Luận văn Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong xã hội hiện đại, các quốc gia, một mặt nỗ lực hướng vào và phát huy mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra bước phát triển bền vững và ngày càng phồn vinh cho đất nước; mặt khác, không ngừng hoàn thiện hệ thống (an sinh xã hội) ASXH, trước hết là bảo hiểm xã hội (BHXH) để giúp cho con người, người lao động có khả năng chống đỡ với các rủi ro xã hội, đặc biệt là rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro xã hội khác. Kinh tế ngày càng phát triển theo hướng thị trường, thì ASXH càng phải đảm bảo tốt hơn. Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động. Chính vì vậy, ngay từ khi thành lập nước, Chính phủ đã ban hành các đạo luật về BHXH. BHXH đã không ngừng phát triển và trong từng thời kỳ nó đã đóng vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo ASXH cho đất nước. Tuy nhiên, trải qua một thời gian dài BHXH cũng chỉ phục vụ đối tượng người lao động thuộc các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước. Đến ngày 1 tháng 1 năm 1995, Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành, tại Điều 140 đã quy định các loại hình BHXH bắt buộc hoặc tự nguyện được áp dụng đối với từng loại đối tượng và từng loại doanh nghiệp để bảo đảm cho người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm thích hợp. Thi hành bộ luật này, ngày 26/01/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP quy định Điều lệ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước và Nghị định 45/CP ngày 15/07/1995 đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng. Năm 2007, dân số cả nước có khoảng 85,2 triệu người, lực lượng lao động có khoảng 46,6 triệu người. Lao động có việc làm trong nền kinh tế quốc dân khoảng 45,6 triệu người, trong đó đối tượng tham gia BHXH bắt buộc (lao động làm công ăn lương hay còn gọi là lao động khu vực chính thức) có khoảng 12,3 triệu người (27% lực lượng lao động) [26]. Còn lại 33,3 triệu lao động (73%) làm việc trong nông nghiệp (nông dân), khu vực phi nông nghiệp trong nông thôn, lao động tự do hành nghề (kể cả lao động nhập cư), lao động trong hộ gia đình sản xuất kinh doanh có thể ở thành thị (lao động khu vực phi chính thức) trong lực lượng lao động chưa tham gia BHXH. Như vậy, BHXH mới chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực chính thức còn BHXH khu vực khu vực phi chính thức phát triển chưa đáng kể cả về quy mô và chất lượng. Đến 2009, dân số cả nước có khoảng 86,1 triệu người, lực lượng lao động có khoảng 49,2 triệu người (57,4%). Lao động có việc làm trong nền kinh tế quốc dân khoảng 47,7 triệu người, trong đó lao động làm công ăn lương (khu vực chính thức) có khoảng 18.2 triệu người (38,2% lực lượng lao động), còn lại 29,5 triệu lao động (61,8%) thuộc khu vực phi chính thức [28]. Sau hai năm thực hiện BHXH tự nguyện theo Luật BHXH số 71, số lượng người tham gia BHXH tự nguyện còn rất hạn chế chỉ chiếm khoảng 0,15% số lao động thuộc khu vực này. Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thì hệ thống ASXH, nhất là BHXH phải được phát triển và hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của người lao động, của nhân dân, là một trong những nhu cầu rất cơ bản của con người. Bảo đảm nhu cầu về ASXH, trước hết là nhu cầu về BHXH, là một trong những mục tiêu rất quan trọng, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng phù hợp với xu thế chung của cộng đồng quốc tế hướng tới một xã hội phồn vinh, công bằng và an toàn. Sự phát triển kinh tế thị trường đã mang lại cho đất nước những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thu nhập bình quân của người lao động ngày càng cao, đời sống kinh tế và xã hội của nhân dân có sự cải thiện rõ rệt. Vấn đề cải thiện và nâng cao mức sống của người lao động luôn là mục tiêu