Lịch sử gần 1000 năm tuổi và bề dày truyền thống nghìn năm văn hiến
đã tạo điều kiện cho Thủ đô Hà Nội có nhiều thuận lợi trong quá trình phát
triển và cũng giao phó cho Hà Nội nhiều sứ mệnh quan trọng. Nghị quyết
15/NQ – TW ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị về Phương hướng nhiệm vụ
phát triển thủ đô Hà Nội trong giai đoạn 2001 -2010 đã khẳng định: “ Thủ đô
Hà Nội là trái tim của cả nước, đầu não chính trị – hành chính quốc gia, trung
tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế.”; “Xây
dựng Hà Nội thành trung tâm thị trường hàng hoá bán buôn, xuất nhập khẩu,
trung tâm tài chính – ngân hàng hàng đầu ở khu vực phía Bắc và vai trò quan
trọng của cả nước”.
Để xứng đáng với vai trò và vị trí của mình, thủ đô Hà Nội đang tích cực
triển khai thực hiện nhiều nhiệm vụ chiến lược về phát triển kinh tế - văn hoá
- xã hội. Trong đó, việc phát triển thị trường dịch vụ tài chính Hà Nội ngày
một lớn mạnh ở khu vực phía Bắc và giữ vị trí hàng đầu trong cả nước vừa là
nhiệm vụ trọng tâm vừa là yêu cầu bức thiết trong tiến trình phát triển kinh tế
– xã hội Thủ đô. Để đạt được mục tiêu trên, Hà Nội cần có những giải pháp
đồng bộ, trong đó có nhóm giải pháp phát triển dịch vụ tài chính – ngân hàng,
hơn nữa, không chỉ trong phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô, mà còn cho cả
nước, nhất là vào thời điểm hiện nay khi Việt Nam đã là thành viên thứ 150
của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Do đó, việc đánh giá thực trạng hoạt
động dịch vụ tài chính của thủ đô Hà Nội trong những năm qua nhằm tìm ra
những thuận lợi cũng như thách thức, khó khăn, trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp nhằm phát triển dịch vụ tài chính Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh
tế quốc tế là hết sức cần thiết.
95 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1721 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển dịch vụ tài chính Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2B Ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
4BTRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
------------
NGUYỄN THỊ MINH HẰNG
0BPHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÀI CHÍNH HÀ NỘI ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
HOÀNG VIỆT TRUNG
HÀ NỘI - 2007
3B Ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
5BTRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
------------
NGUYỄN THỊ MINH HẰNG
1BPHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÀI CHÍNH HÀ NỘI ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2007
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Lịch sử gần 1000 năm tuổi và bề dày truyền thống nghìn năm văn hiến
đã tạo điều kiện cho Thủ đô Hà Nội có nhiều thuận lợi trong quá trình phát
triển và cũng giao phó cho Hà Nội nhiều sứ mệnh quan trọng. Nghị quyết
15/NQ – TW ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị về Phương hướng nhiệm vụ
phát triển thủ đô Hà Nội trong giai đoạn 2001 -2010 đã khẳng định: “ Thủ đô
Hà Nội là trái tim của cả nước, đầu não chính trị – hành chính quốc gia, trung
tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế...”; “Xây
dựng Hà Nội thành trung tâm thị trường hàng hoá bán buôn, xuất nhập khẩu,
trung tâm tài chính – ngân hàng hàng đầu ở khu vực phía Bắc và vai trò quan
trọng của cả nước”.
Để xứng đáng với vai trò và vị trí của mình, thủ đô Hà Nội đang tích cực
triển khai thực hiện nhiều nhiệm vụ chiến lược về phát triển kinh tế - văn hoá
- xã hội. Trong đó, việc phát triển thị trường dịch vụ tài chính Hà Nội ngày
một lớn mạnh ở khu vực phía Bắc và giữ vị trí hàng đầu trong cả nước vừa là
nhiệm vụ trọng tâm vừa là yêu cầu bức thiết trong tiến trình phát triển kinh tế
– xã hội Thủ đô. Để đạt được mục tiêu trên, Hà Nội cần có những giải pháp
đồng bộ, trong đó có nhóm giải pháp phát triển dịch vụ tài chính – ngân hàng,
hơn nữa, không chỉ trong phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô, mà còn cho cả
nước, nhất là vào thời điểm hiện nay khi Việt Nam đã là thành viên thứ 150
của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Do đó, việc đánh giá thực trạng hoạt
động dịch vụ tài chính của thủ đô Hà Nội trong những năm qua nhằm tìm ra
những thuận lợi cũng như thách thức, khó khăn, trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp nhằm phát triển dịch vụ tài chính Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh
tế quốc tế là hết sức cần thiết.
