Luận văn Phân tích những yếu tồ của môi trường marketing vĩ mô tác động đến thị trường xe máy Việt Nam

Thật là vô ích khi bảo dòng sông ngừng chảy, tốt nhất là hãy học cách học bơi theo dòng chiều dòng chảy”. Hiện nay trên thị trường tồn tại rất nhiều phương tiện khác nhau để đáp ứng nhu cầu đi lại của người tiêu dùng. Và chúng ta không thể không kể đến một phương tiện phổ biến đó chính là xe máy. Đối với mọi người nói chung cũng như sinh viên nói riêng, xe máy là một phương tiện đi lại được xem là thuận tiện nhất, tương đối phù hợp về giá cả cũng như về hình thức. Trong những năm gần đây,thị trường xe máy Việt Nam đã có sự thay đổi rất lớn. Như chúng ta cũng đã biết, một công ty muốn thành công trong công việc kinh doanh của mình trên thị trường là khi công ty đó không ngừng theo dõi và có những quyết định kịp thời và thích hợp với tình hình bên trong cũng như bên ngoài công ty. Họ thấy rằng môi trường Marketing luôn luôn dè xẻn những cơ hội mới và những đe doạ.Những công ty này đều nhận thức được tầm quan trọng sống còn của việc không ngừng theo dõi và thích nghi với môi trường không ngừng thay đổi. Trách nhiệm của những người làm Marketing của công ty là phải xác định được những thay đổi quan trọng của môi trường.Hơn ai hết trong công ty,họ phải là những người đầu tàu và những người săn tìm cơ hội.Mặc dù mọi nhà quản trị trong một tổ chức đều cần quan sát môi trường bên ngoài những người làm Marketing phải có hai năng khiếu đặc biệt.Họ có những phương pháp tình báo Marketing và nghiên cứu Marketing để thu nhập thông tin về môi trường Marketing.Họ cũng thường dành nhiều thời gian cho môi trường của khách hàng và đối thủ cạnh tranh bằng cách rà soát môi trường một cách có hệ thống những người làm Marketing có đủ khả năng kiểm tra lại và điều chỉnh các chiến lược Marketing cho phù hợp để đáp ứng những thách thức và cơ hội mới trên thị trường. Chính vì thế, trong khuôn khổ bài tiểu luận này, nhóm chúng em đi sâu vào nghiên cứu với đề tài: “Phân tích những yếu tồ của môi trường marketing vĩ mô tác động đến thị trường xe máy Việt Nam”.Chúng em hi vọng sẽ góp phần nho nhỏ những kiến thức bổ ích và cần thiết liên quan đến đề tài để mọi người có thể hiểu rõ hơn, sâu sắc và đặc biệtcó thể trang bị cho mình những hành trang cần thiết của một nhà quản trị, nhà marketing tài năng trong tương lai.

docx33 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 8635 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích những yếu tồ của môi trường marketing vĩ mô tác động đến thị trường xe máy Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Phân tích những yếu tồ của môi trường marketing vĩ mô tác động đến thị trường xe máy Việt Nam LỜI MỞ ĐẦU “Thật là vô ích khi bảo dòng sông ngừng chảy, tốt nhất là hãy học cách học bơi theo dòng chiều dòng chảy”. Hiện nay trên thị trường tồn tại rất nhiều