Thời gian là phạm trù phổ quát của ngôn ngữ học. Ngôn ngữ nào cũng có
những phương tiện biểu thị ý nghĩa thời gian. Tuy nhiên những phương tiện biểu
thị thời gian trong các ngôn ngữ có thể khác nhau. Cách biểu thị ý nghĩa thời gian
thể hiện đặc điểm loại hình của ngôn ngữ.
Những yếu tố biểu thị thời gian xuất hiện rất phổ biến trong câu nói hàng
ngày của người Hàn và người Việt. Thông qua đó, người ta có thể thấy đặc điểm
tri nhận, đặc điểm tâm lý của hai dân tộc Hàn Quốc và Việt Nam. Ngôn ngữ
không chỉ là công cụ giao tiếp mà còn có chức năng liên kết chặt chẽ với chính
cách thức mà trong đó con người suy nghĩ và hiểu về thế giới, vì ở mỗi người đều
có sự liên kết giữa tư duy và ngôn ngữ
162 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 5028 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phương thức biểu hiện ý nghĩa thời gian trong tiếng Hàn (so sánh với tiếng Việt), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
JEONG MU YOUNG
PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN
Ý NGHĨA THỜI GIAN TRONG TIẾNG HÀN
(SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh-2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
JEONG MU YOUNG
PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN
Ý NGHĨA THỜI GIAN TRONG TIẾNG HÀN
(SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT)
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh-2008
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và làm luận văn tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ
và sự động viên từ các thầy cô, đồng nghiệp và bạn bè.
Lần đầu tiên đến trường Đại học Sư phạm TP.HCM, tôi nói tiếng Việt rất kém.
Tôi tiếp tục học lên cao học sau khi tốt nghiệp cử nhân Tiếng Việt tại trường Đại
học Sư phạm. Thật sự, khi tôi bắt đầu quá trình học cao học, tôi đã gặp rất nhiều
khó khăn trong việc học vì không hiểu được bài giảng. Tuy nhiên, tôi đã không
ngừng cố gắng và chú tâm vào tất cả các bài giảng trên lớp của các thầy cô. Theo
thời gian, năng lực tiếng Việt của tôi cũng ngày càng được nâng cao.
Vì năng lực tiếng Việt của tôi còn kém nên các thầy cô cũng đã gặp rất nhiều
khó khăn và vất vả trong việc giảng dạy cho tôi. Tôi đã rất nỗ lực và cố gắng kết
thúc quá trình học cao học bằng luận văn thạc sĩ.
Tôi xin trân trọng gửi lời cám ơn đến Ban Giám hiệu Khoa Ngữ văn, Phòng
Sau Đại học trường Đại học Sư phạm, TP.HCM.
Tôi xin kính gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến các thầy cô Khoa Ngữ văn
- những người đã nhiệt tình giảng dạy cho tôi trong những năm học đại học và
cao học, những người đã truyền đạt kiến thức và luôn sẵn sàng tạo mọi điều kiện
để giúp tôi có thể hoàn thành được chương trình học và luận văn.
Tôi thành thật biết ơn PGS.TS. Dư Ngọc Ngân, cô đã tận tình hướng dẫn tôi
chọn hướng nghiên cứu và hoàn thành luận văn cao học.
