Hoạt động bao thanh toán là một trong những hình thức tài trợ thương
mại lâu đời nhất trên thế giới. Với một bề dày lịch sử phát triển hàng tră m
năm, bao thanh toán đang là một phương thức không thể thiếu trong hoạt
động thương mại trong nước và đóng vai trò quan trọng thúc đẩy hoạt động
thương mại quốc tế phát triển. Khi thế đàm phán trong thương mại nghiêng
về phía người mua; người bán buộc phải nhượng bộ. Việc người bán cấp tín
dụng cho người mua trở thành một trong những điều khoản bắt buộc trong
nhiều thoả ước kinh tế. Trên thực tế, người bán lại rất cần vốn để tiếp tục
sản xuất, kinh doanh, đặc biệt đối với người bán là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Phương thức bao thanh toán ra đời đáp ứng phần nào nhu cầu về vốn
của doanh nghiệp, đồng thời đem lại nguồn thu không nhỏ cho các công ty
bao thanh toán. Bao thanh toán thực chất là việc tổ chức tín dụng hay công
ty bao thanh toán đứng ra tạm ứng cho người bán để người bán tiếp tục quá
trình sản xuất kinh doanh thông qua việc mua lại và quản lý những khoản
phải thu c ủa người bán. Bao thanh toán đến với Việt Nam hơi muộn nhưng
bao thanh toán đang là một kênh cấp tín dụng được các ngân hàng thương
mại và các tổ chức tín dụng hết sức quan tâm.
Việt Nam đang trên con đường chính thức trở thành thành viên của
Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này đặt các ngân hàng thương
mại Việt Nam đứng trước những thách thức lớn; đó là bị “thua thiệt ngay
trên sân nhà” nếu không có những bước đột phá trong cung cấp dịch vụ
ngân hàng mới như bao thanh toán hay bảo hiể m tín dụng . Có thể thấy, đa
dạng hoá các loại hình dịch vụ, giữ được vị thế cạnh tranh khi mà các ngâ n
hàng nước ngoài trong tương lai sẽ tham gia vào thị trường tài chính Việt
2
Nam với quy mô ngày càng rộng và sâu đang trở thành một vấn đề “sống
còn”. Việc phát triển loại hình tài trợ thương mại trong đó có dịch vụ bao
thanh toán là hoàn toàn phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do
đó, đề tài nghiên cứu về “Nghiệp vụ bao thanh toán và triển vọng áp dụng
tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, theo tác giả, mang giá trị thực tiễn
cao.
118 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2369 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiệp vụ bao thanh toán factoring và triển vọng áp dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
NGUYỄN THỊ MINH NGỌC
NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN FACTORING)
VÀ TRIỂN VỌNG ÁP DỤNG TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. VŨ SỸ TUẤN
HÀ NỘI 2006
1
PHẦN MỞ ĐẦU
******
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hoạt động bao thanh toán là một trong những hình thức tài trợ thương
mại lâu đời nhất trên thế giới. Với một bề dày lịch sử phát triển hàng trăm
năm, bao thanh toán đang là một phương thức không thể thiếu trong hoạt
động thương mại trong nước và đóng vai trò quan trọng thúc đẩy hoạt động
thương mại quốc tế phát triển. Khi thế đàm phán trong thương mại nghiêng
về phía người mua; người bán buộc phải nhượng bộ. Việc người bán cấp tín
dụng cho người mua trở thành một trong những điều khoản bắt buộc trong
nhiều thoả ước kinh tế. Trên thực tế, người bán lại rất cần vốn để tiếp tục
sản xuất, kinh doanh, đặc biệt đối với người bán là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Phương thức bao thanh toán ra đời đáp ứng phần nào nhu cầu về vốn
của doanh nghiệp, đồng thời đem lại nguồn thu không nhỏ cho các công ty
bao thanh toán. Bao thanh toán thực chất là việc tổ chức tín dụng hay công
ty bao thanh toán đứng ra tạm ứng cho người bán để người bán tiếp tục quá
trình sản xuất kinh doanh thông qua việc mua lại và quản lý những khoản
phải thu của người bán. Bao thanh toán đến với Việt Nam hơi muộn nhưng
bao thanh toán đang là một kênh cấp tín dụng được các ngân hàng thương
mại và các tổ chức tín dụng hết sức quan tâm.