trước mắt, cũng như lâu dài của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh việc ban hành các chính sách nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân". Vì vậy, việc phát triển BHXH tự nguyện đối với người lao động khu vực phi chính thức là hết sức cần thiết. Luật BHXH ra đời có hiệu lực thi hành từ năm 2007. Riêng chế độ BHXH tự nguyện được áp dụng từ năm 2008. Đây là luật đầu tiên ở Việt Nam đó thể chế hóa ở mức cao của một nhu cầu rất cơ bản về ASXH của con người (bao gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp), trong đó BHXH tự nguyện chủ yếu cho đối tượng là người lao động khu vực phi chính thức tức là người lao động làm việc không thuộc phạm vi tham gia BHXH bắt buộc. Như vậy, lần đầu tiên người lao động ở mọi khu vực có quyền tham gia BHXH và được thụ hưởng lợi ích từ BHXH. Việc triển khai BHXH tự nguyện mặc dù còn mới, nhưng do hệ thống BHXH đã phân cấp tổ chức bộ máy hoạt động đến cấp huyện và có đại lý đến cấp xã, phường rất thuận lợi cho người lao động tiếp cận để tham gia. Tuy nhiên, qua hai năm triển khai thực hiện, số lượng người lao động tham gia BHXH tự nguyện ở khu vực phi chính thức còn rất hạn chế (khoảng 41.000 người) chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động khu vực phi chính thức, cũng như định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước. Nguyên nhân số lượng người tham gia BHXH tự nguyện ở nước ta còn ít là do: trình độ học vấn và nhận thức xã hội còn nhiều hạn chế; lao động phần lớn chưa qua đào tạo; việc làm bấp bênh; thu nhập thấp là những vấn đề ảnh hưởng lớn đến việc triển khai thực hiện BHXH tự nguyện cho người lao động thuộc khu vực này. Vấn đề cần đặt ra là làm thế nào để người lao động nhận thức được sự cần thiết tham gia BHXH; Giải pháp nào giải quyết việc tham gia BHXH của người lao động khi thu nhập bấp bênh; Vấn đề thể chế và tổ chức thực hiện, đội ngũ cán bộ quản lý. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài "Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam" làm đề tài luận văn. Luận văn nhằm bổ sung, hoàn thiện và góp phần tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình phát triển BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức ở nước ta hiện nay. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của luận văn Ở nước ta, BHXH đã được hình thành ngay từ những năm đầu thành lập nước, tuy nhiên chỉ áp dụng hình thức BHXH bắt buộc. Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đòi hỏi cần phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống BHXH theo cả hai hình thức bắt buộc và tự nguyện. Chính vì vậy những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này, tuy nhiên tập trung chủ yếu về lĩnh vực BHXH bắt buộc. Đối với BHXH tự nguyện, các công trình nghiên cứu đã đề cập tới phải kể đến là: "Cơ sở lý luận về việc thực hiện các loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Tiến Phú, đề tài cấp Bộ năm 2001, trong đó tác giả mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, làm cơ sở khoa học cho việc thực hiện loại hình BHXH tự nguyện ở Việt Nam, chứ chưa nghiên cứu sâu về nội dụng, hình thức, tổ chức quản lý quá trình phát triển loại hình BHXH tự nguyện; Hai công trình nghiên cứu tiếp theo là: "Nghiên cứu mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đối với người lao động tự tạo việc làm và thu nhập" của tác giả Bùi Văn Hồng, đề tài cấp Bộ năm 2002; "Giải pháp mở rộng đối tượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội khu vực kinh tế tư nhân theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước" của tác giả Kiều Văn Minh, đề tài cấp Bộ năm 2003 tập trung nghiên cứu các giải pháp mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, chưa đề cập đầy đủ mối quan hệ lợi ích giữa người lao động khu vực phi chính