2
2. Tình hình nghiên cứu:
Trong những năm gần đây, đã có nhiều đề tài, nhiều công trình khoa học
tập trung nghiên cứu thị trường dịch vụ tài chính. Ví dụ: Đề tài khoa học cấp
Bộ “Dịch vụ Bảo hiểm và ngân hàng của Việt nam. Những vấn đề đặt ra trong
quá trình đàm phán và thực hiện các cam kết với WTO” do TS. Nguyễn Thị
Quy làm chủ nhiệm đề tài, đề tài “Phát triển các dịch vụ tài chính theo hướng
hội nhập và các giải pháp đẩy mạnh xuất nhập khẩu dịch vụ tài chính của Việt
Nam” do Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Thương Mại Trương Quang Hoài Nam
làm chủ nhiệm, luận văn thạc sỹ: “Những giải pháp nhằm xây dựng thị trường
DVTC ở Việt nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế” của Vũ Thị
Xuân Thơ - CH8 ĐHNT.
Như vậy, hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về thị trường dịch
vụ tài chính ở khía cạnh này hay khía cạnh khác nhưng chưa có một công
trình nào nghiên cứu sâu về sự phát triển của dịch vụ tài chính Hà Nội đáp
ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng hoạt động, vai trò, thành tựu cũng như hạn chế của
dịch vụ tài chính Hà Nội trong những năm gần đây; phân tích những cơ hội và
thách thức, khó khăn trong quá trình hội nhập quốc tế, thực hiện những cam
kết, thỏa thuận về dịch vụ tài chính Hà Nội để từ đó đề ra những giải pháp,
kiến nghị nhằm phát triển loại hình dịch vụ này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ cơ sở lý luận về dịch vụ tài chính và những cam kết, thỏa thuận
của Việt Nam về lĩnh vực dịch vụ tài chính trong quá trình phát triển và hội
nhập quốc tế ở Việt Nam.
3
- Minh chứng vai trò và đánh giá thực trạng về dịch vụ tài chính Hà Nội
trong những năm gần đây, những thành tựu đạt được cũng như những tồn tại,
hạn chế.
- Phân tích những cơ hội và thách thức, đặt ra yêu cầu, định hướng, mục
tiêu đối với dịch vụ tài chính Hà Nội khi Việt Nam gia nhập WTO. Từ đó, đề
xuất những giải pháp nhằm phát triển dịch vụ tài chính Hà Nội đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về dịch vụ tài chính ở Hà Nội trong
những năm gần đây và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển dịch vụ
tài chính Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Luận văn cũng
nghiên cứu sự phát triển của dịch vụ tài chính Hà Nội trong mối liên quan
chặt chẽ với thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Dịch vụ tài chính là một khái niệm rộng. Theo cách hiểu của Hiệp định
chung về Thương mại Dịch vụ (General Agreement on Trade in Services, viết
tắt là GATS) thì dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ
liên quan đến bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác
(ngoại trừ bảo hiểm) nhưng Luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu là dịch
bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng phép duy vật biện chứng, kết hợp với các lý luận,
quan điểm kinh tế, tài chính và định hướng phát triển kinh tế tài chính của
Nhà nước để phân tích, đánh giá hoạt động dịch vụ tài chính Hà Nội.
4
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê và xuất phát từ thực tiễn để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu.