Việt Nam đang trên con đường chính thức trở thành thành viên của
Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này đặt các ngân hàng thương
mại Việt Nam đứng trước những thách thức lớn; đó là bị “thua thiệt ngay
trên sân nhà” nếu không có những bước đột phá trong cung cấp dịch vụ
ngân hàng mới như bao thanh toán hay bảo hiểm tín dụng…. Có thể thấy, đa
dạng hoá các loại hình dịch vụ, giữ được vị thế cạnh tranh khi mà các ngân
hàng nước ngoài trong tương lai sẽ tham gia vào thị trường tài chính Việt
2
Nam với quy mô ngày càng rộng và sâu đang trở thành một vấn đề “sống
còn”. Việc phát triển loại hình tài trợ thương mại trong đó có dịch vụ bao
thanh toán là hoàn toàn phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do
đó, đề tài nghiên cứu về “Nghiệp vụ bao thanh toán và triển vọng áp dụng
tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, theo tác giả, mang giá trị thực tiễn
cao.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu về nghiệp vụ bao thanh toán, hệ thống hoá những lý luận
về nghiệp vụ bao thanh toán tại các tổ chức tín dụng; trên cơ sở đó đánh giá
về thực trạng và triển vọng áp dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp hạn chế rủi ro đối với các ngân hàng thương
mại Việt Nam khi triển khai bao thanh toán
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Nghiệp vụ bao thanh toán của các tổ chức tài chính trên thế giới và đi
sâu vào nghiệp vụ này ở một số chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam như chi nhánh Ngân hàng Far East National Bank (FENB-Mỹ), Ngân
hàng Citibank;
- Nghiên cứu về những cơ hội và thách thức của các Ngân hàng thương
mại Việt Nam khi áp dụng dịch vụ này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
+ Phân tích + So sánh
+ Thống kê + Điều tra chọn mẫu
+ Tổng hợp + Các bảng số liệu
5. Những đóng góp khoa học của luận văn:
- Nghiên cứu về nghiệp vụ bao thanh toán, hệ thống hoá những lý luận
về nghiệp vụ bao thanh toán tại các tổ chức tín dụng
3
- Đánh giá thực trạng và triển vọng nghiệp vụ bao thanh toán ở các
NHTM Việt Nam
- Đề xuất một số giải pháp đối với các NHTM Việt Nam trong phát
triển nghiệp vụ bao thanh toán
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu làm ba chương, cụ thể như sau:
Chƣơng I: Tổng quan về nghiệp vụ bao thanh toán (factoring) của các tổ
chức tín dụng
Chƣơng II: Thực trạng và triển vọng của nghiệp vụ bao thanh toán tại các
Ngân hàng thương mại Việt Nam
Chƣơng III: Một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bao thanh toán tại
các Ngân hàng thương mại Việt Nam
4
CHƢƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN (FACTORING)
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Ngày nay khi tốc độ lưu thông tiền tệ đang được thúc đẩy, nhu cầu về
vốn đối với hầu hết các doanh nghiệp đang trở thành một vấn đề khó khăn
đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do việc tiếp cận với nguồn
vốn cho vay từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác không đơn giản. Với
nhiều quốc gia trên thế giới bao thanh toán thực sự là một phương thức tài
trợ thương mại đem lại nguồn lợi to lớn không chỉ cho các nhà bao thanh
toán mà còn đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động
này với các tính năng ưu việt của nó. Do đó, việc nắm vững cơ sở lý luận về
bao thanh toán là cần thiết, để từ đó có cái nhìn khách quan hơn trong quá
trình tiếp cận và ứng dụng tốt vào thực tiễn loại hình nghiệp vụ này.
