Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay gọi là quy luật mâu
thuẫn) là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và biện chứng
duy vật lịch sử khẳng định rằng: mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên đều tồn tại
và mâu thuẫn bên trong. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật của giới tự
nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện
đến khi sự vật kết thúc.Trong mỗi một sự vật có rất nhiều mâu thuẫn và sự vật trong
cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập.Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại
được hình thành
Trong sự nghiệp đổi mới của nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đạt
được những thành tưụ bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển
nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có
sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, nền kinh tế đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn,
bởi bên cạnh những ưu điểm, kinh tế thị trường luôn chứa đựng những mặt tiêu cực
mang tính nội tại kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Giải quyết được
những mâu thuẫn ấy chính là tạo động lực cho sự phát triển kinh tế một cách vững
chắc và ổn định theo đúng những định hướng đã đặt ra.Vì vậy, trong phạm vi của
một bài tiểu luận, em chọn đề tài: ”Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu
tranh c ủa các mặt đối lập và vận dụng quy luật đó vào trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.
44 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 19653 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và vận dụng quy luật đó vào trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phân tích nội dung quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập và vận dụng
quy luật đó vào trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Phần mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay gọi là quy luật mâu
thuẫn) là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và biện chứng
duy vật lịch sử khẳng định rằng: mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên đều tồn tại
và mâu thuẫn bên trong. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật của giới tự
nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện
đến khi sự vật kết thúc.Trong mỗi một sự vật có rất nhiều mâu thuẫn và sự vật trong
cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập.Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại
được hình thành…
Trong sự nghiệp đổi mới của nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đạt
được những thành tưụ bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển
nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có
sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, nền kinh tế đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn,
bởi bên cạnh những ưu điểm, kinh tế thị trường luôn chứa đựng những mặt tiêu cực
mang tính nội tại kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Giải quyết được
những mâu thuẫn ấy chính là tạo động lực cho sự phát triển kinh tế một cách vững
chắc và ổn định theo đúng những định hướng đã đặt ra.Vì vậy, trong phạm vi của
một bài tiểu luận, em chọn đề tài: ”Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập và vận dụng quy luật đó vào trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài : Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn quá độ,
chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường
(KTTT). Một trong những luận điểm rất quan trọng phản ánh tư duy mới của đảng ta
thể hiện trong văn kiện Đại hội Đảng lần VI là: Chính sách cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần. Đảng ta từng bước khẳng định chủ trương xây dựng ở nước ta một nền
KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).Trãi qua thực tiễn đổi mới, chính
sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận hành theo theo cơ chế thị trưòng có sự
quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN đã đưa lại hiệu quả to lớn vaò thành
công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Tuy nhiên, nền KTTT định hướng
XHCN là một nền kinh tế quá độ với điểm xuất phát và bản chất của chế độ cũ nên
nó không tránh khỏi những mâu thuẫn quá độ của nó. Khi đó tình hình nghiên cứu đề
tài giải quyết những mâu thuẫn chứa đựng những mặt tiêu cực mang tính nội tại và
kìm hãm, gây trở ngại cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, và đòi hỏi phải
giải quyết vấn đề ấy.
3.Mục đích, nhiệm vụ, giới hạn của đề tài:
Mục đích của đề tài: Nắm vững quy luật này là cơ sở để hiểu biết tất cả các
phạm trù và quy luật khác của phép biện chứng duy vật. Nghiên cứu quy luật này
giúp mọi người hình thành phương pháp, hình thành tư duy khoa học, biết khám phá
bản chất của các sự vật và giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh thúc đẩy sự vật phát
triển.
Nhiệm vụ của đề tài: Làm rõ được nội dung quy luật mâu thuẫn, thông qua đó
làm rõ hơn một số mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam và một số giải pháp của nền KTTT.
Giới hạn của đề tài: Phạm vi của đề tài là rất rộng, do thời gian có hạn nên
trong tiểu luận này chỉ xem xét đánh giá một vài mâu thuẫn tiêu biểu:
-Mâu thuẫn giữa đổi mới nền kinh tế và ổn định chính trị.
-Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
-Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trong thời kì quá độ sang kinh tế
thị trường ở Việt Nam.
-Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa.
4.Cái mới của đề tài: Từ đề tài, có được cái nhìn đúng đắn hơn về nền kinh tế Việt
Nam trong thời kì đổi mới và hoàn thiện vốn kiến thức của mình.