Jeong Mu Young
MỤC LỤC
Lời cảm ơn .1
Mục lục ...2
MỞ ĐẦU ..4
0.1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu4
0.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.5
0.3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.5
0.4. Phương pháp nghiên cứu..15
0.5. Cấu trúc của luận văn...16
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN VỀ Ý NGHĨA
THỜI GIAN ĐẶC ĐIỂM CÚ PHÁP TIẾNG HÀN
1.1. Những cơ sở lý thuyết..18
1.1.1. Vấn đề chung.18
1.1.2. Ý nghĩa “Thời (time)” và các khái niệm có liên quan..............................19
1.1.2.1. Ý nghĩa “Thời (time)” .......................................................................19
1.1.2.2. Khái niệm “Thì (tense)”.....21
1.1.2.3. Khái niệm “Thể (aspect)”..23
1.1.3. Các phương thức biểu hiện ý nghĩa thời gian....24
1.1.3.1. Biểu hiện bằng phương tiện hình thái học..........24
1.1.3.2. Biểu hiện bằng phương tiện từ vựng – ngữ pháp...26
1.2. Tổng quan về ý nghĩa thời gian trong tiếng Hàn..28
Chương 2: PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN Ý NGHĨA THỜI GIAN TRONG
TIẾNG HÀN (SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT)
2.1. Phương thức biểu hiện ý nghĩa thời gian trong tiếng Hàn54
2.1.1. Dùng phương tiện hình thái học....54
2.1.1.1. Biểu hiện phạm trù “Thì”...56
2.1.1.2. Biểu hiện phạm trù “Thể”..93
2.1.2. Dùng phương tiện từ vựng - ngữ pháp..108
2.2. So sánh phương thức biểu hiện ý nghĩa thời gian trong tiếng Hàn và trong
tiếng Việt.111
KẾT LUẬN..118
TÀI LIỆU THAM KHẢO..127
PHỤ LỤC.130
MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Thời gian là phạm trù phổ quát của ngôn ngữ học. Ngôn ngữ nào cũng có
những phương tiện biểu thị ý nghĩa thời gian. Tuy nhiên những phương tiện biểu
thị thời gian trong các ngôn ngữ có thể khác nhau. Cách biểu thị ý nghĩa thời gian
thể hiện đặc điểm loại hình của ngôn ngữ.
Những yếu tố biểu thị thời gian xuất hiện rất phổ biến trong câu nói hàng
ngày của người Hàn và người Việt. Thông qua đó, người ta có thể thấy đặc điểm
tri nhận, đặc điểm tâm lý của hai dân tộc Hàn Quốc và Việt Nam. Ngôn ngữ
không chỉ là công cụ giao tiếp mà còn có chức năng liên kết chặt chẽ với chính
cách thức mà trong đó con người suy nghĩ và hiểu về thế giới, vì ở mỗi người đều
có sự liên kết giữa tư duy và ngôn ngữ.
Ngôn ngữ càng phát triển, sự giao tiếp càng mở rộng thì các yếu tố biểu đạt
thời gian được sử dụng càng nhiều, càng đa dạng. Biết diễn đạt đúng những yếu
tố thời gian là một trong những yêu cầu trong chuẩn mực ngôn ngữ, vốn là vấn đề
đang được đặt ra đối với tiếng Hàn hiện nay. Với tư cách là một phạm trù ngữ
nghĩa, ngữ pháp của ngôn ngữ, thời gian trong tiếng Hàn đã được nhiều người
quan tâm nghiên cứu.
Tìm hiểu ngôn ngữ và văn hóa Hàn là một nhu cầu ngày một tăng không chỉ
đối với những người Hàn. Số lượng các đơn vị biểu thị thời gian khá lớn và cách
biểu thị thời gian trong tiếng Hàn đa dạng.Vì vậy, người Hàn cũng như người
Việt học tiếng Hàn cần có sự hiểu biết về cách biểu thị ý nghĩa thời gian trong
tiếng Hàn, đây là một yêu cầu không thể thìếu trong việc bồi dưỡng năng lực giao
tiếp của người nói, đặc biệt là những người học tiếng Hàn với tư cách ngôn ngữ
thứ hai. Hiện nay, quan hệ tiếp xúc, giao lưu văn hoá, ngôn ngữ giữa hai đất nước
Việt Nam và Hàn Quốc ngày càng phát triển. Việc tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ
của nhau cũng góp phần thúc đẩy mối quan hệ này.
Vì những lý do trên, luận văn này sẽ đi vào tìm hiểu phương thức biểu hiện ý
nghĩa thời gian trong tiếng Hàn (so sánh với tiếng Việt). Đề tài này có ý nghĩa về
mặt lý luận và thực tiễn.