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN
1.1.1. Sơ lƣợc lịch sử hình thành và phát triển của bao thanh toán
1.1.1.1. Lịch sử ra đời của bao thanh toán
Hoạt động bao thanh toán là một trong những hình thức tài trợ lâu đời
nhất trên thế giới với một bề dầy lịch sử phát triển hàng trăm năm. Một số
học giả cho rằng bao thanh toán có từ thời đế chế La Mã. Một số nhà học giả
lại cho rằng bao thanh toán có từ cách đây chừng bốn nghìn năm từ thời vua
Hammurabi. Hammurabi là vị vua của vùng Mesopotamia, nơi được coi là
cội nguồn phát triển việc cho vay. Khái niệm factor xuất phát từ động từ
trong tiếng Latin facio, có nghĩa là “he who does thing” (tạm dịch là “người
kinh doanh buôn bán hưởng hoa hồng”). Động từ tiếng Latin trên gợi ý rằng
nguồn gốc của bao thanh toán cũng được phát sinh vào thời gian đó khi ấy,
nó được đưa vào nội dung các giấy tờ làm bằng chứng cho các hoạt động
5
mua bán của vùng và các văn bản mô phỏng luật lệ cai trị của vị vua này.
Theo thời gian, vị vua Hammurabi và người dân ở vùng đất này cũng không
còn nhưng phương thức bao thanh toán vẫn còn tồn tại. Hầu hết các quốc gia
văn minh thời bấy giờ coi trọng buôn bán, đều đã thử ứng dụng một số
phương thức tương tự như phương thức bao thanh toán hiện giờ; lấy một ví
dụ điển hình là người Roman đã từng bán giảm giá tờ thương phiếu.
Các nhà sử học thường cho rằng bao thanh toán có từ thời xuất hiện đại lý
hưởng hoa hồng, những người thực hiện việc mua bán và luân chuyển hàng
hoá khoảng 2000 năm trước thời Đế chế La mã. Do hệ thống thông tin và vận
tải còn sơ khai, đại lý hưởng hoa hồng thực hiện chức năng marketing quan
trọng trong giao dịch giữa nhà sản xuất ở nước ngoài và người mua trong nước.
Với vai trò là đại lý, họ nắm quyền sở hữu (không chỉ đơn thuần về mặt danh
nghĩa) của hàng hoá của bên uỷ nhiệm - nhà sản xuất nước ngoài - rồi giao
hàng hoá đó cho người mua trong nước, ghi sổ và thu nợ khi đến hạn, chuyển
số tiền trả nợ cho bên uỷ nhiệm sau khi đã trừ đi phần hoa hồng của mình, phần
hoa hồng này thường được tính bằng phần trăm trên tổng doanh thu.
Cùng với sự phát triển toàn cầu của ngành công nghiệp dệt của Anh
vào thế kỷ 14 và thế kỷ 15, các đại lý bao thanh toán cũng ngày càng lớn
mạnh và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong giao thương. Khi họ bắt
đầu tin tưởng hơn vào khả năng trả nợ của khách hàng, họ chấp nhận cấp tín
dụng cho các đại lý cấp dưới của mình để ăn hoa hồng cao hơn. Thực tế là
với khoản hoa hồng nhiều hơn, đại lý bao thanh toán bắt đầu đảm bảo khả
năng trả nợ của người mua bằng cách cam kết trả cho đại lý cấp dưới trong
trường hợp người mua không trả nợ đúng hạn và khả năng tài chính của họ
không cho phép họ có sẵn nguồn để thanh toán.