thức và chế độ BHXH tự nguyện; Đề tài "Cơ sở khoa học quản lý và tổ chức thu bảo hiểm xã hội tự nguyện" của tác giả Nguyễn Anh Vũ, đề tài cấp Bộ năm 2003, mới chỉ đề cập đến vấn đề thu BHXH tự nguyện; Công trình "Nghiên cứu xây dựng lộ trình tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động" của tác giả Nguyễn Tiến Phú, đề tài cấp Bộ năm 2004, đã tập trung nghiên cứu lộ trình và các bước tiến hành thực hiện BHXH tự nguyện, nhưng nghiên cứu này thực hiện trong bối cảnh chưa có Luật BHXH; Đề tài "Mô hình thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện ở một số nước trên thế giới và những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam" của tác giả Đào Thị Hải Nguyệt, đề tài cấp Bộ năm 2007, tập trung nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài trong việc thực hiện BHXH tự nguyện; Đề tài "Khảo sát về triển vọng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cho khu vực phi chính thức ở Việt Nam: Kiến nghị chính sách", đề tài cấp Bộ năm 2007 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Ngân hàng thế giới, đề tài tập trung nghiên cứu và đưa ra cơ sở để triển khai Luật BHXH về BHXH tự nguyện; Đề tài "Cơ sở khoa học của việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở nước ta giai đoạn 2007-2015", đề tài cấp bộ của tác giả Mai Ngọc Cường - Trường Đại học Kinh tế quốc dân, đề tài này nghiên cứu tổng thể hệ thống ASXH ở nước ta. Từ trước năm 2008 có đề cập đến một số cơ sở để xây dựng chính sách về BHXH tự nguyện. Nhìn chung, các nghiên cứu trên đã góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng và thực hiện BHXH tự nguyện ở nước ta những năm qua, nhưng vẫn mới là những nghiên cứu bước đầu, còn chưa đầy đủ, thiếu hệ thống, đặc biệt chưa cập nhật được những xu hướng phát triển mới của hệ thống BHXH tự nguyện, trong bối cảnh đất nước chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực và điểm cần nhấn mạnh đó là các nghiên cứu trên thực hiện trong điều kiện Luật BHXH, về BHXH tự nguyện chưa được thực thi. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu - Đánh giá thực trạng việc tham gia BHXH và khả năng tham gia BHXH tự nguyện của người lao động khu vực phi chính thức. - Đề xuất các giải pháp phát triển BHXH tự nguyện ở Việt Nam trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Làm rõ thêm cơ sở lý luận về BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức. - Đánh giá kết quả thực hiện và nêu những vấn đề đang đặt ra cho quá trình phát triển BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức ở nước ta. - Dự báo khả năng, định hướng phát triển và giải pháp thực hiện BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức ở nước ta đến 2015. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên các phương pháp sau: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp hệ thống, khái quát, đối chiếu và so sánh, thống kê để phân tích, đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu trên dựa trên các quan điểm, chính sách, định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và ASXH ở nước ta hiện nay. 5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lao động khu vực phi chính thức và tình hình thực hiện BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu Khu vực phi chính thức và BHXH tự nguyện áp dụng đối với lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2015. 6. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa và làm rõ thêm các vấn đề lý luận cơ bản về BHXH tự nguyện; xác định vai trò của BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính thức. - Phân tích, đánh giá kết quả tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam đến cuối năm 2009. - Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam đến năm 2015. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 11 tiết.