7. Bố cục của Luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của Luận văn gồm 3 chương
Chương I: Dịch vụ tài chính trong quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng về dịch vụ tài chính Hà Nội trong những năm gần
đây
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển dịch vụ tài
chính Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
5
CHƢƠNG I:
DỊCH VỤ TÀI CHÍNH TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
1.1.1 Khái niệm về dịch vụ và dịch vụ tài chính
Khái niệm dịch vụ:
Theo C. Marx, dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, khi
mà nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy,
thông suốt, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người thì
dịch vụ càng phát triển. Lúc đầu, người ta quan niệm dịch vụ chỉ là ngành
thương nghiệp làm nhiệm vụ chủ yếu trong khâu lưu thông, phân phối và
người ta quan niệm dịch vụ như là sự mua bán hàng hóa. Gắn với sự phát
triển của nền kinh tế, vai trò của ngành dịch vụ ngày càng quan trọng và quan
niệm về dịch vụ cũng dần dần thay đổi. Lĩnh vực dịch vụ không chỉ đơn thuần
làm chức năng lưu thông, phân phối mà còn được phát triển rất đa dạng với
nhiều ngành khác nhau như: y tế, giáo dục, vận tải, ngân hàng, bảo hiểm, tư
vấn, du lịch, bưu chính viễn thông...Giống như lĩnh vực sản xuất vật chất
(công nghiệp và nông nghiệp), dịch vụ cũng phải sử dụng lao động sống và
lao động vật hóa trong quá trình hoạt động. Nhưng dịch vụ có những đặc
điểm khác biệt so với lĩnh vực sản xuất vật chất. Đó là:
- Sản phẩm dịch vụ không giống với sản phẩm hàng hóa là tồn tại dưới
dạng hữu hình nên việc xác định chất lượng của sản phẩm dịch vụ là rất khó
khăn. Do vô hình nên người ta không thể sờ, ngửi, nhìn thấy một cách cụ thể
được trước khi tiêu dùng chúng. Ví dụ: một người phụ nữ đi mỹ viện chỉ có
thể biết được mình sẽ xấu đẹp ra sao sau khi sử dụng dịch vụ của người bác
sỹ thẩm mỹ.
6
- Việc sản xuất và tiêu dùng sản phẩm của dịch vụ diễn ra đồng thời.
Không giống với các ngành sản xuất vật chất, sản phẩm của ngành dịch vụ
không thể sản xuất sẵn để lưu kho, lưu trữ. Điều đó có nghĩa là sản phẩm của
dịch vụ không tách rời với nguồn gốc của nó.
- Chất lượng dịch vụ thường dao động trong một khoảng rất rộng nên
thường không ổn định. Nếu như chất lượng sản phẩm của ngành sản xuất vật
chất được quy định theo một tiêu chuẩn nhất định thì chất lượng của sản phẩm
dịch vụ lại không có một tiêu chuẩn cố định nào. Nó phụ thuộc rất nhiều vào
hoàn cảnh tiếp xúc, sự tác động qua lại giữa cung ứng và người tiêu dùng dịch
vụ.
Theo GATS thì có bốn phương thức cung cấp dịch vụ mang tính thương
mại quốc tế như sau:giao dịch qua biên giới, sử dụng dịch vụ ở nước ngoài,
hiện diện thương mại, hiện diện thể nhân.
Giao dịch qua biên giới tức là việc cung cấp dịch vụ được tiến hành từ
lãnh thổ của một nước này sang lãnh thổ của một nước khác. Ví dụ: gọi điện
thoại quốc tế, khám bệnh từ xa, học từ xa mà cả người sử dụng và người cung
cấp nằm ở các quốc gia khác nhau.
Sử dụng dịch vụ ở nước ngoài tức là người sử dụng mang quốc tịch một
nước đi đến một nước khác và sử dụng dịch vụ ở nước đó. Ví dụ: người Việt
Nam đi du lịch ở châu Âu, sang Trung Quốc chữa bệnh.
Hiện diện thương mại tức là người cung cấp dịch vụ mang quốc tịch một
nước đi đến một nước khác, lập ra một pháp nhân và cung cấp dịch vụ ở nước
đó. Ví dụ: một ngân hàng thương mại mở một chi nhánh ở nước ngoài.
Hiện diện thể nhân tức là người cung cấp dịch vụ là thể nhân mang quốc
tịch một nước đi đến một nước khác và cung cấp dịch vụ ở nước đó. Ví dụ:
7
một giáo sư người nước ngoài được mời sang một trường đại học Việt Nam ở
nước ngoài để giảng bài.