Trước đó không lâu, xuất hiện hình thức bảo lãnh tín dụng, đại lý thanh
toán có đủ vốn bắt đầu trả trước một phần, gọi là “tạm ứng” cho đại lý cấp
6
dưới của mình dựa trên khoản thanh toán trong tương lai của người mua
hoặc của đại lý bao thanh toán, nếu người mua không trả tiền và nếu nó bảo
lãnh khoản tín dụng đó với người mua. Do có những khoản tạm ứng này mà
đại lý bao thanh toán tính thêm phí hoa hồng hoặc lãi suất. Thông thường,
để tránh khỏi tình trạng không thanh toán hoặc là thanh toán không đủ do
những vấn đề không thuộc lĩnh vực tín dụng; ví dụ như người mua khiếu
nại người bán về số lượng, chất lượng hoặc thời gian giao hàng, đại lý bao
thanh toán không tạm ứng toàn bộ số tiền doanh thu bán hàng. Thay vào đó
họ giữ lại một phần để dự trữ phải trả cho người bán cho tới khi họ đã thu
hồi được tất cả các khoản nợ. Người mua được thông báo là đại lý bao
thanh toán đã mua quyền nhận tiền thanh toán của họ.
1.1.1.2. Sự phát triển của nghiệp vụ bao thanh toán trên thế giới
Vào thời điểm Columbus phát hiện ra châu Mỹ năm 1492, đại lý bao
thanh toán đã phát triển từ vai trò duy nhất là với chức năng marketing
thành đóng vai trò vừa có chức năng marketing vừa có chức năng tài chính.
Thế kỷ 16 chứng kiến sự bắt đầu của chế độ thực dân của Mỹ, và cùng
với nó vai trò ngày càng tăng và nhiều cơ hội mới cho bao thanh toán - đặc
biệt là đối với những người thiết lập hoạt động kinh doanh ở Mỹ. Khoảng
cách giữa châu Âu và thị trường thực dân rất lớn và càng lớn hơn khi Mỹ
mở rộng biên giới phía Tây của nó. Khoảng cách lớn này làm cho những
nhà sản xuất châu Âu khó quen với thị trường châu Mỹ và làm giảm sự tin
cậy về tín dụng đối với những khách hàng đầy tiềm năng này. Và điều này
làm cho vòng tuần hoàn từ khi bắt đầu sản xuất cho đến khi nhận được
khoản tiền thanh toán cuối cùng cũng dài hơn. Kết hợp những yếu tố trên
đây có thể thấy người sản xuất phải trải qua rất nhiều khó khăn để thu hồi
vốn tái sản xuất. Vì vậy, những đại lý bao thanh toán ở Mỹ do đã quen với
thị trường và người mua trong nước của họ, quyết định nhóm họp lại thành
7
một tổ chức để cung cấp cho các nhà sản xuất châu Âu những dịch vụ
marketing và tài chính tương tự như trước đây các đại lý bao thanh toán vẫn
thường làm.
Đến cuối thế kỷ 19, một sự thay đổi quan trọng trong thế giới thương
mại đã diễn ra. Mỹ phát triển mạnh mẽ trở thành một quốc gia có chủ quyền,
ít bị phụ thuộc vào hàng hóa nước ngoài. Sự phát triển của ngành công
nghiệp trong nước có được là nhờ dân số và lực lượng lao động phát triển rất
nhanh, tài nguyên thiên nhiên dư thừa và việc áp đặt biểu thuế gắt gao đối
với hàng hoá nước ngoài. Đồng thời những nhà sản xuất Mỹ cũng phát triển
đội ngũ kinh doanh (marketing) của mình và vì vậy nhu cầu chức năng
marketing mà trước đây các nhà bao thanh toán thường thực hiện bấy giờ
giảm đi. Tuy nhiên, một lần nữa các đại lý bao thanh toán lại phát triển và
điều chỉnh theo nhu cầu của nền kinh tế mới trong nước, tập trung vào các
hoạt động tín dụng, thu nợ, kế toán và các chức năng tài chính (thường là
thông báo cho người mua việc bán các khoản phải thu). Việc giao cho các
đại lý bao thanh toán thực hiện các chức năng này cho phép các nhà sản xuất
ngành dệt của Mỹ có thời gian tập trung hơn vào sản xuất và tiếp thị kinh
doanh sản phẩm.