doc92 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4476 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong xã hội hiện đại, các quốc gia, một mặt nỗ lực hướng vào và phát huy mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra bước phát triển bền vững và ngày càng phồn vinh cho đất nước; mặt khác, không ngừng hoàn thiện hệ thống (an sinh xã hội) ASXH, trước hết là bảo hiểm xã hội (BHXH) để giúp cho con người, người lao động có khả năng chống đỡ với các rủi ro xã hội, đặc biệt là rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro xã hội khác. Kinh tế ngày càng phát triển theo hướng thị trường, thì ASXH càng phải đảm bảo tốt hơn. Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động. Chính vì vậy, ngay từ khi thành lập nước, Chính phủ đã ban hành các đạo luật về BHXH. BHXH đã không ngừng phát triển và trong từng thời kỳ nó đã đóng vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo ASXH cho đất nước. Tuy nhiên, trải qua một thời gian dài BHXH cũng chỉ phục vụ đối tượng người lao động thuộc các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước. Đến ngày 1 tháng 1 năm 1995, Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành, tại Điều 140 đã quy định các loại hình BHXH bắt buộc hoặc tự nguyện được áp dụng đối với từng loại đối tượng và từng loại doanh nghiệp để bảo đảm cho người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm thích hợp. Thi hành bộ luật này, ngày 26/01/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP quy định Điều lệ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước và Nghị định 45/CP ngày 15/07/1995 đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng. Năm 2007, dân số cả nước có khoảng 85,2 triệu người, lực lượng lao động có khoảng 46,6 triệu người. Lao động có việc làm trong nền kinh tế quốc dân khoảng 45,6 triệu người, trong đó đối tượng tham gia BHXH bắt buộc (lao động làm công ăn lương hay còn gọi là lao động khu vực chính thức) có khoảng 12,3 triệu người (27% lực lượng lao động) [26]. Còn lại 33,3 triệu lao động (73%) làm việc trong nông nghiệp (nông dân), khu vực phi nông nghiệp trong nông thôn, lao động tự do hành nghề (kể cả lao động nhập cư), lao động trong hộ gia đình sản xuất kinh doanh có thể ở thành thị…(lao động khu vực phi chính thức) trong lực lượng lao động chưa tham gia BHXH. Như vậy, BHXH mới chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực chính thức còn BHXH khu vực khu vực phi chính thức phát triển chưa đáng kể cả về quy mô và chất lượng. Đến 2009, dân số cả nước có khoảng 86,1 triệu người, lực lượng lao động có khoảng 49,2 triệu người (57,4%). Lao động có việc làm trong nền kinh tế quốc dân khoảng 47,7 triệu người, trong đó lao động làm công ăn lương (khu vực chính thức) có khoảng 18.2 triệu người (38,2% lực lượng lao động), còn lại 29,5 triệu lao động (61,8%) thuộc khu vực phi chính thức [28]. Sau hai năm thực hiện BHXH tự nguyện theo Luật BHXH số 71, số lượng người tham gia BHXH tự nguyện còn rất hạn chế chỉ chiếm khoảng 0,15% số lao động thuộc khu vực này. Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thì hệ thống ASXH, nhất là BHXH phải được phát triển và hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của người lao động, của nhân dân, là một trong những nhu cầu rất cơ bản của con người. Bảo đảm nhu cầu về ASXH, trước hết là nhu cầu về BHXH, là một trong những mục tiêu rất quan trọng, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng phù hợp với xu thế chung của cộng đồng quốc tế hướng tới một xã hội phồn vinh, công bằng và an toàn. Sự phát triển kinh tế thị trường đã mang lại cho đất nước những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thu nhập bình quân của người lao động ngày càng cao, đời sống kinh tế và xã hội của nhân dân có sự cải thiện rõ rệt. Vấn đề cải thiện và nâng cao mức sống của người lao động luôn là mục tiêu trước mắt, cũng như lâu dài