phương tiện khác nhau để đáp ứng nhu cầu đi lại của người tiêu dùng. Và chúng ta không thể không kể đến một phương tiện phổ biến đó chính là xe máy. Đối với mọi người nói chung cũng như sinh viên nói riêng, xe máy là một phương tiện đi lại được xem là thuận tiện nhất, tương đối phù hợp về giá cả cũng như về hình thức. Trong những năm gần đây,thị trường xe máy Việt Nam đã có sự thay đổi rất lớn. Như chúng ta cũng đã biết, một công ty muốn thành công trong công việc kinh doanh của mình trên thị trường là khi công ty đó không ngừng theo dõi và có những quyết định kịp thời và thích hợp với tình hình bên trong cũng như bên ngoài công ty. Họ thấy rằng môi trường Marketing luôn luôn dè xẻn những cơ hội mới và những đe doạ.Những công ty này đều nhận thức được tầm quan trọng sống còn của việc không ngừng theo dõi và thích nghi với môi trường không ngừng thay đổi. Trách nhiệm của những người làm Marketing của công ty là phải xác định được những thay đổi quan trọng của môi trường.Hơn ai hết trong công ty,họ phải là những người đầu tàu và những người săn tìm cơ hội.Mặc dù mọi nhà quản trị trong một tổ chức đều cần quan sát môi trường bên ngoài những người làm Marketing phải có hai năng khiếu đặc biệt.Họ có những phương pháp tình báo Marketing và nghiên cứu Marketing để thu nhập thông tin về môi trường Marketing.Họ cũng thường dành nhiều thời gian cho môi trường của khách hàng và đối thủ cạnh tranh bằng cách rà soát môi trường một cách có hệ thống những người làm Marketing có đủ khả năng kiểm tra lại và điều chỉnh các chiến lược Marketing cho phù hợp để đáp ứng những thách thức và cơ hội mới trên thị trường. Chính vì thế, trong khuôn khổ bài tiểu luận này, nhóm chúng em đi sâu vào nghiên cứu với đề tài: “Phân tích những yếu tồ của môi trường marketing vĩ mô tác động đến thị trường xe máy Việt Nam”.Chúng em hi vọng sẽ góp phần nho nhỏ những kiến thức bổ ích và cần thiết liên quan đến đề tài để mọi người có thể hiểu rõ hơn, sâu sắc và đặc biệtcó thể trang bị cho mình những hành trang cần thiết của một nhà quản trị, nhà marketing tài năng trong tương lai. NỘI DUNG CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG XE MÁY Nhu cầu tiêu thụ xe máy ở Việt Nam Tronggần20nămqua,nhờnhữngnỗlựcvàquyếttâmcủatoànĐảngvàtoàndân tatrongviệcthựchiệncácchủtrươngvàchínhsáchđúngđắncủaĐảng,nềnkinh tếViệtNam đãvà đang đạt đượcnhữngthànhtựuquantrọngvà cótínhbướcngoặt trênconđườngxâydựngvàđổimớiđấtnước.Việcthựchiệnchínhsáchmởcửa hội nhậpvới nềnkinhtếcủacácnướctrongkhuvựcvàtrênthế giới đãlàmchonền kinhtếViệtNampháttriểnvà đạtđượcnhữngthànhtựuđáng kể.Tốc độtăng trưởngtổngsản phẩm trongnước (GDP) bình quân đạt trên 7%/năm trong nhiều năm,đặcbiệtlàgiaiđoạn1991-1995(đạttrên8,2%/năm).GDPbìnhquânđầu ngườigiaiđoạn1996-2000là462USD,ướcthựchiệngiaiđoạn2001-2005là600 USD.Nguồn vốn đầu tưtrựctiếpnướcngòai(FDI)giaiđoạn2001-2005cảcấpmới