- Về lý luận: Việc nghiên cứu đề tài này góp phần làm rõ đặc điểm loại hình
của tiếng Hàn và tiếng Việt; các phương thức, phương tiện biểu hiện ý nghĩa thời
gian trong tiếng Hàn và tiếng Việt.
- Về thực tiễn: Kết quả của luận văn có thể được vận dụng vào việc giảng
dạy tiếng Hàn cho người Việt và tiếng Việt cho người Hàn.
0.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về các phương thức chủ yếu biểu hiện ý nghĩa thời
gian trong tiếng Hàn. Phương thức biểu hiện ý nghĩa thời gian trong tiếng Việt
được nghiên cứu với tư cách là đối tượng so sánh với tiếng Hàn. Qua đó luận văn
muốn tìm thấy những phương tiện biểu hiện thời gian đặc thù của hai ngôn ngữ.
0.3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
0.3.1. Các quan điểm nghiên cứu thì và thể trong tiếng Hàn
Trong các công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Hàn, thì là vấn đề được sự
quan tâm của giới nghiên cứu Hàn ngữ học. Hầu hết các sách ngữ pháp tiếng Hàn
đều có nói đến ý nghĩa thì (thời) trong tiếng Hàn. Các ý kiến này có thể được tóm
tắt trong một số quan điểm mà chúng tôi sẽ trình bày sau đây.
Theo tiếng Hàn, trong vị từ (hoặc ngữ vị từ ) làm thành phần câu, có chia
được một thành phần thân từ có ý nghĩa từ vựng và một thành phần vĩ tố kết thúc
biểu thị ý nghĩa ngữ pháp. Trong tiếng Hàn, vị từ có thành phần vĩ tố kết thúc câu
tạo nên phạm trù ngữ pháp.
Trong tiếng Hàn, có hai quan điểm cho rằng tiếng Hàn không tồn tại phạm trù
thì và quan điểm cho rằng tiếng Hàn tồn tại phạm trù thì. Theo quan điểm sau, lại
có hai ý kiến khác nhau:
- Tiếng Hàn có 3 thì: quá khứ, hiện tại, tương lai
- Tiếng Hàn chỉ có 2 thì: quá khứ và phi quá khứ
Sau thế kỷ 19, một số nhà truyền giáo châu Âu bắt đầu viết ngữ pháp tiếng
Hàn. Các sách ngữ pháp tiếng Hàn này cũng có nghiên cứu về thời gian nhưng
những người truyền giáo viết theo tiếng châu Âu nên không thể nói được chính
xác về thời gian được biểu hiện như thế nào trong tiếng Hàn.
Ngữ pháp cổ điển châu Âu chia thời gian thành quá khứ, hiện tại và tương lai
và tương ứng là ba thì: thì quá khứ, thì hiện tại và thì tương lai. Việc diễn đạt thời
gian bằng phạm trù “thì “ trong các ngôn ngữ châu Âu là một điều hiển nhiên và
các ý nghĩa thời gian được ngữ pháp hóa (grammaticalized) thành những qui tắc
hình thái học bắt buộc. Thì và thể được xem là những phạm trù ngữ pháp gắn liền
với động từ, biểu hiện mối quan hệ thời gian của các hành động, biến cố hay
trạng thái của các sự kiện được nói tới. Sau đây, luận văn tìm hiểu những nhà ngữ
pháp học châu Âu nghiên cứu về thời gian trong tiếng Hàn như thế nào.
Theo tác giả Ridel trong “Ngữ pháp tiếng Hàn” (1881), cách biểu hiện thời
gian trong tiếng Hàn chỉ là sự lắp ráp theo tiếng Pháp. Nhưng Underwood (1890),
Gale (1890), Eckardt (1923) thì trình bày rõ hơn về ngữ pháp thời gian trong
tiếng Hàn.