của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh việc ban hành các chính sách nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân". Vì vậy, việc phát triển BHXH tự nguyện đối với người lao động khu vực phi chính thức là hết sức cần thiết. Luật BHXH ra đời có hiệu lực thi hành từ năm 2007. Riêng chế độ BHXH tự nguyện được áp dụng từ năm 2008. Đây là luật đầu tiên ở Việt Nam đó thể chế hóa ở mức cao của một nhu cầu rất cơ bản về ASXH của con người (bao gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp), trong đó BHXH tự nguyện chủ yếu cho đối tượng là người lao động khu vực phi chính thức tức là người lao động làm việc không thuộc phạm vi tham gia BHXH bắt buộc. Như vậy, lần đầu tiên người lao động ở mọi khu vực có quyền tham gia BHXH và được thụ hưởng lợi ích từ BHXH. Việc triển khai BHXH tự nguyện mặc dù còn mới, nhưng do hệ thống BHXH đã phân cấp tổ chức bộ máy hoạt động đến cấp huyện và có đại lý đến cấp xã, phường rất thuận lợi cho người lao động tiếp cận để tham gia. Tuy nhiên, qua hai năm triển khai thực hiện, số lượng người lao động tham gia BHXH tự nguyện ở khu vực phi chính thức còn rất hạn chế (khoảng 41.000 người) chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động khu vực phi chính thức, cũng như định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước. Nguyên nhân số lượng người tham gia BHXH tự nguyện ở nước ta còn ít là do: trình độ học vấn và nhận thức xã hội còn nhiều hạn chế; lao động phần lớn chưa qua đào tạo; việc làm bấp bênh; thu nhập thấp là những vấn đề ảnh hưởng lớn đến việc triển khai thực hiện BHXH tự nguyện cho người lao động thuộc khu vực này. Vấn đề cần đặt ra là làm thế nào để người lao động nhận thức được sự cần thiết tham gia BHXH; Giải pháp nào giải quyết việc tham gia BHXH của người lao động khi thu nhập bấp bênh; Vấn đề thể chế và tổ chức thực hiện, đội ngũ cán bộ quản lý. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài "Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi chính thức ở Việt Nam" làm đề tài luận văn. Luận văn nhằm bổ sung, hoàn thiện và góp phần tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình phát triển BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức ở nước ta hiện nay. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của luận văn Ở nước ta, BHXH đã được hình thành ngay từ những năm đầu thành lập nước, tuy nhiên chỉ áp dụng hình thức BHXH bắt buộc. Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đòi hỏi cần phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống BHXH theo cả hai hình thức bắt buộc và tự nguyện. Chính vì vậy những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này, tuy nhiên tập trung chủ yếu về lĩnh vực BHXH bắt buộc. Đối với BHXH tự nguyện, các công trình nghiên cứu đã đề cập tới phải kể đến là: "Cơ sở lý luận về việc thực hiện các loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Tiến Phú, đề tài cấp Bộ năm 2001, trong đó tác giả mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, làm cơ sở khoa học cho việc thực hiện loại hình BHXH tự nguyện ở Việt Nam, chứ chưa nghiên cứu sâu về nội dụng, hình thức, tổ chức quản lý quá trình phát triển loại hình BHXH tự nguyện; Hai công trình nghiên cứu tiếp theo là: "Nghiên cứu mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đối với người lao động tự tạo việc làm và thu nhập" của tác giả Bùi Văn Hồng, đề tài cấp Bộ năm 2002; "Giải pháp mở rộng đối tượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội khu vực kinh tế tư nhân theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước" của tác giả Kiều Văn Minh, đề tài cấp Bộ năm 2003 tập trung nghiên cứu các giải pháp mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, chưa đề cập đầy đủ mối quan hệ lợi ích giữa người lao động khu vực phi chính thức và chế độ BHXH tự nguyện; Đề tài "Cơ sở khoa học quản lý và tổ chức thu bảo hiểm xã hội tự nguyện" của tác giả Nguyễn Anh Vũ, đề tài cấp Bộ năm 