và bổ sungđạt 15-16 tỷ USD, tăng gấp 1,5 lần so với giaiđoạn1996-2000. Bêncạnhnhữngthànhtựuvềkinhtế,sau20nămtiếnhànhđổimới,ViệtNamđã đạtđượcmộtsốthànhtựuvềxãhội,cótácđộngthúcđẩynềnkinhtếpháttriển. ViệtNamđãhoànthànhxuấtsắcmụctiêugiảmmộtnửasốngườinghèovàmột nửasốngườidânbị đóitheochuẩnquốctếsovới những năm đầuthậpniên90chỉ trong khoảng 10 năm. Cụthể: trong giai doạn 2002-2004, mức sống - thể hiện qua chi tiêu của hộgia đình, đã đượccải thiện rõ rệt. Tính chung cả nước, chi tiêu hộgia đình theo giá so sánh thời kì 2003-2004 đạt 328000 đồng, tăng bình quân 12,1%/năm.Nhưvậysựpháttriểncủanềnkinhtếđãcóảnhhưởngtrựctiếptích cực đếnđời sốngcủangườidân.Đời sốngcủangườidântừngbước đựơc cảithiện và nâng cao rõ rệt. Cũngnhư nhữngnhucầutựnhiênnhưăn,mặc,ởthìmộtnhucầukháccũng không thểthiếuđượcđối vớiconngườitrongcuộc sốnghiệnnay đólàphươngtiệnđilại haycòngọilàphương tiệngiaothông.Và để đápứng đựơcnhucầuđócủangười dânthìhàngloạtcácphương tiệngiaothông đã đựơcnghiêncứu, sản xuấtvà đưa sử dụng ô tô, xe máy... Nếu như ở Việt Nam khoảng một hai thập niên trước đây, xe máy mang tính thiểu số, được vị nể với tư cách là một sản phẩm tân kỳ, một tài sản lớn hơn là một phương tiện giao thông thì trong những năm gần đây, chiếc xe máy đã trở nên phổ biến hơn va 2 hấu như đã trở thành phương tiện giao thông chính của đại đa số người Hiện nay, có những hộ gia đình có 1, 2 thậm chí có đến 3, 4 chiếc xe máy trong nhà. Trong cơ cấu tham gia giao thông đô thị ở Việt Nam, các số liệu cho biết: xe máy chiếm vị trí đầu bảng với tỉ lệ khoảng 61% tổng các phương tiện giao thông. Chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh đã có hơn 2 triệu xe máy, ở Hà Nội thì con số này khoảng hơn 1 triệu xe, còn không kể đến một số lượng xe không nhỏ ở các vùng khác. Ngoài ra, đối với thu nhập bình quân của người Việt Nam hiện nay, xe máy là sự lựa chọn phù hợp nhất – nó có giá cả tương đối phù hợp (nhiều xe máy của Trung Quốc còn có giá rẻ). Nhận biết được nhu cầu khổng lồ về xe máy như vậy nên trong thời gian qua đã có nhiều nhà cung cấp trên thị trường xe máy Việt Nam. Các hãng xe máy nổi tiếng trên thế giới như: Honda, SYM, Suzuki, Yamaha… đã tiến hành liên doanh với Việt Nam để sản xuất và cung cấp cho người tiêu dùng Việt Nam. Thêm vào đó, trong 5 năm trở lại đây, thị trường xe máy đã đa dạng nay còn đa dạng hơn bởi những chiếc xe máy Trung Quốc được nhập khẩu cũng như được sản xuất ồ ạt tại Việt Nam. Sản phẩm xe máy Trung Quốc với ưu thế là giá rẻ, chủng loại phong phú đã thực sự phù hợp với người tiêu dùng Việt Nam có nhu cầu sử dụng xe máy song thu nhập thấp hoặc những người dân có nhu cầu đổi mới kiểu dáng xe nhưng không có đủ tiền… Qua phân tích trên ta thấy nhu cầu sử dụng xe máy trên thị trường Việt Nam là rất lớn. Trước thực trạng đó, có rất nhiều cơ hội cũng như thách thức để có thể tiếp tục tạo dựng và duy trì lòng tin của người tiêu dùng Việt Nam đối với các hãng sản xuất xe máy về những sản phẩm mà công ty đã và đang tiến hành sản xuất - lắp ráp. Các nhà cung cấp xe máy ở Việt Nam Trong nềnkinhtếthịtrường,cạnhtranhlàmộtvấn đềkhôngthểtránhkhỏi đốivới bấtkỳmộtdoanhnghiệpnào.Chodùdoanhnghiệpđóđangtiếnhànhkinhdoanh ở bấtkỳmộtlĩnh vựcnàothìvấnđềcạnhtranhluônsonghànhvới sựtồntạivàphát triểncủadoanhnghiệpđó.