Theo tác giả H.G. Underwood trong công trình “Ngữ pháp Hàn-Anh”(1890),
thời gian là hiện tượng ngữ pháp đặt cơ sở cho hệ thống ngữ pháp tiếng Hàn. Lúc
đầu, ông Underwood cho rằng đối với tiếng Hàn, dựa vào vĩ tố kết thúc câu
(termination) có thể chia làm thức biểu thị (indicative mood) và thức ý nguyện
(volitive mood). Theo ông Underwood, thức biểu thị là “động từ quyết định có
biểu hiện hoạt động (action) và tĩnh trạng (static), hỏi về hiện thực (fact) hoặc nói
về hiện thực (fact)”. Theo ông Uderwood, phạm trù thức làm cơ sở trong tiếng
Hàn. Hệ thống thì của ông Underwood có gốc là thức, thì xuất phát từ thức. Hệ
thống thì bao gồm thì đơn (simple tense) và thì phức (compound tense), trừ phụ
tố sau (retrostective) ‘-더-’ thành lập 4 loại thì: hiện tại(아오), quá khứ(알앗소),
tương lai (알겟소), dĩ thành tương lai (알앗겟소); thêm phụ tố trước (retrostective)
biểu thị thì: ‘-더-’ tiếp diễn(알더이다), quá khứ rất xa (알앗더이다), tương lai tiếp
tục(알겟더이다), tương lai khả năng(알앗겟더이다).
Sau đây là bảng tóm tắt về thì và thức của H.G. Underwood trong công trình
“Ngữ pháp Hàn-Anh”(1890)
Vĩ tố kết thúc câu (termination)
Thức biểu thị (indicative mood) Thức ý nguyện (volitive mood)
Hiện thực (fact)
Hoạt động (action) Tĩnh trạng (static)
Thì đơn (simple tense) Thì phức (compound tense)
Thì đơn (simple tense)
Không có ‘-더-’
Thì phức (compound tense)
Có ‘-더-’
Hiện tại 아오 Tiếp diễn 알더이다
Quá khứ 알앗소 Quá khứ rất xa 알앗더이다
Tương lai 알겟소 Tương lai tiếp tục 알겟더이다
Dĩ thành tương lai 알앗겟소 Tương lai khả năng 알앗겟더이다
Các định từ 아는, 안, 알,
알앗실, 알던
Thức biểu thị (indicative mood): có quá
khứ, hiện tại, có liên quan đến tương lai
tiếp diễn.
Theo tác giả J.S. Gale, trong “Ngữ pháp tiếng Hàn” (1894), cuối câu có biểu
hiện thức. ‘하느니라,합넨다’ là thức trần thuật lệ thuộc(independent indicative),
dùng để giải thích ý nghĩa sự việc thường và phổ quát. Theo ông Gale, ‘-더-’ là
outside verbal form và theo ông Gale thức biểu thị (indicative mood) là giữa quá
khứ và hiện tại, theo ông Underwood thức biểu thị (indicative mood) là thì phức
(complex tense).
Tác giả P.A. Eckardt trong “Ngữ pháp tiếng Hàn” (1923) có phân biệt ‘thì
nguồn gốc /본시/Hauptzeit’ và ‘thì phụ/부속시 /Nebenzeit’ hiện tại, dĩ thành/ hoàn
chỉnh(1), dĩ thành/hoàn chỉnh(2), tương lai(1),tương lai(2), tương lai(3).
Tác giả A.A.Xolodovich trong “Ngữ pháp tiếng Hàn” (1937)là người đầu tiên
nghiên cứu về thể ngữ pháp của tiếng Hàn.
Tác giả G.J.Ramstedt trong “Ngữ pháp tiếng Hàn”(1928) là người đầu tiên
chứng minh nguồn gốc tiếng Hàn là Ural-Altaic. Động từ hình thức biến hình(an
inflectional form verb) được chia ba loại (verba finta / 정동사), (converba /
부동사), vị danh từ (verbal noun / 동명사). Trong đó (verba finta) được chia thành
biểu thị (indicative), ý nguyện (volitive); cách chia này chịu ảnh hưởng của ông
Underwood.