2003, mới chỉ đề cập đến vấn đề thu BHXH tự nguyện; Công trình "Nghiên cứu xây dựng lộ trình tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động" của tác giả Nguyễn Tiến Phú, đề tài cấp Bộ năm 2004, đã tập trung nghiên cứu lộ trình và các bước tiến hành thực hiện BHXH tự nguyện, nhưng nghiên cứu này thực hiện trong bối cảnh chưa có Luật BHXH; Đề tài "Mô hình thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện ở một số nước trên thế giới và những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam" của tác giả Đào Thị Hải Nguyệt, đề tài cấp Bộ năm 2007, tập trung nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài trong việc thực hiện BHXH tự nguyện; Đề tài "Khảo sát về triển vọng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cho khu vực phi chính thức ở Việt Nam: Kiến nghị chính sách", đề tài cấp Bộ năm 2007 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Ngân hàng thế giới, đề tài tập trung nghiên cứu và đưa ra cơ sở để triển khai Luật BHXH về BHXH tự nguyện; Đề tài "Cơ sở khoa học của việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở nước ta giai đoạn 2007-2015", đề tài cấp bộ của tác giả Mai Ngọc Cường - Trường Đại học Kinh tế quốc dân, đề tài này nghiên cứu tổng thể hệ thống ASXH ở nước ta. Từ trước năm 2008 có đề cập đến một số cơ sở để xây dựng chính sách về BHXH tự nguyện. Nhìn chung, các nghiên cứu trên đã góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng và thực hiện BHXH tự nguyện ở nước ta những năm qua, nhưng vẫn mới là những nghiên cứu bước đầu, còn chưa đầy đủ, thiếu hệ thống, đặc biệt chưa cập nhật được những xu hướng phát triển mới của hệ thống BHXH tự nguyện, trong bối cảnh đất nước chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực và điểm cần nhấn mạnh đó là các nghiên cứu trên thực hiện trong điều kiện Luật BHXH, về BHXH tự nguyện chưa được thực thi. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu - Đánh giá thực trạng việc tham gia BHXH và khả năng tham gia BHXH tự nguyện của người lao động khu vực phi chính thức. - Đề xuất các giải pháp phát triển BHXH tự nguyện ở Việt Nam trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Làm rõ thêm cơ sở lý luận về BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức. - Đánh giá kết quả thực hiện và nêu những vấn đề đang đặt ra cho quá trình phát triển BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức ở nước ta. - Dự báo khả năng, định hướng phát triển và giải pháp thực hiện BHXH tự nguyện khu vực phi chính thức ở nước ta đến 2015. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên các phương pháp sau: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp hệ thống, khái quát, đối chiếu và so sánh, thống kê để phân tích, đánh giá và làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu trên dựa trên các quan điểm, chính sách, định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và ASXH ở nước ta hiện nay. 5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lao động khu vực phi chính thức và tình hình thực hiện BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu Khu vực phi chính thức và BHXH tự nguyện áp dụng đối với lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam giai đoạn 2007 đến 2015. 6. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa và làm rõ thêm các vấn đề lý luận cơ bản về BHXH tự nguyện; xác định vai trò của BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính thức. - Phân tích, đánh giá kết quả tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam đến cuối năm 2009. - Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển BHXH tự nguyện đối với lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam đến năm 2015. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 11 tiết. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI CHÍNH THỨC 1.