Theo tài liệu kí hiệu MTN.GNS/W/120 của Tổ chức Thương mại Thế
giới, dịch vụ được chia thành 12 nhóm lớn, trong đó lại bao gồm nhiều phân
nhóm khác nhau. 12 nhóm đó là:
- Các dịch vụ kinh doanh. Ví dụ: tư vấn pháp lí, xử lí dữ liệu, nghiên cứu
phát triển, nhà đất, cho thuê, quảng cáo.....
- Các dịch vụ thông tin liên lạc. Ví dụ: bưu chính, viễn thông, truyền
hình
- Các dịch vụ xây dựng và kỹ thuật liên quan đến xây dựng. Ví dụ: xây
dựng, lắp máy.....
- Các dịch vụ phân phối. Ví dụ: bán buôn, bán lẻ.......
- Các dịch vụ giáo dục
- Các dịch vụ môi trường. Ví dụ: Vệ sinh, xử lí chất thải......
- Các dịch vụ tài chính. Ví dụ: ngân hàng, bảo hiểm......
- Các dịch vụ liên quan đến y tế và dịch vụ xã hội
- Các dịch vụ liên quan đến du lịch và lữ hành.
- Các dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao
- Các dịch vụ giao thông vận tải.
- Các dịch vụ khác
Khái niệm dịch vụ tài chính:
Theo tổ chức thương mại thế giới (WTO): Một dịch vụ tài chính là bất
cứ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính
8
cung cấp. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên
quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ
bảo hiểm).
1.1.2 Đặc điểm của dịch vụ tài chính
Tính vô hình: Giống như mọi sản phẩm dịch vụ khác, để phân biệt với
các sản phẩm của ngành sản xuất vật chất, sản phẩm dịch vụ tài chính có tính
không hiện hữu hay tính vô hình. Điều này có nghĩa là người tiêu dùng sản
phẩm dịch vụ tài chính không thể thấy được rõ ràng sản phẩm họ đang sử
dụng nên việc đánh giá chất lượng là vô cùng khó khăn. Do đó, nhà cung cấp
dịch vụ tài chính muốn lôi kéo được khách hàng thì phải chú trọng nâng cao
uy tín, thương hiệu của mình trong kinh doanh, đem lại niềm tin cho người
tiêu dùng về chất lượng sản phẩm của mình.
Tính không thể tách rời hay không thể chia cắt: Điều này có nghĩa là quá
trình cung cấp dịch vụ tài chính và quá trình tiêu dùng dịch vụ được diễn ra
cùng một lúc theo những quy trình nhất định. Do đó, dịch vụ tài chính không
có sản phẩm dở dang, không thể lưu kho lưu trữ mà được cung cấp trực tiếp
cho người sử dụng khi và chỉ khi khách hàng có nhu cầu. Ví dụ: một khách
hàng ra ngân hàng đăng kí làm thẻ ATM (Automatic teller machine) có nghĩa
là họ đăng kí sử dụng dịch vụ rút tiền tự động của ngân hàng đó. Ngân hàng
sẽ không có bán thành phẩm hay dự trữ thành phẩm mà chỉ khi khách hàng có
yêu cầu và làm đầy đủ thủ tục, ngân hàng chuẩn bị sẵn các thiết bị như máy
ATM, máy tính, đường truyền số liệu rồi giấy lĩnh tiền mặt, ủy nhiệm chi, tiền
mặt.... Như vậy, quá trình đã bắt đầu khi khách hàng đăng kí dùng dịch vụ của
ngân hàng, còn ngân hàng có nhiệm vụ chuẩn bị mọi phương tiện cần thiết và
kết thúc khi khách hàng rút tiền mặt ở máy ATM. Điều này có nghĩa là không
có khái niệm bảo trì, bảo dưỡng hay bảo hành cho sản phẩm dịch vụ tài chính
9
tức là dịch vụ này có nhiều điểm khác biệt so với các loại hàng hóa, dịch vụ
khác.
Tính không đồng nhất và khó xác định: Một sản phẩm dịch vụ tài chính
dù lớn hay bé (xét về quy mô) đều không đồng nhất thời gian thực hiện, cách
thức thực hiện, điều kiện thực hiện, vì vậy rất khó xác định. Một sản phẩm
dịch vụ tài chính được tạo nên bởi nhiều yếu tố như trình độ công nghệ, uy
tín, thương hiệu, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ. Những yếu tố
này ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng dịch vụ, nhưng lại thường xuyên biến
động. Kết quả sẽ tạo ra các sản phẩm dịch vụ tài chính khác nhau cho dù có
cùng một bản chất, cùng một quy trình thực hiện chứ không phải là các sản
phẩm hàng loạt như trong các ngành sản xuất công nghiệp thường thấy khác.