Đối vớithịtrườngxemáyViệt Nam cũng vậy.Trong những năm gần đây,trênthịtrườngxemáyViệtNamcórấtnhiều nhàcungcấp.Họ có những điểm mạnh của riêng mình và đang từng bướckhắc họa, khẳng định uy tín của mình trên thị trường xe máy Việt Nam. Tiêu biểuđó là sự ra đời của các công ty liêndoanhxemáy.Sản phẩmcủa cáccôngtyliêndoanhnàyrất đa dạngvàphong phú như: Honda Việt Nam:  CôngtyHondaViệtNamlàliêndoanhgiữacôngtyHondaMotorNhậtBản,công tyAsianHondaMotorTháiLanvàTổngcôngtymáyđộnglựcvàmáynông nghiệpViệtNam,đượcthànhlậptheogiấyphépđầutưsố1521/GPcấpngày22 tháng 3 năm 1996. Từ đó đến nay Honda Việt Nam luôn được người tiêu dùng Việt Nam biết đến với uy tín và chất lượng của một tập đoàn sản xuất xe máy lớn nhất trên thế giới…Sản phẩm ban đầu là những chiếc xe Honda Cub 50, Cub 70, Super Cub,…đã thực sự chinh phục được lòng tin của người tiêu dùng Việt Nam bằng chính chất lượng và  sự tiện dụng của những sản phẩm đó. Xe máy của tập đoànHonda luôn mang đến cho người tiêu dùng Việt Nam cảm giác an toàn, sự tin tưởng vào chất lượng và độ bền củaxe.Sự lớnmạnhvà uy tín của hãng xe này đã đang chiếm lĩnh thị trường Việt Nam trong nhiều năm qua. Số liệu trên dựa trên báo cáo năm 2012 của Honda   Honda Việt Nam cung cấp cho thị trường các sản phẩm chính sau:  -  Nhãn hiệu xe Super Dream.  -  Nhãn hiệu xe Future gồm: Future NEO và Future II  -  Nhãn hiệu xe Wave gồm: Wave α, Wave ZX, Wave RS  -  Nhãn hiệu xe tay ga Spacy, @, SH, Dylan…  Với một đội ngũ công nhân lao động có tay nghề, đội ngũ kỹ sư của Honda Việt  Nam được đào tạo tại nước ngoài (tại Honda Thái Lan, Honda Nhật Bản) thật sự là  cơ sở để Honda Việt Nam bảo đảm chất lượng của từng sản phẩm sản xuất ra. Sau  10 năm hoạt động, Honda Việt Nam đã đầu tư gần 194 triệu USD cho sản xuất kinh  doanh với các sản phẩm được người sử dụng tin dùng như Super Dream, Future, Wave α, Future II và Wave ZX, Wave RS. Cho đến nay, Honda Việt Nam đã có hơn 2,5 triệu sản phẩm được khách hàng trong nước sử dụng. Bên cạnh đó,Honda Việt Nam còn xuất khẩu hơn 163.000 xe máy cùng với động cơ và phụ tùng xe máy, đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 96 triệu USD, trở thành doanh nghiệp đầu tiên trong nước xuất khẩu xe máy, phụ tùng.  