5.Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu: Lí luận dựa trên nghiên cứu của Chủ
nghĩa C.Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
6.ý nghĩa của đề tài: Nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập cho biết nguyên nhân hay nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển,
nó có tác dụng nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp
đúng cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự
vật.
7.Kết cấu của tiểu luận:
Phần mở đầu
Phần nội dung: 2 chương, 5tiết
Phần kết luận
Nội dung
Chương I: Lý luận chung về mâu thuẫn
Ngay từ thời cổ đại đã có những phỏng đoán thiên tài về sự tác động qua lại
của các mặt đối lập và xem xét sự tác động đó là cơ sở vận động của thế giới. Nhiều
đại biểu triết học cổ đại Phương Đông đã xem vận động do sự hình thành những đối
lập và các đối lập ấy luôn luôn vận động. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Hêracơlit-
người được Lênin coi là ông tổ của phép biện chứng cho rằng trong sự vận động biện
chứng vĩnh viễn của mình, các sự vật đều có xu hướng chuyển sang các mặt đối
lập… Tư tưởng biện chứng về những đối lập đạt được đỉnh cao nhất trong sự phát
triển của phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức,tiêu biểu là I.Cantơ và
G.V.Hêghen.
Các antinômi của Cantơ xuất hiện trên cơ sở vượt quá trình độ nhận thức có
tính chất kinh nghiệm khi Cantơ xem các mặt đối lập la những đối lập về chất.Song
không giải quyết được vấn đề Các antinômi,Cantơ đã đi tới từ bỏ việc thừa nhận các
mâu thuẫn khách quan.Ông xem sự tồn tại của mâu thuẫn là bằng chứng nói lên tính
bất lực của con người trong việc nhận thức thế giới.
Khi nghiên cứu phép biện chứng trong sự vận động và phát triển của “ý niệm
tuyệt đối “, Hêghen đã kịch liệt phê phán quan điểm siêu hình về sự đồng nhất (quan
điểm này cho rằng đã đồng nhất thì loại trừ mọi sự khác biệt về mâu thuẫn).Theo
ông, đó là sự đồng nhất trừu tượng trống rỗng, không bao hàm một nhân tố chân lí
nào.Ông quan niệm bất kì sự đồng nhất nào cũng bao hàm sự khác biệt và mâu
thuẫn.Ông là người sớm nhận ra vai trò của mâu thuẫn trong quá trình vận động và
phát triển:”Mâu thuẫn là nguồn gốc
của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sự sống, chỉ trong chừng mực một vật
chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung lực
và hoạt động.Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó.Song do bị
chi phối bởi quan niệm duy tâm và lợi ích giai cấp Hêghen đã đẩy việc giải quyết
mâu thuẫn không thể điều hoà được trong “xã hội công dân” vào lĩnh vực tư tưởng
thuần tuý.
Kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu tư tưởng về mâu thuẫn,
bằng việc tổng kết từ thực tế lịch sử loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
đã cho rằng chúng ta phải tìm xung lực vận động và sự phát triển của sự vật trong
chính sự vật đó, trong những mâu thuẫn của bản thân sự vật.Quan điểm lý luận đó
được thể hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập-Quy luật
mâu thuẫn-đây là hạt nhân của phép biện chứng.
1.1-Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến:
Mỗi một sự vật, hiện tượng đang tồn tại đêu là một thể thống nhất được cấu thành
bởi các mặt, các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối
nhau…
Trong phép biện chứng duy vật,khái niệm “mặt đối lập” là phạm trù dùng để chỉ
những mặt có những đặc điểm, những khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau
tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Chính những mặt như vậy
nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.Do
đó cần phải phân biệt rằng không phải bất kì hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu
thuẫn. Bởi vì trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan, không phải chỉ tồn
tại trong đó hai mặt đối lập mà trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật có thể cùng
tồn tại nhiều mặt đối lập, có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một
sự vật nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ phủ định và
chuyển hoá lẫn nhau.Sự chuyển hóa này tạo thành nguồn gốc động lực, đồng thời
quy định các bản chất, khuynh hướng phát triển của sự vật thì hai mặt đối lập như
vậy mới gọi là hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến. Mâu thuẫn mang tính khách
quan vì là cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và tồn tại trong tất cả các lĩnh vực
tự nhiên, xã hội và tư duy nên có tính phổ biến.Chính vì vậy mâu thuẫn rất đa dạng
và phức tạp.Mâu thuẫn trong mỗi sự vật hiện tương và trong các lĩnh vực khác nhau
cũng khác nhau và trong bản thân mỗi sự vật hiện tượng lại bao hàm nhiều mâu
thuẫn. Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm ,vai trò tác động lẫn
nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật .Vì vậy cần phải có phương pháp
phân tích và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể.