1.1.3 Các loại hình dịch vụ tài chính
Theo nghĩa rộng, dịch vụ tài chính bao gồm tất cả các dịch vụ có tính
chất tài chính. Tuy nhiên, để thống nhất với định nghĩa của GATS, trong luận
văn này chỉ tập trung đề cập đến hai loại hình dịch vụ chủ yếu: đó là dịch vụ
bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng. Theo WTO – phụ lục G quy định các loại
hình dịch vụ bảo hiểm và bảo hiểm ngân hàng như sau:
Dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm:
Hiện nay, chưa có một khái niệm chính xác nào về dịch vụ bảo hiểm. Ở
Việt Nam, theo Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành
của Bộ Tài chính (2004), kinh doanh bảo hiểm được hiểu là: “hoạt động của
doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo
hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm
đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
10
hiểm.” Theo WTO, dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm được
hiểu là:
- Bảo hiểm trực tiếp (kể cả đồng bảo hiểm) gồm nhân thọ và phi nhân
thọ;
- Tái bảo hiểm và tái nhượng bảo hiểm;
- Bảo hiểm qua trung gian như môi giới và đại lí;
- Dịch vụ phụ trợ bảo hiểm như tư vấn, dịch vụ đánh giá xác xuất và rủi
ro, dịch vụ giải quyết khiếu nại.
Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm):
Ở nước ta hiện nay, vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về dịch vụ ngân
hàng. Có không ít quan niệm cho rằng, hoạt động ngân hàng bao gồm hoạt
động tín dụng và dịch vụ. Theo đó, hoạt động tín dụng là các nghiệp vụ về
nhận tiền gửi, huy động vốn, cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính; còn hoạt
động dịch vụ của ngân hàng là các nghiệp vụ thu phí (trừ phí bảo lãnh vì được
tính vào hoạt động tín dụng). Trong những năm gần đây, do yêu cầu hội nhập
quốc tế ngày càng trở nên cấp bách, quan niệm về dịch vụ ngân hàng đã được
đổi mới theo thông lệ quốc tế. Theo đó, khái niệm dịch vụ ngân hàng có thể
được hiểu chung nhất là các công việc trung gian về tiền tệ của các tổ chức
nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng về sinh lời, đầu tư, giữ hộ hay bảo
đảm an toàn, đem lại nguồn thu phí cho tổ chức cung ứng dịch vụ.
- Chấp nhận tiền gửi hoặc đặt cọc và các khoản quỹ có thể thanh toán
khác của công chúng;
- Mọi loại hình cho vay, kể cả tín dụng người tiêu dùng, tín dụng cầm
đồ, cầm cố, dịch vụ về hóa đơn và tài trợ của giao dịch thương mại;
- Thuê mua tài chính;
11
- Mọi dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, kể cả thẻ tín dụng, thẻ thanh
toán và tương tự, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng;
- Bảo lãnh và cam kết;
- Thương vụ tiến hành tự chịu chi phí hoặc nhân danh khách hàng, dù tại
sở giao dịch và trên thị trường không chính thức hoặc các giao dịch khác về
công cụ thị trường tiền tệ (kể cả séc, hóa đơn, giấy chứng nhận tiền gửi);
ngoại hối; các công cụ dẫn xuất nhưng không hạn chế bởi các giao dịch kỳ
hạn hoặc quyền giao dịch; tỷ giá hối đoái và các công cụ về lãi suất, kể các
công cụ như giao dịch swap, thỏa thuận tỷ giá kỳ hạn, chứng từ có thể chuyển
nhượng; các công cụ có thể chuyển nhượng khác và tài sản chính, kể cả kim
khí quí.
- Tham gia vào việc phát hành mọi loại chứng khoán, kể cả việc bảo
hiểm phát hành và với hoạt động đại lí (dù theo cách công hoặc tư nhân) và
cung cấp dịch vụ liên quan tới những vấn đề trên.