Yamaha Motor Việt Nam   Công ty Yamaha Motor Việt Nam là doanh nghiệp liên doanh giữa công ty YamahaMotor Nhật Bản, Tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam và công ty công nghiệp Hong Leong Industries Berhad Malaysia, trong đó vồn pháp định là 24.20.0000 USD. Công ty đượcthành lập ngày 01 tháng 4 năm 1999, giấy phép đầu tư số 2029/GP. Tuy là kẻ đến sau nhưng Yamaha đã chiếm được vị trí tương đối vững chắc trong thị  trường xe máy Việt Nam. Sản phẩm của hãng được nhiều người ưa thích đặc biệtthích - đặc biệt là giới trẻ. Yamaha tung ra thị trường với nhiều loại xe từ xe số, xe  phanh đĩa, xe ga với kiểu dáng màu sắc rất trẻ trung và đa dạng. Các kiểu xe ga của  Yamaha  như  Mio Amore, Mio Maximo, Mio Classical đều có thiết kể nhỏ  gọn,  sang trọng, giá cả vừa phải, dao động từ 16 – 18 triệu đồng, nó rất phù hợp với phụ  nữ Việt Nam, đặc biệt là đối với các bạn nữ. Với những chiếc xe ga này các bạn gái  vừa có thể thể hiện cá tính, sự năng động của mình nhưng lại vừa mang đến nét dịu  dàng, nhẹ nhàng, quyến rũ vốn có của nữ giới. Vì thế ngay từ khi ra đời nó đã được  sự  ủng  hộ  đông  đảo  của  khá  nhiều  nữ  giới.  Bên  cạnh  xe  ga  dành  cho  nữ  giới,  Yamaha cũng khá thành công cho việc thiết kế xe ga dành cho nam giới – đó chính  là Nouvo. Xe được thiết kế với phần đầu và thân xe thể hiện sự mạnh mẽ của nam  giới, nhẹ nhàng lướt ga nhưng vẫn thể hiện sự dũng mãnh của mình. Ngoài ra thì  Yamaha  cũng  cung  cấp  trên  thị  trường  các  xe  thuộc  dòng  xe  số  như  Jupiter  V,  Jupiter  MX,  Sirius  V,….  Các  loại  xe  này  hiện  đang  rất  được  ưa  chuộng  trên  thị  trường - đặc biệt là giới trẻ.   Chủng loại của các hãng này rất phong phú và đa dạng, rất hợp thời trang.Yamaha Motor Việt Nam còn có chiến lược quảng cáo, tiếp thị rộng rãi, có hình thức “mua trả góp” vớilãi suất hợp lý nhằm thu hút khách hàng. Những sản phẩm của các hãng này thường được giới trẻ ưa chuộng bởi sự thời trang về màu sắc cũng như kiểu dáng của nó. Tập đoànYamaha Nhật Bản đã thành lập một trung tâm tạiBăng Cốc (Thái Lan) với chức năngnghiên cứu phát triển các loại xe máy để bán trên thị trường Châu Á và Việt Nam. Như vậy, sau một thời gian hoạt động Yamaha Motor Việt Nam đã tìm thấy thế  mạnh của mình và đang từng bước khẳng định sức mạnh đó trên thị trường xe máy  Việt Nam.  SYM  Công ty công nghiệp San Yang thuộc tập đoàn Chinfon được thành lập năm 1954 tại Đài Loan, khởi đầu bằng việc sản xuất đinamô cho xe đạp. Năm 1962, San Yang bắt đầu sản xuất xe máy. Trong 50 năm qua, San Yang đã sản xuất và tiêu thụ hơn 6.000.000 xe máy, luôn là doanh nghiệp hàng đầu về sản xuất và tiêu thụ xe máy ở Đài Loan.  Từ năm 1996, công ty San Yang Motor Taiwan thuộc Tập đoàn Chinfon đã quyết  định đột phá bằng chiến dịch toàn cầu với thương hiệu SYM. Hiện nay sản phẩm  của SYM đã có mặt tại rất nhiều nước trên thế giới.   