Đổi mới kinh tế Việt Nam là một cao trào của toàn dân ta do Đảng Cộng Sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới thực sự bắt đầu từ năm 1986.
Năm 1980 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang
tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác, do
những sai l ầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước
ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp.
Đứng trước bối cảnh đó con đường đúng đắn duy nhất để đổi mới đất nước là
đổi mới kinh tế. Từ 1986, trên cơ sở quan điểm toàn diện nhận thức rõ về thực trạng
đất nước cùng với những thành tựu trong những năm đầu đổi mới đến năm 1991 tại
Đại hội lần VII, Đảng ta đã tới quyết định: kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Đường lối đó được thực hiện trên mười năm đổi mới đã đem lại những thành
tựu đáng khích lệ chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn
đúng đắn. Nhưng phía sau những thành tựu đó còn không ít những khó khăn nổi cộm.
Do đó cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh
tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó.
Đây là việc làm thiết thực và rất cần thiết đối với vận mệnh đất nước vì vậy tôi đã
quyết định chọn đề tài: "Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay" để nghiên cứu. Hơn nữa, đây là đề tài mang giá trị thực tiễn và giá trị khoa
học lớn góp phần làm sáng tỏ quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lênin.
16 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1977 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại nước ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quan điểm toàn diện với việc phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay
a. đặt vấn đề
Đổi mới kinh tế Việt Nam là một cao trào của toàn dân ta do Đảng Cộng Sản
Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới thực sự bắt đầu từ năm 1986.
Năm 1980 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang
tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác, do
những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước
ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp.
Đứng trước bối cảnh đó con đường đúng đắn duy nhất để đổi mới đất nước là
đổi mới kinh tế. Từ 1986, trên cơ sở quan điểm toàn diện nhận thức rõ về thực trạng
đất nước cùng với những thành tựu trong những năm đầu đổi mới đến năm 1991 tại
Đại hội lần VII, Đảng ta đã tới quyết định: kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Đường lối đó được thực hiện trên mười năm đổi mới đã đem lại những thành
tựu đáng khích lệ chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn
đúng đắn. Nhưng phía sau những thành tựu đó còn không ít những khó khăn nổi cộm.
Do đó cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh
tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó.
Đây là việc làm thiết thực và rất cần thiết đối với vận mệnh đất nước vì vậy tôi đã
quyết định chọn đề tài: "Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay" để nghiên cứu. Hơn nữa, đây là đề tài mang giá trị thực tiễn và giá trị khoa
học lớn góp phần làm sáng tỏ quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do đó
sự tồn tại quá lâu của cơ chế kinh tế cũ đã ăn sâu bám dễ duy nhận thức, vào quan
điểm và cách thức điều hành, quản lý kinh tế của chính phủ nên việc chuyển từ nền
kinh tế nhỏ sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đòi hỏi phải có sự xem xét một
cách toàn diện, cụ thể những điều kiện của nước ta.
b. nội dung
I. lý luận chung về quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nói đến quan điểm toàn diện với vấn đề trước hết ta phải hiểu được nền kinh tế
hàng hoá là gì? xã hội chủ nghĩa là gì? thế nào là thành phần kinh tế và tại sao phải
phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà không theo một hướng
khác.
1.1. Khái niệm về xã hội chủ nghĩa (XHCN)
Vào tháng 6 - 1996 tại Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định.
Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất, chủ yếu có nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải
phóng khỏi áp bức bóc lột, mọi người có quyền làm chủ bản thân mình và làm theo
năng lực hưởng theo lao động. Là xã hội mà người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc,
tự do trong khuôn khổ pháp luật, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân các dân
tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ, có quan hệ
hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Theo Mác, XHCN đáng lẽ phải ra đời từ các nước tư bản văn minh có nền kinh
tế phát triển cao song do lịch sử Việt Nam đã chịu ách thống trị của phong kiến và thực
dân, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành lại độc lập
cho dân tộc đưa đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Việt Nam - một nước kinh tế
chưa phát triển còn nghèo nàn, lạc hậu đã đi theo con đường XHCN, định hướng
XHCN ở nước ta ngày càng được giữ vững và không ngừng phát triển đặc biệt là định
hướng về chính trị, xã hội và kinh tế.
1.2. Thế nào là nền kinh tế hàng hoá?
Nền kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà sản phẩm sản xuất ra
để bán, trao đổi trên thị trường. Trong kiểu tổ chức mà toàn bộ quá trình sản xuất -
phân phối, trao đổi - tiêu dùng sản xuất ra cái gì, cho ai đều thông qua mua bán và hệ
thống thị trường và do thị trường quyết định.
(Trích Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII. Nhà XB Chính trị Quốc gia - Hà Nội - 1996 tr.79 ).