- Môi giới tiền tệ;
- Quản lí tài sản có, như là tiền mặt hoặc quản lí danh mục đầu tư gián
tiếp, mọi hình thức quản lí đầu tư tập thể, quản lí quỹ hưu trí, hùn vốn, góp
vốn và dịch vụ tín thác;
- Dịch vụ thanh toán hoặc thanh toán bù trừ về tài sản tài chính, kể cả
chứng khoán, các công cụ dẫn xuất và các công cụ có thể nhượng khác;
- Cung cấp và chuyển thông tin về tài chính, và xử lí dữ liệu tài chính và
phần mềm liên quan do các người cung cấp dịch vụ tài chính thực hiện;
- Các dịch vụ về tư vấn, trung gian và bổ trợ về tài chính về mọi mặt
hoạt động đã nêu trên, kể cả tham chiếu và phân tích tín dụng, nghiên cứu và
12
tư vấn về đầu tư và đầu tư gián tiếp, tư vấn mua sắm và về cơ cấu lại hoặc
chiến lược dịch vụ.
Tuy nhiên, theo phụ lục của Hiệp định GATS về dịch vụ tài chính, một
dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một người
cung cấp dịch vụ tài chính của một thành viên cung cấp. Dịch vụ tài chính
không bao gồm “Dịch vụ được cung cấp khi thi hành quyền hạn của cơ quan
chính phủ” trong dịch vụ tài chính được hiểu như sau:
i) Các hoạt động được tiến hành bởi Ngân hàng trung ương, tổ chức tiền
tệ hoặc bởi bất kỳ một pháp nhân công cộng nào thực hành chính sách tài
chính và chính sách tỷ giá hối đoái;
ii) Các hoạt động tạo thành một bộ phận của hệ thống luật pháp về an
ninh xã hội hay các chương trình hưu trí công;
iii) Các hoạt động khác do một pháp nhân công cộng tiến hành do Chính
phủ chịu chi phí, đảm bảo hoặc sử dụng nguồn tài chính của Chính phủ.
Nhưng nếu một thành viên cho phép bất kỳ một hoạt động nào được nêu
tại điểm (ii) hoặc (iii) được người cung cấp dịch vụ tài chính của mình tiến
hành và cạnh tranh với một pháp nhân công cộng hoặc một người cung cấp
dịch vụ tài chính thì thuật ngữ “dịch vụ” vẫn được hiểu là bao gồm những
hoạt động đó.
Pháp nhân “công cộng” trong khuôn khổ WTO được hiểu là:
- Chính phủ, Ngân hàng Trung ương hoặc một tổ chức tài chính của một
Thành viên, hoặc một thực thể do một Thành viên sở hữu hoặc kiểm soát, chủ
yếu tiến hành chức năng chính phủ hoặc các hoạt động vì mục đích của Chính
phủ, không bao gồm pháp nhân chủ yếu cung cấp những dịch vụ tài chính trên
cơ sở những điều kiện thương mại; hoặc
13
- Một pháp nhân tư nhân, thực hiện các chức năng mà thông thường vẫn
do một Ngân hàng trung ương hoặc tổ chức tiền tệ, khi thực hiện các chức
năng này.
1.2 CAM KẾT, THỎA THUẬN CỦA VIỆT NAM VỀ LĨNH VỰC DỊCH VỤ
TÀI CHÍNH TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đánh dấu bởi hai
sự kiện quan trọng là việc ký kết thực hiện hiệp định thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ và những cam kết về dịch vụ tài chính của Việt Nam khi gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới WTO. Hai sự kiện này có ảnh hưởng to lớn đến phát
triển dịch vụ tài chính ở Việt Nam và việc thực hiện những cam kết trong hai
hiệp định này là nội dung chính của phát triển dịch vụ tài chính trong hội nhập
quốc tế, cụ thể như sau:
1.2.1 Những cam kết về dịch vụ tài chính trong hiệp định thƣơng mại
Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA)
1.2.1.1 Giới thiệu chung về hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
Kể từ khi Việt Nam áp dụng chính sách mở cửa nền kinh tế, quan hệ
thương mại song phương giữa Việt Nam với các nước trên thế giới được cải
thiện và xúc tiến theo chiều hướng tích cực với tốc độ cực nhanh. Nhưng phải
đến tháng 7/1995, khi Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao th