về mình và những phẩm chất của mình. Mặt
khác, sự tự đánh giá thường được dùng làm phương tiện tự vệ tâm lý; nguyện vọng
muốn có hình ảnh “cái Tôi” tích cực, thường kích thích con người cường điệu những
ưu điểm của mình. Mối tương quan giữa hai chức năng này và động thái phát triển
theo lứa tuổi vẫn còn là vấn đề các nhà hoa học rất quan tâm nghiên cứu.
Nói chung, xét về toàn bộ từ tính phù hợp của tự đánh giá, rõ ràng là tăng theo
lứa tuổi. Xét về đa số các chỉ số thì tự đánh giá của người lớn thực tế hơn, khách quan
hơn thanh niên, còn thanh niên thì lại khách quan hơn thiếu niên. Ơ đây có dấu ấn của
kinh nghiệm sống, của sự phát triển trí tuệ, tính ổn định của mức độ kỳ vọng. Mà
thực tế những xu hướng này không đi theo đường thẳng, cần chú ý đến sự thay đổi
của chính các tiêu chuẩn đánh giá theo lứa tuổi [3, tr.95].
Qua các định nghĩa trên, tác giả chấp nhận “tự đánh giá là sự đánh giá của cá
nhân về các giá trị của bản thân với tư cách là một con người trong mối quan hệ với
người khác; trên cơ sở tự đánh giá cá nhân sẽ biết rõ được các nhu cầu của bản thân,
những điểm mạnh và điểm yếu đang tồn tại ở bản thân, những phán đoán rõ ràng về
sự đúng sai, từ đó giúp cá nhân có thêm sức mạnh để duy trì trạng thái cân bằng tâm
lý làm động lực để vươn lên trong mọi hoàn cảnh”
1.2.2. Quan hệ tự đánh giá với tự ý thức và cái Tôi
Theo Đỗ Ngọc Khanh, tự đánh giá là một hình thức phát triển cao của sự tự ý
thức, là sự đánh giá tổng thể của một cá nhân về cá giá trị bản thân với tư cách là một
con người trong hoạt động và giao tiếp với những người khác [16, tr.33]. Như vậy, tự
đánh giá là mức độ phát triển cao của tự ý thức; giữa tự đánh giá và tự ý thức có mối
liên kết chặt chẽ. Tự đánh giá được hình thành trên cơ sở của tự ý thức.
Tự ý thức là sự tri giác cái diễn ra trong tâm hồn con người. Ơ đây, tính dễ hiểu
của kinh nghiệm đối với một cá nhân người trực tiếp trải nghiệm kinh nghiệm của
mình trở nên rõ ràng. Chỉ có chính tôi và một mình tôi quan sát và tri giác các phản
ứng thứ cấp của tôi – Còn được xem như là một quá trình tri giác bên trong nội quan
cá nhân [28, tr.72]. Còn theo định nghĩa của Vưgotxki, tự ý thức là ý thức xã hội
được chuyển vào bên trong [22, tr.182].
Tự ý thức còn được xem như là một quá trình ý thức về chính mình, về bản
thân mình. Tự ý thức của cá nhân biểu hiện ra ở các dấu hiệu sau:
- Tự nhận thức về mình: vẻ bề ngoài, nội dung tâm hồn, vị trí và các quan hệ xã
hội của cá nhân,
- Có thái độ đối với mình như: tự phê bình, tự đánh giá, tự nhận định,
- Có dự định về đường đời của mình: chọn thần tượng, chọn mẫu người để bắt
chước, có lý tưởng, chí hướng,
- Và có khả năng tự kiềm chế, tự thúc đẩy, tự kiểm tra, Tất cả những biểu hiện
đó được kết tinh lại ở hoạt động tự giáo dục của cá nhân [12, tr.82].