Sản phẩm mang thương hiệu SYM có hai dòng chính: xe Cub (xe số bình thường)  và xe Scooter (xe tay ga)  Dòng xe Cub có các nhãn hiệu xe sau:  -  Nhãn hiệu xe Angel  -  Nhãn hiệu xe Magic  -  Nhãn hiệu xe Star  -  Nhãn hiệu xe Amigo  -  Nhãn hiệu xe Bonus  -  Nhãn hiệu xe Husky     Dòng xe Scooter bao gồm:  -  Nhãn hiệu xe Attila  -  Nhãn hiệu xe Excel  -  Nhãn hiệu xe HD   -  Nhãn hiệu xe GTS     Doanh số bán của SYM miền Bắc trong một vài năm gần đây:  -  Năm 2000 bán được 46.866 xe  -  Năm 2002 bán được 75.871 xe  -  Năm 2002 bán được 142.849 xe  -  Năm 2003 bán được 150.523 xe  -  Năm 2004 bán được 139.134 xe  -    Năm 2005 bán được 52.433 xe  Với chất lượng và uy tín cũng như sự tìm tòi, cải tiến không ngừng với những sản  phẩm mẫu mã đẹp, chất lượng cao, SYM ở Việt Nam đã và đang trở thành một  trong những nhãn hiệu được người tiêu dùng Việt Nam ưa chuộng và tin tưởng.  Việt Nam Suzuki  Suzuki là một hãng xe lớn của Nhật Bản. Công ty Việt Nam Suzuki thành lập vào  ngày 21 tháng 4 năm 1995 với lượng vốn pháp định là 11.700.000 USD, tổng số vốn đầutư là 34.200.000 USD. Năm 1996 công ty Việt Nam Suzuki đi vào hoạt động. Tháng 9/1996: Việt Nam Suzuki đã sản xuất xe GN125, loại xe Suzuki đầu tiên tại Việt Nam.Tháng  10/1996: công ty đã cho ra đời Viva CD, mẫu xe Viva đầu tiên ra mắt tại Việt Nam,  xây dựng nên một hình ảnh thời trang cho xe máy.  Ngoài việc cải tiến những sản phẩm hiện có, Việt Nam Suzuki còn đưa ra thị trường  các kiểu xe mới như Shogun R125 (giá 23,5 VND/xe), Viva 110 thường và phanh  đĩa, Smash 110 (giá:15,7 VND/xe)… Ngoài ra hãng còn sản xuất một số loại xe  khác, tuy nhiên các loại xe này không được ưa chuộng lắm trên thị trường ASEAN ,  bao gồm:  - Xe thể thao(Super Sport): nổi bật với kiểu xe GSX hay Hayabusa đều hỗ trợ tối đa khả năng tăng tốc, ngoặt góc hoặc phanh - thắng trong một kiểu dáng oai vệthể hiện phong cách mạnh mẽ của người lái.  - Xe chạy đường trường (Street): đáng chú ý có kiểu xe V-Strom thể hiện sự tự  do  thật  sự  và  một  tinh  thần  can  đảm  khi  vượt  những  con  đường  dài  hay  ngoằn  nghèo nhưng với một cảm giác thoải mái và phấn khích.  - Xe tay ga (Scooter): nổi trội trong dòng xe này có kiểu xe Burgman. Đây là  sự kết hợp tuyệt vời trong thiết kế giữa ý tưởng về xe tay ga và xe máy kích thước  lớn nhằm gia tăng tính thực tiễn đồng thời tạo được sự thoải mái tối đa cho người sử  dụng. Đến nay, Burgman được xem như một chuNn mực trong dòng xe tay ga.  - Xe Off-road: trong dòng xe này Suzuki có DR-Z. Kiểu xe này được trang bị  động cơ mạnh mẽ và bền bỉ, thích hợp hoạt động trên nhiều loại địa hình. Xe DR-Z  được thiết kế thích hợp cho cả người lớn lẫn thanh niên.  - Xe vượt  chướng ngại  vật (Motocross): RM, loại xe  đua  được  thiết  kế giúp  giữ thăng bằng tốt khi vượt chướng ngại vật. RM đã lập nên chiến thắng cùng với  các tay đua vô địch trên các đương đua trên khắp thế giới.  - Xevượt mọi địa hình (ATVs): một số kiểu xe do  suzuki sản xuấtbao gồm  Vinson, Ozark, Eiger, QuadSport. Tất cả được thiết kế với những tính năng nổi trội  nhằn mang lại sự thoải mái thực sự, cho phép người sử dụng đi đến bất cứ nơi đâu  trong mọi điều kiện.  