1.2-Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu
tranh với nhau:
1.2.1-Sự thống nhất của các mặt đối lập :
Hai mặt đối lập trong sự vật tồn tại trong sư thống nhất của chúng.”Sự thống nhất”
của các mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải chúng đứng bên cạnh nhau mà
là “nương tựa” vào nhau,tạo ra sự phù hợp,cân bằng như liên hệ phụ thuộc, qui định
và ràng buộc lẫn nhau.Mặt đối lập này lấy mặt đối lập làm tiền đề cho sự tồn tại của
chính mình và ngược lại.Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật
thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật.Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối
lập là điều kiện không thể thiêú được cho sư tồn tại của bất kì sự vật hiện tượng
nào.Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng có của bản thấn sự vật tạo nên.
*Ví dụ: Quan hệ lực lưọng sản xuất-quan hệ sản xuất trong phương thức sản
xuất:khi lự lượng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát
triển, hai hình thức này chính là điều kiện tiền đề cho sự phất triển của phương thức
sản xuất.Nhưng quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thoả mãn
một số yêu cầu sau:
-Thứ nhất:Đó phải là một khái niệm chung nhất được khái quát từ các mặt phù
hợp khác nhau phản ánh được bản chất của sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
lượng sản xuất.
-Thứ hai:Đó phải là một khái niệm “động” phản ánh được trạng thái biến đổi
thường xuyên của sự vận động,phát triển trong quan hệ của quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất.
-Thứ ba:Đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn.Ngoài ý nghĩa nhận
thức, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất được coi là thoã đáng phải có tác
dụng định hướng, chỉ dẫn cho việc xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan
hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản xuất.
Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau,”đồng nhất”
với nhau.Với ý nghĩa đó, sự thống nhất của các mặt đối lập còn bao hàm cả sự “đồng
nhất” của các mặt đó.Do đó sự ”đồng nhất” của các mặt đối lập
mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, mặt đối lập này có thể
chuyển hoá sang mặt đối lập kia-khi xét về một vài đặc trưng nào đó.
Ví dụ:Sự phát triển kinh tế trong chủ nghĩa tư bản phục vụ lợi ích giai cấp tư
sản nhưng lại tạo tiền đề cho sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của
chúng.Song đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển,
khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ là tương đối. Bản thân nội dung
khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó: thống nhất của cái đối lập
,trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập.
1.2.2-Sự đấu tranh của các mặt đôí lập:
Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại với
nhau, ”đấu tranh” với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua laị
theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Bởi vì các mặt đối lập
cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không
nằm yên bên nhau điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của
bản thân sự vật.Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt
trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp đối kháng,
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu, kìm hãm
nó diễn ra gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng
nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách căn
bản.
Không thể hiểu đấu tranh của các mặt đối lập chỉ là sự thủ tiêu lẫn nhau giữa
các mặt đó. Sự thủ tiêu chỉ là một trong những hình thức đấu tranh cảu các mặt đối
lập.Tính đa dạng của hình thức đấu tranh giữa các mặt đối lập tuỳ thuộc vào tính chất
của các mặt đối lập cũng như mối quan hệ qua lại giữa chúng, phụ thuộc vào lĩnh
vực tồn tại của các mặt đối lập, phụ thuộc vào điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu
tranh giữa các mặt đối lập .
Với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa hai mặt đối
lập, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau.Sự
thống nhất có quan hệ hữu cơ với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của vật.Sự đấu
tranh của mối quan hệ gắn bó với tính tuỵêt đối của sự vận động và phát triển.Điều
đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh của các
mặt đối lập là tuyệt đối. Lênin viết:”Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn
tại với ý nghĩa nó chính là nó nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta
nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan.Song bản thân
của sự thống nhất chỉ là tính tương đối tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới
là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên và liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự
vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất
của các mặt đối lập là có điều kiện thoáng qua, tạm thời tương đối.Sự đấu tranh của
các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận
động là tuyệt đối”.