Ơ trình độ phát triển cao nhất của ý thức là tự ý thức; con người có khả năng tự
biến đổi chính bản thân mình bằng việc tự điều chỉnh, tự điều khiển hoạt động bản
thân để thích ứng với hoàn cảnh. Khi đã có ý thức về bản thân mình, chủ thể tự phản
ánh bản thân mình theo một mẫu mực nhất định của cái Tôi và chỉ đạo hành động của
mình theo khuôn mẫu ấy. Cũng theo những lý giải về nội dung tự ý thức, các tác giả
Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Luỹ và Đinh Văn Vang, trong Giáo trình Tâm lý
học đại cương đã khái quát “Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức. Tự ý thức
là ý thức về mình, có nghĩa là khi bản thân trở thành đối tượng “mổ xẻ”, phân tích, lý
giải, thì lúc đó con người đang tự ý thức. Tự ý thức biểu hiện ở những mặt sau:
Chủ thể tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm hồn, đến vị thế
và các quan hệ xã hội, trên cơ sở đó tự nhận xét, tự đánh giá. Từ đó có thái độ rõ ràng
đối với bản thân, tự điều chỉnh, tự điều khiển hành vi theo mục đích tự giác, qua đó
chủ thể có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện mình.
Trong Tâm lý học nhân cách, cái Tôi được nghiên cứu như một thành
phần quan trọng của nhân cách. Để hình thành một con người như một chỉnh thể
trọn vẹn có cá tính, giúp cá nhân phân biệt với những người khác nhờ cái Tôi
của mình, vì vậy quá trình hình thành nhân cách bao gồm cả việc hình thành
hình ảnh “cái Tôi” tương đối bền vững, tức là một quan niệm toàn vẹn về bản
thân mình. Hình ảnh “cái Tôi” (đôi khi còn đươc gọi là “khái niệm cái Tôi”
hoặc là “cái Tôi quan điểm”), đó là một hiện tượng tâm lý phức tạp, không chỉ
quy vào việc hiểu một cách đơn giản những phẩm chất của mình hoặc toàn bộ
những ý kiến của sự tự đánh giá. Hình ảnh cái Tôi đó không đơn giản là sự phản
ánh “dưới hình thức biểu tượng hoặc khái niệm” những thuộc tính đã có một
cách khách quan nào đó và không phụ thuộc vào trình độ nhận thức của mình,
mà còn là tâm thế xã hội, thái độ của cá nhân, Theo quan điểm của Shibutani
(S.L.Albrecht,1980), khi cá nhân tham dự vào một hoạt động xã hội, thì cái Tôi
bao gồm năm khía cạnh: tính đồng nhất, quá trình tự ý thức, tính ổn định, tự
đánh giá về bản thân và ý thức xã hội. Theo ông, tính đồng nhất là một nhân tố
trong cấu trúc của cái Tôi. Nó thể hiện bản thân qua cách ứng xử. Tính đồng
nhất của mỗi cá nhân là khác nhau. Điều này giúp chúng ta có thể nhận thấy
được một cách chính xác hành vi đó là của ai và người đó sẽ xử sự ra sao [20,
tr.141].
Xét theo phương diện phát triển lứa tuổi, hình ảnh cái Tôi cá nhân sẽ
thay đổi theo lứa tuổi. Các công trình Tâm lý học nghiên cứu về vấn đề này đã
đi theo một số hướng. Trước hết người ta nghiên cứu những chuyển biến trong
nội dung hình ảnh cái Tôi và các bộ phận cấu thành của nó – những phẩm chất
nào được nhận thức rõ nhất, mức độ và tiêu chuẩn tự đánh giá thay đổi như thế
nào theo lứa tuổi, vẻ bề ngoài có ý nghĩa như thế nào, những phẩm chất trí tuệ,
đạo đức có ý nghĩa như thế nào. Tiếp theo người ta nghiên cứu mức độ tin
cậy và tính chất khách quan của nó. Cuối cùng nghiên cứu sự thay đổi cấu trúc
của hình ảnh cái Tôi nói chung, tức là nghiên cứu mức độ phân hoá của nó (tính
phức tạp về mặt nhận thức), tính nhất quán bên trong (tính hoàn chỉnh), độ bền
vững (tính ổn định theo thời gian), giá trị chủ quan, độ tương phản cũng như
mức độ tự trọng. Xét theo tất cả các chỉ số nói trên, các độ tuổi khác nhau, hình
ảnh cái Tôi cũng thay đổi khác nhau [3, tr.91]. Tuỳ thuộc vào sự giáo dục và lối
sống của cá nhân, mà các phẩm chất của cái Tôi được xác định, cùng các khả
năng tự điều chỉnh, các sức mạnh của bản thân được xác định. Nó là một cấu
tạo t