Sản lượng mỗi năm của Việt Nam Suzuki là 4.000 chiếc ô tô, 60.000 chiếc xe máy.  Sản lượng xe máy của Việt Nam Suzuki từ năm 1996 đến năm 2002 như sau:  - Năm 1996: 2.040 chiếc - Năm 1997: 12.253 chiếc  - Năm 1998: 25.015 chiếc  - Năm 1999: 21.775 chiếc  - Năm 2000: 23.964 chiếc  - Năm 2001: 28.241 chiếc  - Năm 2002: 42.797 chiếc  Với thương hiệu xe máy Suzuki “Ride the winds of change”, Suzuki chấp nhận thách  thức trong việc cải tiến công nghệ nhằm đem lại những sản phẩm xe máy tinh tế  đem lại cảm xúc hoàn toàn mới cho người sử dụng, họ đã “thổi luồng gió mới cho  cuộc sống” và đã được người tiêu dùng Việt Nam chấp nhận. Suzuki với hệ thống  đại lý có mặt rộng khắp cả nướcnhằm phục vụ khách hàng một cách chu đáo và thuận tiện. Hệ thốngnày là sự kết hợp hiệu quả của các cửa hàng Suzuki 3S đảm nhiệm tất cả các dịch vụ liên quan, đó là bán hàng (sales), dịch vụ hậu mãi (after sales services) vàcung cấp phụ tùng Suzuki chính hiệu (Spare parts). Tất cả, từ cấu trúc tổng thể cho đến  từng chi tiết, vật dụng nhỏ, kết hợp tạo nên một hình ảnh nhất quán, hài hoà, đầy  sáng tạo cho tất cả các cửa hàng Suzuki trên toàn quốc. Các chiến dịch hậu mãi với  tên gọi “Suzuki chăm sóc khách hàng” được tổ chức hàng năm hỗ trợ những dịch vụ  hậu mãi cộng thêm thể hiện sự quan tâm khách hàng ngay cả sau khi đã bán. Dịch  vụ cũng như các điều lệ bảo hành của Suzuki được hướng dẫn cho khách hàng ngay  sau khi bán.  Chính nhờ sự nỗ lực không ngừng nên thị trường tiêu thụ của Việt Nam Suzuki ngày càg được mở rộng trên thị trường xe máy Việt Nam. Ngoàinhững hãng xe nổi tiếng như trêncòncócác hãngcung cấp xemáy khác. Theo đánh giá của các chuyên gia, hiện nay giá bán xe máy của các doanh nghiệp  có vốn đầu tư nước ngòai vẫn cao hơn rất nhiều so với giá của các loại xe được sản  xuất tại các nước ASEAN, Đài Loan… Đặc biệt trong điều kiện mức thu nhập bình  quân đầu người của Việt Nam còn thấp thì giá bán xe máy hiện nay của các doanh  nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được các chuyên gia đánh giá là: “Cao bất hợp  lý”.  Theo số liệu báo Đầu tư, cơ quan của Bộ kế hoạch và đầu tư ra ngày 13/02/2001 tathấy: đầu tháng 2/2001, tập đoàn công nghiệp Lifan (Trung Quốc) đã chính thức đưa vào thị trường Việt Nam những loại xe máy mới: xe LF 110 – 9Avới động cơ110cc BestStyle - LF 1p53FMH (982), hệ thống đánh lửa DL – CDI(khởiđộngđiệntử mộtchiều), đánh lửa nhanh, ổn định, dễ khởi động, bánh cam biến tốc lắp thêm vòng bi, chuyển đổi nhẹ, linh hoạt,… đã cho thấy những ông chủ các tập đoàn sản xuất xe máy Trung Quốcđã khai thác triệt để thị trường Việt Nam.  