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG KHU VỰC PHI CHÍNH THỨC Ở VIỆT NAM 1.1.1. Khu vực phi chính thức và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 1.1.1.1. Khái niệm Trên thế giới, có nhiều khái niệm về khu vực phi chính thức, nhưng theo ý nghĩa trong lĩnh vực nghiên cứu của đề tài này thì khu vực kinh tế phi chính thức được hiểu theo một cách đơn giản nhất là các đơn vị sản xuất, kinh doanh cá thể không có giấy phép kinh doanh, hoặc có đăng ký kinh doanh nhưng không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp. Còn khái niệm khu vực phi chính thức được thông qua tại Hội nghị Quốc tế các nhà Thống kê lao động (ICLS) lần thứ 15 như sau: Khu vực phi chính thức mang những nét đặc trưng chủ yếu của những đơn vị tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ với mục tiêu ban đầu là tạo ra việc làm và thu nhập cho những người có liên quan. Những đơn vị này thường được tổ chức hoạt động ở mức thấp, sản xuất kinh doanh ở quy mô nhỏ, với không hoặc rất ít sự phân chia giữa lao động và vốn là các yếu tố đầu vào của sản xuất. Các mối liên hệ việc làm - nếu có - chủ yếu dựa trên sự tình cờ, quan hệ họ hàng hoặc quan hệ cá nhân, sự quen biết hơn là dựa trên các thỏa thuận hợp đồng với sự bảo đảm chính thức. Như vậy chúng ta có thể hiểu khu vực phi chính thức là khu vực tự làm, lao động tự do hành nghề và lao động làm thuê nhưng chưa được điều chỉnh của Bộ luật lao động. 1.1.1.2. Vị trí, vai trò của khu vực phi chính thức Ở nhiều nước đang phát triển trên thế giới, khu vực kinh tế phi chính thức giúp 60% lao động tìm được cơ hội việc làm. Ở Việt Nam, những nghiên cứu mới đây của Tổng cục Thống kê thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chỉ ra rằng khu vực kinh tế chính thức chiếm khoảng gần 30% việc làm. Số còn lại làm việc trong khu vực phi chính thức. Lao động khu vực phi chính thức chiếm tỷ lệ lớn, bao gồm lao động làm việc trong nông nghiệp, nông thôn, lao động tự do, lao động trong kinh tế hộ gia đình, sản xuất kinh doanh cá thể…, chiếm trên 60% lực lượng lao động của các nước; góp phần quan trọng vào an ninh lương thực quốc gia, sản xuất các sản phẩm hàng hóa phục vụ dân sinh và cho xuất khẩu, tạo nhiều việc làm cho người lao động, đóng góp khoảng 20% vào GDP của quốc gia. Có thể nói khu vực kinh tế phi chính thức là một trong những khu vực kinh tế năng động, nó không chỉ góp phần tạo ra sản phẩm, việc làm cho người lao động, mà còn góp phần quan trọng trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường. Rất nhiều doanh nghiệp phát đạt của Việt Nam ngày nay có khởi nguồn từ khu vực kinh tế phi chính thức. Khu vực này tuy không tạo nên những đột biến về kinh tế, nhưng đó để lại những dấu ấn quan trọng trong quá trình chuyển đổi và phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Đây là khu vực kinh tế mở ra sớm nhất, mạnh nhất và với tốc độ nhanh nhất khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới giữa thập niên 80 của thế kỷ trước. Đây cũng là khu vực kinh tế đóng vai trò quan trọng đưa nền kinh tế Việt Nam vượt qua thời kỳ khó khăn đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Khu vực này còn thu hút nhiều lao động bị dôi dư, khi các doanh nghiệp Nhà nước tổ chức sắp xếp lại, đồng thời đó lấp được khoảng trống thiếu hụt về việc làm và thu nhập đối với một bộ phận lớn lao động khi nền kinh tế chuyển đổi. Với đặc thù là quy mô nhỏ, hoạt động linh hoạt, đòi hỏi ít vốn và các nguồn lực khác nên khu vực kinh tế phi chính thức đã đóng vai trò quan trọng trong những nỗ lực xóa đói, giảm nghèo ở nước ta. Đặc biệt, gần đây nhất, khi nền kinh tế Việt Nam chịu tác động chung của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính của thế giới, thì khu vực kinh tế phi chính thức đó chứng tỏ sự năng động của mình, thu hút hàng vạn lao động bị mất việc làm từ khu vực chính thức và nhờ vậy mà đó không tạo nên cú sốc về việc làm và thu nhập đối với xã hội. Nhận thức được vai trò quan trọng của khu vực kinh tế phi chính thức trong việc tạo