Mâu thuẫn biện chứng có quan hệ như thế nào với nguồn gốc của sự vận động
và sự phát triển?
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia ra làm nhiều giai đoạn.Thông
thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt.Tất
nhiên không phải xung khắc bất kì sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn.
Chỉ có những mặt khác nhau tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau,
phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển, thì hai
mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn.Khi hai mặt đối lập của mâu
thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành đối lập. Nếu hội đủ
các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau. Mâu thuẫn được giải quyết,
sự vật mới hơn xuất hiện với trình độ cao hơn… Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt
đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao, chính vì vậy Mác viết:
“Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng chính là sự cùng nhau tồn tại
của hai mặt đối lập, sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập ấy và sự dung hợp của hai mặt
ấy thành một phạm trù mới”. Nhấn mạnh hơn nữa tư tưởng ấy Lênin khẳng định” Sự
phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
1.2.3-Sự chuyển hoá của các mặt đối lập:
Không phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển hoá giữ
chúng.Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định,
hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau.
Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ
mất đi, sự vật mới ra đời, đó chính là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình
thức phong phú khác nhau.
Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán
vị đổi chỗ một cách giản đơn máy móc.Thông thường mâu thuẫn chuyển hoá theo
hai phương thức:
+Phương thức thứ 1: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở
trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật .
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh
chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới cao hơn về trình độ.
+Phương thức thứ 2: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai
mặt đối lập mới hoàn toàn.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại: Từ lý luận về mâu thuẫn cho ta thấy trong thế giới hiện thực bất kì sự vật
hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có
khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đâú tranh và chuyển hoá của các mặt
đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn.Mâu thuẫn là hiện tượng
khách quan phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự
vật mới hình thành, sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới .Các
mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật
mới hơn.Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường
xuyên phát triển và biến đổi
không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi sự phát triển.
******************************
Chương II: Kinh tế thị trường và mâu thuẫn biện chứng trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam
2.1-Khái quát chung về kinh tế thị trường (KTTT):
Trong mô hình cũ của CNXH, sự vận hành của nền kinh tế chủ yếu dựa trên mệnh
lệnh, kế hoạch của Nhà nước và một hệ thống bao cấp từ sản xuất đến tiêu dùng. Cơ
chế kinh tế này, tuy có ưu điểm là tránh được phân cực xã hội, nhưng lại bộc lộ nhiều
nhược diểm cơ bản.Chẳng những quy luật kinh tế khách quan được coi thường, mà
tính tự chủ, năng động, sáng tạo của người lao động cũng không được phát huy một
cách đầy đủ.Sự nghiệp đổi mới được tiến hành hơn 10 năm qua ở nước ta gắn liền
với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trương, nền
kinh tế mà chúng ta đang xây dựng là nền KTTT định hướng XHCN.
Trứơc hết ta tìm hiểu một số khái niệm: Khái niệm kinh tế hàng hoá, thị trường, cơ
chế thị trường.
*Kinh tế hàng hoá: là kiểu tổ chức kinh tễ mà trong đó hình thái phổ biến của sản
xuất là sản xuất ra để bán, để trao đổi trên thị trường.
*Thị trường: trong nền sản xuất, mọi sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đều được mua
bán trên thị trường. Thị trường là một tập hợp tất yếu và hữu cơ của toàn bộ quá trình
sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và triển
của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
-Thị trường gắn liền với địa điểm nhất định, trong đó diễn ra những quá trình trao
đổi, mua bán hàng hoá.
-Sản xuất hàng hoá phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường
ngày càng dồi dào, phong phú, thị trường được mở rộng, khái niệm thị trường được
hiểu đầy đủ hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm vật môi giới.
-Ngày nay các nhà kinh tế học thống nhất với nhau khái niệm về thị trường như
sau: Thị trường là một quá trình mà trong đó người bán và người mua tác động qua
lại với nhau để xác định giá cả và sản lượng.
*Cơ chế thị trường: là cơ chế tự chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới sự tác động khách
quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó,cơ chế đó được giải quyết những vấn đề
cơ bản của nền kinh tế .
Từ đó ta có khái niệm: “Nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do
thị trường quyết đị