Nắm bắt được nhu cầu về xe máy tại Việt Nam là rất cao, trong những năm gần đây,  những ông chủ tập đoàn sản xuất xe máy lớn tại Trung Quốc như: tập đoàn Lifan,  Zongshen, Hongda, Fushi,… bằng “chiến thuật” theo mẫu của các động cơ có sẵn  trên thị trường đã sản xuất hàng loạt sản phNm xe máy với giá bán thấp kỷ lục để  xuất sang thị trường Đông Nam Á, Châu Phi... trong đó có Việt Nam. Ý đồ này đã  thực sự rất thành công trên thị trường Việt Nam vì một phần lớn người dân lao động  Việt Nam có nhu cầu mua xe máy song lại có thu nhập thấp, hoặc những người có  nhu cầu đổi xe máy mới song lại không có đủ tiền,…  Với sự xuất hiện của các sản phẩm xe máy Trung Quốc, thị trường xe máy Việt Nam đã thực sự sôi động lên rất nhiều. Những sản phẩm xe máyTrung Quốc được  nhập khẩu vào Việt Nam hàng loạt với giá bán rất thấp, tuỳ thuộc vào từng chủng  loại, động cơ mà giá bán chỉ dao động từ 7-10 triệu đồng. Người Việt Nam đã có  thể thoả mãn nhu cầu của mình với những sản phẩm đa dạng, phong phú mà giá bán  chỉ bằng 1/3 đến 1/2 giá bán của một số hãng sản xuất nổi tiếng như: Honda,  Suzuki, Yamaha…  Gián tiếp đưa sản phẩm xe máy Trung Quốc vào thị trường Việt Nam đó là những  doanh nghiệp lắp ráp dây chuyền dạng IKD. Doanh nghiệp lắp ráp trên thị trường  Việt Nam tồn tại lên tới hàng trăm doanh nghiệp lớn, nhỏ của Việt Nam cũng có mà  liên doanh với nước ngoài cũng có. Qua đó, ta thấy sản lượng xe máy Trung Quốc  đưa vào thị trường Việt Nam cũng ngày càng tăng lên. Hoạt động của các doanh nghiệp này chủ yếu là nhập linh kiện, chi tiêt, phụ tùng của các hãng sản xuất tại Trung Quốc rồi đem về lắp ráp, hoàn thiện để tung ra thị trường. Giá đầu vào của  một bộ linh kiện dao động từ 300-350 USD/bộ linh kiện, trong đó giá bán dao động  khoảng từ 8-10 triệu đồng đã thu hút rất nhiều các doanh nghiệp lắp ráp này đi vào  hoạt động. Tình hình cạnh tranh trên thị trường xe máy Việt Nam diễn ra khá gay  gắt và quyết liệt. Các hãng xe nổi tiếng phải cạnh tranh với nhau và cạnh tranh với  xe máy Trung Quốc. Không những “nhái lại” kiểu dáng mà những người sản xuất  xe máy Trung Quốc còn nhái lại “nhãn hiệu” hoặc nếu có khác thì chỉ khác ở một số  bộ phận, chi tiết mà rất khó có thể nhận ra. Những người không sành về xe máy sẽ  rất khó phân biệt đâu là xe chính hãng, đâu là xe Trung Quốc. Cuộc cạnh tranh cũng  diễn ra gay gắt đối với các doanh nghiệp lắp ráp - sản xuất xe máy có vốn đầu tư  nước ngoài tại Việt Nam.  CHƯƠNG II: CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG MARKETING VĨ MÔ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỊ TRƯỜNG XE MÁY VIỆT NAM Môi trường kinh tế Việt Nam ảnh hưởng đến thị trường xe máy Tổng thu nhập bình quân đầu người (GDP): Với tốc độ tăng GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái bình quân đạt 14%/năm, quy mô GDP bình quân đầu người của Việt Nam từ năm 2008 đã vượt qua mốc 1.000 USD. GDP bình quân đầu người tăng lên, nên tổng quy mô GDP của cả nước tính bằng USD theo tỷ