Khẳng định (affirmative) được chia thành: tuyên bố (declarative), ngược
(regressive), hữu đích (indecisive). Ramstedt nghiên cứu nguồn gốc “-었-, -었었- ”
là theo lịch sử (converba) “–어 +있다” và nghiên cứu nguồn gốc “-겠-, -겠었-, -
었겠- ” là theo lịch sử (converba) “-겠+있다”. Quan hệ tương liên (correlation) của
thì tuyên bố (declarative), ngược (regressive) theo tác giả Ramstedt có thể hình
dung như sau:
Tuyên bố (declarative) Tuyên bố (regressive) (+tình thái)
Hiện tại
Present
보다 he sees Hiện tại
Present
보더 he sees there
Dĩ thành
Perfect
보았다 he saw Dĩ thành
Perfect
보았더 he saw then
Tương lai
Future
보겠다 he will see Tương lai
Future
보겠더 he will see then
Theo ông Ramstedt, thì là cơ sở để tạo thức.
0.3.1.1. Quan điểm cho rằng tiếng Hàn không tồn tại phạm trù thì
Sau năm 1970 có một số công trình nghiên cứu về thì, thể, thức, phạm trù
tình thái trong tiếng Hàn. Các công trình này đã đưa ra được các khái niệm về thì
(tense), thể (aspect), thức (mood).
Nhà nghiên cứu Nagisim (1972) lần đầu tiên có ý kiến là trong tiếng Hàn
không có thì nhưng chỉ có thể. Theo ngữ pháp truyền thống tiếng Hàn, vĩ tố kết
thúc câu ‘-었-’ là hình thái biểu thị quá khứ (thể dĩ thành/perfect aspect), vĩ tố kết
thúc câu ‘ -었었-’ là quá khứ (thể kiểm định/control aspect), hai hình vị đó cũng
biểu thị thể, vĩ tố kết thúc câu ‘-ㄴ다/-는다’ là động từ(hình vị đơn). ‘-겠-’, ‘ -더- ’,
là thức ‘-었-’ là dĩ thành.
0.3.1.2. Quan điểm cho rằng tiếng Hàn tồn tại phạm trù thì
a. Tiếng Hàn có ba thì: quá khứ, hiện tại, tương lai
Nhà nghiên cứu Jusikyoung trong công trình “Ngữ pháp tiếng Hàn”(1910) là
người đầu tiên nghiên cứu về thì tiếng Hàn. Ông xác định 3 thì 이때(현재/hiện tại/
present), 간때(과거/quá khứ/perfect), 올때(미래/tương lai/future) và ngoài ra còn
có 잇기(연결형/liên kết/conjunction), 끗기(종결형/hoàn thành/completive). Theo
ông, tương lai ‘-겠-’ là ý nghĩa tình thái phi hiện thực (modality).
Nhà nghiên cứu Parkseongbin trong công trình“Học tiếng JOSEON”(1935) xác
định 3 thì - thể là “thì thể hiện tại/현재시상/現在時相, thì - thể quá khứ /과거시상/
過去時相, thì - thể tương lai/미래시상/未來時相”.
Đồng thời ông cũng bắt đầu nghiên cứu khái niệm về thể và tình thái(modality).
Nhà nghiên cứu Kimseongduk (1974) và nhà nghiên cứu Seojeongsu (1976)
cho là trong tiếng Hàn có thì và thể.
Nhà nghiên cứu Sonhomin (1975) xác định những hình thái có liên quan thì,
khái niệm thì và tình thái.
Nhà nghiên cứu Nodeakyu (1978, 1979) có ý kiến thì là phạm trù trực chỉ
(deictic category).
b. Tiếng Hàn chỉ có hai thì: quá khứ và phi quá khứ
Một số học giả tiếng Hàn nói rằng trong tiếng Hàn có tồn tại hai thì (quá khứ
và phi quá khứ tức là hiện tại). Nhà nghiên cứu Najinseok (1964,1965) có bàn về
phạm trù hai thì: “이적/ijЭk/(quá khứ)”, “지난적/jinanjЭk/(quá khứ)”.
Nhà nghiên cứu Kimseokduk (1974) xác định khái niệm thì quá khứ và thì
phi quá khứ.