việc làm, thu nhập và giảm nghèo nên trong những năm qua, Việt Nam đó không ngừng bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách hỗ trợ khu vực kinh tế phi chính thức cũng như bảo vệ quyền lợi cho lực lượng lao động làm việc tại khu vực này. Với tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực kinh tế chính thức còn thấp như hiện nay thì trong những năm tới, khu vực kinh tế phi chính thức sẽ tiếp tục là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Bởi vậy, Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách tập trung vào những nội dung: ASXH, học nghề, an toàn vệ sinh lao động, tiếp cận thị trường,.. cho lao động làm việc ở khu vực kinh tế phi chính thức. 1.1.2. Khái niệm, bản chất bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.1.2.1 Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện Bảo hiểm xã hội có lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu và sự tồn tại của nó là tất yếu, có nhiều khái niệm về BHXH do có nhiều cách tiếp cận BHXH khác nhau. Nhưng khái niệm được hiểu một cách chính xác nhất theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và sự bảo trợ của Nhà nước, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và cho gia đình họ, gúp phần bảo đảm an toàn xã hội. Với tác dụng to lớn trong việc giảm gánh nặng ngân sách, cải thiện đời sống cho đối tượng, bảo đảm ASXH bền vững, BHXH phát triển rộng rãi bảo đảm cho mọi người lao động đều được tham gia, trong xã hội xuất hiện hình thức BHXH tự nguyện. Hiện nay, trên thế giới tồn tại hai mô hình BHXH tự nguyện: thứ nhất, BHXH tự nguyện áp dụng như là một hình thức BHXH bổ sung cho BHXH bắt buộc; thứ hai, BHXH tự nguyện mở cho bất cứ người lao động nào tự nguyện tham gia. Mặc dù mang tính chất tự nguyện nhưng chính sách BHXH tự nguyện vẫn là chính sách do Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia. Nhà nước quy định mức đóng góp để hình thành Quỹ BHXH tự nguyện đủ lớn để chi trả cho người tham gia BHXH tự nguyện và xây dựng các chế độ mà người tham gia BHXH được hưởng (bao gồm điều kiện hưởng, mức hưởng) để bảo đảm bù đắp rủi ro cho người tham gia BHXH tự nguyện. Dưới góc độ tiếp cận đó, có thể đưa ra khái niệm về BHXH tự nguyện như sau: Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại hình BHXH do Nhà nước ban hành để đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự tự nguyện đóng góp một phần thu nhập của người lao động, người sử dụng lao động, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và cho gia đình họ, gúp phần bảo đảm an toàn xã hội. Như vậy, loại hình BHXH tự nguyện chỉ có thể được hình thành và thực hiện trên cơ sở: - Có nhiều người lao động tham gia và có thể cả người sử dụng lao động tự nguyện tham gia với điều kiện: có nhu cầu thực sự về BHXH; Có khả năng tài chính để đóng phí BHXH tự nguyện; có sự thống nhất với những quy định cụ thể (mức đóng, mức hưởng, quy trình thực hiện, phương pháp quản lý, sử dụng quỹ BHXH tự nguyện…) của loại hình BHXH tự nguyện. - Có tổ chức, cơ quan đứng ra thực hiện BHXH tự nguyện. - Được Nhà nước bảo hộ và hỗ trợ khi cần thiết. 1.1.2.2. Bản chất bảo hiểm xã hội tự nguyện * Bản chất kinh tế của BHXH tự nguyện Bản chất kinh tế của BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng thể hiện ở chỗ những người tham gia cũng đóng góp một khoản tiền trích trong thu nhập (khoản đóng góp này sau khi đó chi tiêu cho các nhu cầu tối thiểu và các nhu cầu cần thiết và không ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất - kinh doanh của cá nhân) để lập một quỹ dự trữ. Mục đích của việc hình thành quỹ này để trợ cấp cho những người tham gia BHXH tự nguyện khi gặp rủi ro dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập. Như vậy BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van - chinh thuc.doc
  • docBia - ThS.doc
  • docCam doan.doc
  • docDe cuong - Bia.doc
  • docDe cuong.doc
  • docMuc luc.doc
Luận văn liên quan