Vào đầu thế kỷ 20, khi các nhà sản xuất Mỹ mở rộng sang các sản
phẩm may mặc, phụ kiện, đồ nội thất và thảm…, các đại lý bao thanh toán
Mỹ cũng mở rộng chuyên môn và dịch vụ sang ngành công nghiệp mới này.
Trước năm 1930, bao thanh toán diễn ra chủ yếu trong ngành công nghiệp
dệt may vì ngành công nghiệp này là con đẻ của nền kinh tế thuộc địa vốn
rất hay áp dụng hình thức bao thanh toán. Sau chiến tranh thế giới thứ II,
bao thanh toán của Mỹ phát triển sang các ngành công nghiệp mới đang phát
triển như điện, hoá chất, sợi tổng hợp… công ty bao thanh toán đưa ra hình
thức bao thanh toán mua lại các khoản phải thu dựa trên cơ sở hoá đơn và từ
8
đó trở đi bao thanh toán đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong hoạt
động của giới doanh nhân.
Ngày nay các đơn vị bao thanh toán tồn tại dưới đủ mọi hình thức: một
phòng ban của một tổ chức tài chính lớn hay ở quy mô lớn hơn như một
doanh nghiệp kinh doanh độc lập. Rất nhiều đơn vị bao thanh toán đã hoạt
động thực sự có những bước tiến mạnh mẽ khi mức lãi suất tăng cao đỉnh
điểm vào những năm 60, 70. Xu hướng này càng diễn biến trở nên sâu sắc
hơn khi vào những năm 80, lãi suất ngày càng gia tăng và ngành ngân hàng
đã có những biến động mạnh. Từ đó việc hình thành một Hiệp hội thế giới
về bao thanh toán trở thành một vấn đề cấp thiết.
Đầu những năm 1960, tổ chức các nhà bao thanh toán quốc tế ra đời
(gọi tắt là IFG: International Factor Group) ra đời với gần 70 thành viên có
mặt ở 47 quốc gia. Với mục tiêu để giúp các nhà bao thanh toán thuận lợi
trong quá trình hợp tác với nhau, IFG là tổ chức sáng lập ra hệ thống bao
thanh toán hai đơn vị (two-factor system), một hệ thống dịch vụ bao thanh
toán quốc tế.
Một tổ chức khác mạnh và có tầm ảnh hưởng lớn đó là Hiệp hội các
nhà bao thanh toán thế giới - Factors Chain International (gọi tắt là FCI).
Năm 1968, FCI ra đời với vai trò là một hiệp hội đứng ra tập hợp các công
ty bao thanh toán độc lập lại với nhau. Ngay từ những ngày đầu thành lập
các thành viên sáng lập ra FCI luôn nhận thức được tiềm năng của bao thanh
toán, do đó họ luôn đặt sứ mệnh của FCI lên trên hết đó là:
Đưa bao thanh toán trở thành một dịch vụ mang tính toàn cầu
Giúp các thành viên trong Hiệp hội của mình giành được lợi thế cạnh
tranh trong tài trợ thương mại toàn cầu thông qua việc
Thiết lập một mạng lưới các nhà bao thanh toán hàng đầu thế giới
9
Xây dựng một hệ thống mạng lưới thông tin hiện đại và hiệu quả
để kết nối các nhà bao thanh toán lại với nhau
Xây dựng khung pháp lý nhằm bảo vệ các nhà xuất nhập khẩu
Tiến hành thủ tục tuân chuẩn quy tắc về chất lượng dịch vụ đặt ra
Thường xuyên xây dựng các gói đào tạo
Không ngừng giới thiệu quảng bá bao thanh toán là một phương
thức tối ưu trong tài trợ thương mại.
Với phương châm hoạt động như vậy, cho đến nay FCI đã có trong
mình số lượng thành viên lên tới 206 tại 59 quốc gia, chiếm hơn 50% doanh
số bao thanh toán toàn cầu. Doanh số bao thanh toán cũng như tầm ảnh
hưởng tới tài chính toàn cầu của FCI ngày càng gia tăng rõ rệt.
(đơn vị: triệu euro)
Biểu đồ 1.1: Doanh số bao thanh toán của FCI
(Nguồn: Factors Chain International, 2005)
479.433
437.932
245.354
130.166
80.496
19.393
1984
1989
1994
1999
2004
2005
1984 29% 1989 41% 1994 44% 1999 42% 2004 51% 2005 54%
10
Biểu đồ 1.2: Thị phần về doanh số bao thanh toán của FCI so với toàn cầu
(Nguồn: Factors Chain International, 2005)
(đơn vị: triệu euro)
Biểu đồ 1.3: Doanh số bao thanh toán xuất nhập khẩu của FCI
(Nguồn: Factors Chain International)
Biểu đồ 1.4: Thị phần về doanh số bao thanh toán xuất nhập khẩu của FCI so với
toàn cầu
(Nguồn: Factors Chain International)
Qua bảng số liệu, có thể thấy sự phát triển không ngừng về doanh số
bao thanh toán đang minh chứng cho hoạt động sôi động và chiếm ưu thế
của FCI trong thị trường bao thanh toán trên toàn thế giới. Ngoài ra, với đội
ngũ khách hàng lên tới con số 134.800, 4.962.638 người mua và
1984
1989
1994
1999
2004
2005
51.672
43.565
19.405
9.875
5.384
1.384
1984 32% 1989 47% 1994 49% 1999 49% 2004 64% 2005 68%
11
102.105.720 giao dịch bao thanh toán đã diễn ra tính đến thời điểm quý
IV/2005, FCI đang ngày càng khẳng định tầm ảnh hưởng của mình tới nền
tài chính toàn cầu.
Với một truyền thống lịch sử khá lâu đời, sự phát triển không ngừng
của phương thức bao thanh toán qua một số thời kỳ và sự ra đời của một số
tổ chức, hiệp hội về bao thanh toán, có thể thấy trên thế giới, đặc biệt ở Mỹ,
bao thanh toán đang ngày càng trở thành một phương thức tài trợ thương mại
được ưa chuộng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nghiệp vụ này, vẫn tồn
tại một số quan niệm chưa đúng. Trước khi nghiên cứu bản chất của bao
thanh toán, tác giả xin đưa ra một số quan điểm sai lầm của một số người khi
đánh giá về bao thanh toán.
1.1.2. Một số quan niệm sai lầm về bao thanh toán
Do bản chất bao thanh toán là một nghiệp vụ tài chính khá đặc biệt nên
khá nhiều người vẫn có những quan niệm sai lầm chưa đúng về hoạt động
bao thanh toán:
1.1.2.1. Bao thanh toán là một khoản cho vay
Trên thực tế, mặc dù bao thanh toán là công cụ tài trợ thương mại
nhưng bao thanh toán lại không là một khoản cho vay thông thường vì bao
thanh toán không mang đặc thù của các khoản vay như thời hạn hoàn trả
hay trách nhiệm hoàn trả của người xin vay. Ngân hàng hay các tổ chức tín
dụng sẽ không cho vay nếu tài sản đảm bảo của khoản vay không đủ lớn;
còn trên thực tế đối với bao thanh toán, các đơn vị bao thanh toán lại tập
trung đánh giá các khoản phải thu. Trong một số trường hợp, ngân hàng
hoặc các tổ chức tín dụng khác vẫn có thể cấp vốn lưu động dựa trên những
khoản phải thu, tuy nhiên như trên đã khẳng định, nó không liên quan đến
thời hạn hoàn trả hay trách nhiệm hoàn trả của người xin vay.
1.1.2.2. Bao thanh toán là một hình thức để xử lý nợ khó đòi
12
Bao thanh toán cung cấp các dịch vụ thu nợ các khoản phải thu đến
hạn với tính chất chuyên nghiệp cao nhưng thực chất đơn vị hay công ty bao
thanh toán không phải là tổ chức chuyên xử lý các khoản nợ khó đòi tiến
hành các việc như: cơ cấu lại khoản vay, cơ cấu lại hoặc tiếp quản con nợ và
các nghiệp vụ xử lý nợ khó đòi khác. Nói cách khác, bao thanh toán không
phải là dịch vụ cung cấp cho khách hàng khi các khoản phải thu của họ là
các khoản nợ khó đòi hoặc bản thân họ không thu được nợ của những người
mua hàng.
1.1.2.3. Bao thanh toán là nghiệp vụ mang tính “chiết khấu hối phiếu”
Về hình thức, bao thanh toán và nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu giống
nhau ở chỗ đều cho phép khách hàng nhận ngay được một khoản tiền khi
xuất trình hoá đơn hay hối phiếu. Tuy nhiên có điểm khác biệt là hối phiếu
trong nghiệp vụ chiết khấu được “tài sản hoá” để chuyển nhượng còn hoá
đơn trong bao thanh toán là phương tiện để thu hồi nợ. Nghiệp vụ chiết khấu
hối phiếu tập trung nhiều vào mục đích “tài chính” hơn so với bao thanh toán
1.2.2.4. Một số quan niệm chưa đúng khác
Bao thanh toán chỉ sử dụng khi có khó khăn về mặt tài chính cho nên
khách hàng cảm thấy “mất uy tín” khi thông báo cho người mua hàng biết
về những khoản phải thu đó được bao thanh toán. Khách hàng sử dụng dịch
vụ bao thanh toán vì những lợi ích của nó đem lại phù hợp với lợi ích khách
hàng, đó không phải là hoạt động cứu trợ khi khách hàng gặp khó khăn về
tiền mặt, vốn lưu động. Do vậy sẽ không đúng khi cho rằng khách hàng
tham gia vào bao thanh toán đang gặp khó khăn và khách hàng mất uy tín
khi tham gia vào bao thanh toán.
Công ty bao thanh toán có vai trò như “người cho vay cuối cùng” và
đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Không phải khách hàng chỉ lựa chọn
phương thức bao thanh toán khi họ không thể tiếp cận được với nguồn vốn
13
vay ngân hàng. Bao thanh toán cho phép chuyển các khoản phải thu thành
tiền mặt một cách nhanh chóng tuy nhiên đây không phải là phương tiện để
xử lý các khó khăn về vấn đề thanh khoản. Khách hàng quyết định sử dụng
dịch vụ bao thanh toán khi mà mức chi phí bao thanh toán nhỏ hơn lợi ích mà
việc có tiền mặt trong tay mang lại tại thời điểm nhận tiền thanh toán trước.
Trên đây là một số quan điểm sai lầm, rất dễ dẫn đến nhầm lẫn các
phương thức tương tự. Như vậy, thực chất bao thanh toán là gì và tại sao
người ta lại quan tâm đến loại hình dịch vụ này nhiều đến vậy. Trước hết,
xin bắt đầu bằng một số khái niệm về bao thanh toán
1.1.3. Khái niệm về bao thanh toán
Khái niệm về bao thanh toán không phải là mới đối với hệ thống các
ngân hàng hay tổ chức tín dụng, nhưng với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thì đây dường như là một khái
niệm vô cùng mới mẻ.
1.1.3.1. Khái niệm theo Công