Nhà nghiên cứu Seojeongsu xác định và trình bày cụ thể hơn khái niệm thì
quá khứ và phi quá khứ.
Choihyunbae trong công trình “Tiếng Hàn”(1937) lần đầu tiên nghiên cứu
và phân tích các thì cụ thể trong tiếng Hàn. Theo ông hình vị “-더-” biểu thị thì và
động từ, tính từ, hệ từ (copula) chia được theo thì. Ông có nhận xét là vĩ tố kết
thúc câu đặt sau động từ “-겠-” là hình thức chia phạm trù thời gian, khả năng, số
lượng phỏng đoán” nhưng chưa phân tích ý nghĩa chính xác của chúng, tuy nhiên
ông có đề cập đến chuẩn đặc trưng về tình thái (modality).
Nhà nghiên cứu Leejongchel (1964) theo quan niệm thì được thể hiện trong vĩ
tố và thì có quan hệ với thể và thức. Najinseok (1964,1965,1972) thì dựa vào thì
để chia thể, thức 때매김.
Trong lịch sử nghiên cứu, có ba quan điểm chủ yếu về yếu tố biểu hiện thì của
tiếng Hàn: (1) coi đó là vĩ tố kết thúc câu “- 었었-” (quá khứ), “-ㄴ-”(hiện tại), -
겠-”(tương lai); (2) coi chúng là hình vị (morpheme) thêm vào sau động từ “-
었었-/- 었1-/-었2-” (quá khứ), hình vị zero (hiện tại); và (3) chúng là một từ “었었”
(quá khứ), “ㄴ”(hiện tại), “겠”(tương lai).
Luận văn này theo quan điểm cho trong tiếng Hàn có 2 thì: quá khứ với hình
vị “- 었-” “-었었-” và phi quá khứ (tức là hiện tại) với hình vị zero và xem những
hình vị này là vĩ tố kết thúc câu.
0.3.2. Các quan điểm nghiên cứu thì và thể trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, ý kiến về thì (thời) còn những quan điểm khác nhau. Thời
gian là sự biểu hiện quá trình tồn tại và diễn biến của hành động, tính chất, trạng
thái của sự vật, hiện tượng trong một không gian nhất định. Mỗi hành động, tính
chất và trạng thái đều mang tính quá trình. Khảo sát thời tức là ta khảo sát quá
trình ấy.
Tác giả Cao Xuân Hạo đã khẳng định “thời gian chỉ thời điểm của trạng thái
hay hoạt động do động từ biểu thị”. Động từ, tính từ- hay gọi chung là vị từ - khi
đảm nhận chức năng thông báo nội dung của sự thể đều bao hàm nghĩa thời gian,
tức là phải đặt trong một ngữ cảnh, một “ khung” nhất định.
Tương tự, khi khảo sát về phạm trù thời gian tiếng Việt, tác giả Đỗ Hữu
Châu nhấn mạnh “phạm trù thời là phạm trù ngữ pháp của động từ, thể hiện quan
hệ của hoạt động mà nó biểu thị, so với thời điểm nói” Thời điểm nói mà tác giả
đề cập là mốc thời gian để xác định miền thời gian cho mọi hoạt động, trạng thái
và tính chất. Mỗi một miền như vậy tương đương với một thời. Hoạt động, trạng
thái, tính chất xảy ra trước thời điểm nói thì thuộc thời quá khứ. Hoạt động, trạng
thái , tính chất tồn tại ở ngay thời điểm nói gọi là thời hiện tại. Còn hoạt động,
trạng thái, tính chất diễn biến sau thời điểm nói thì đó là thời tương lai.
Việc chia các miền thời gian là việc làm phổ biến của tất cả các ngôn ngữ
chứ không chỉ đối với tiếng Việt. Tiếng Việt, một ngôn ngữ không có hình thức
ngữ pháp của động từ thì việc chia miền và xác định tiêu điểm, thời điểm nói là
việc làm hết sức cần thiết và quan trọng. Tác giả Đỗ Hữu Châu nhấn mạnh “phạm
trù thời là phạm trù ngữ pháp của động từ, thể hiện quan hệ của hoạt động mà nó
biểu thị, so với thời điểm nói.”
0.3.2.1 Quan điểm cho rằng tiếng Việt tồn tại phạm trù thì
Các tác giả theo quan điểm này cho rằng tiếng Việt có 3 thì : quá khứ, hiện
tại, tương lai.
Nhà nghiên cứu Alexandre De Rhodes (1651) có lẽ là người đầu tiên nói đến
vấn đề ngữ pháp thời gian trong tiếng Việt. Ông cho rằng tiếng Việt có ba thì (quá
khứ, hiện tại, tương lai). Thì được nhận biết bằng cách thêm vào một vài một vài
phụ từ. Thì hiện tại không cần thiết thêm một phụ từ nào, nhưng đôi khi cũng có,
ví dụ như: “ Tôi có việc bây giờ ”. Quá khứ thì chia ba thì như thì quá khứ chưa
hoàn thành, thì quá khứ hoàn thành (được biểu hiện bằng đã, đã về, đã nói v.v...)
và thì tiền quá khứ. Thì tương lai được biểu thị bằng “tiểu từ” sẽ.
Nhà nghiên cứu Trương Vĩnh Ký trong “Ngữ pháp tiếng Việt (1883)” cũng
cho rằng thời gian trong tiếng Việt được biểu thị bằng các hư từ (đã, đang, sẽ).
Tiếng Việt dùng hư từ đã (thì quá khứ), đang (thì hiện tại), sẽ (thì tương lai).
Ngoài ra tiếng Việt cũng có các thì chưa hoàn thành, thì quá khứ hoàn thành sớm.
Nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim, Phạm Duy Khiêm và Bùi Kỷ cho rằng
tiếng Việt có ba thời là hiện tại, quá khứ và tương lai, mỗi thời gắn với hai giá trị
thể đối lập nhau hoàn thành và chưa hoàn thành (đã, đã ....rồi, đã....xong, xong).
Nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh(1952) cho rằng tiếng Việt có ba thời (thời quá
khứ, thời hiện tại, thời tương lai), thể hiện qua các ngữ tố đã, đang, sẽ, rồi,
vẫn ..v.v.. Theo ông, ngữ tố “đã” dùng để chỉ sự tình ở thời vị lai và “đang” không
chỉ ý nghĩa hiện tại.
Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963) thì cho rằng “đã, đã rồi” chỉ
sự việc trong quá khứ khi chúng hành chức như những phó từ chỉ thời điểm.
Theo Lê Văn Lý (1972), tiếng Việt có hai hạng mục thì và thể với ngữ vị chỉ
thời gian (đương, đang), ngữ vị chỉ quá khứ (đã, rồi), ngữ vị chỉ tương lai gần hay
tương lai xa (sắp, sẽ).
Hai tác giả Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (1998) trong “Thành
phần câu tiếng Việt” đã hệ thống hóa ý nghĩa thời và thể trong tiếng Việt theo
cách phân chia thời tương lai và cả thời phi tương lai.
Thời tương lai với các giá trị thể đối lập: thời tương lai hoàn thành (sắp),
thời tương lai phi hoàn thành (sẽ).
Thời phi tương lai các giá trị thể đối lập: quá khứ chung (đã), quá khứ xa
(từng), quá khứ gần (vừa, mới); thời phi tương lai phi hoàn thành gồm thông lệ
(zero), tiếp diễn(đang), phi tiếp diễn (chưa). Phụ từ “đã” biểu thị thời phi tương
lai hoàn thành (thời quá khứ, thể hoàn thành).
Nhìn chung, các quan niệm truyền thống như trên đã xếp tiếng Việt vào các
ngôn ngữ có thì như các ngôn ngữ châu Âu, với các từ đã, đang, sẽ chỉ thì quá
khứ, hiện tại và tương lai.
0.3.2.2 Quan điểm cho rằng tiếng Việt k