Do nền kinh tế Nhà nước giữ vai trò định hướng kém hiệu quả, chưa làm tốt vai
trò chủ đạo. Kinh tế hợp tác chậm đổi mới, số tổ chức hợp tác trước kia chỉ còn tồn taij
10%. Nhiều hình thức hợp tác mới ra đời nhưng chưa được tổng kết, đánh giá, Nhà
nước lại chưa có sự giúp đỡ nên phương hướng hoạt động còn nhiều vướng mắc lúng
túng. Để kinh tế hợp tác hoạt động đúng hướng Nhà nước phải sớm hoàn thiện luật
kinh tế hợp tác để tạo hành lang pháp lý cho quá trình hoạt động của thành phàn kinh
tế này. Không có sự định hướng của Nhà nước, nó sữ không liên kết hợp tác với kinh
tế Nhà nước, xa rời Nhà nước và xa dần định hướng mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Do việc quản lý các doanh nghiệp còn rất nhiều sơ hở. Phần lớn kinh tế tư bản
Nhà nước chỉ tập trung vào lĩnh vực dịch vụ và kinh doanh bất động sản. Sự liên
doanh của Nhà nước với tư bản tư nhân rất ít. Việc quản lý các liên doanh có vốn đầu
tư của nước ngoài còn nhiều sơ hở nghiêm trọng dẫn đến các hiện tượng tiêu cực như:
Giao thông công nghệ lạc hậu, khai man giá thiết bị máy móc, trốn lậu thuế trở thành
phổ biến. Những thành phần kinh tế tiêu biẻu cho lực lượng quyết định định hướng xã
hội chủ nghĩa còn non kém. Chúng chưa phát huy được tính ưu việt so với sản xuất
nhỏ. Sự non kém đó cùng với năng lực quản lý điều hành yếu kém là nguy cơ dẫn đễn
chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế - xã hội cần nhận thức tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế là một
tất yếu khách quan từ đó có thái độ đúng đắn trong việc khuyến khích sự phát triển của
chúng theo định hướng XHCN.
1.3. Việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đi đến mục tiêu không còn áp bức, bóc
lột, đi tới chế độ công hữu các tư liệu sản xuất thực hiện được công bằng xã hội và xã
hội có mức sống cao. Về mặt kinh tế công bằng không có nghĩa là bình quân. Đó là
một mặt kinh tế công bằng không có nghĩa là bình quân. Đó là một quá trình tiệm tiến
dần dần thông qua các biện pháp kinh tế - xã hội tổng hợp. Điểm khác nhau cơ bản
của cơ chế kinh tế của xã hội chủ nghĩa so với cơ chế kinh tế tư bản chủ nghĩa là là khả
năng từng bước rút ngắn khoảng cách giàu - nghèo trong khi chủ nghĩa tư bản có thể
dẫn đến phân cực. Trong thời kỳ quá độ chúng ta thừa nhận còn có bóc lột, đây là hiện
tượng không hợp lý cần xoá bỏ.
Thực hiện mục tiêu đó là một nhiệm vụ lâu dài của nhiều thế hệ, phải giải quyết
bằng nhiều biện pháp không làm tổn hại đến lợi óch hợp pháp của công dân. Bước đầu
chìa khoá để giải quyết nhiệm vụ đó là xã hội hoá XHCN trong thực tế nền sản xuất xã
hội.
Định hướng XHCN trong nền kinh tế đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất mới. Phải khắc phục
được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội. Vừa hình thành được cơ cấu đặc trưng cho xã hội mới. Quá trình
chuyển hướng và đổi mới nền kinh tế theo định hướng XHCN là một nguyên tắc, một
vấn đề chiến lược quan trọng nhất, cơ bản nhất của tư duy kinh tế mới của Đảng ta.
II. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay.
2.1. Tính tất yếu khách quan dẫn đến việc tồn tại và phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta.
Sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành chính quyền tiếp quản
nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Thực tế có hai loại tư
hữu: tư hữu lớn bao gồm nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp của các chủ tư bản trong và
ngoài nước. Đó là kinh tế tư bản chủ nghĩa, tư hữu nhỏ gồm những người nông dân cá
thể, những người buôn bán nhỏ. Đó là sản xuất nhỏ cá thể.
Để xác lập cơ sở kinh tế của chế độ mới Nhà nước ta xây dựng và phát triển
các thành phần kinh tế mới. Đối với tư hữu lớn. Kinh tế tư bản tư nhân chỉ có phương
pháp duy nhất là quốc hữu hoá. Lý luận về quốc hữu hoá của chủ nghĩa Mác - Lênin
khẳng định không nền quốc hữu hoá ngay một lúc mà phải tiến hành từ từ theo từng
giai đoạn và bằng hình thức, phương pháp nào là tuỳ điều kiện cụ thể cho nên doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa còn tồn tại như một tất yếu kinh tế
đồng thời hướng chủ nghĩa tư bản và con đường Nhà nước hình thành thành phần kinh
tế tư bản Nhà nước.
Đối với tư hữu nhỏ thì chỉ có thông qua con đường hợp tác hoá theo các nguyên
tắc mà Lênin đã vạch ra là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi đồng thời tuân theo các quy
luật khách quan. Do đó trong thời kỳ quá độ còn tồn tại thành phần kinh tế cá thể, tiếu
chú.
Hơn nữa các thành phần kinh tế cũ còn có khả năng phát triển, còn có vai trò
đối với sản xuất và đời sống bởi vậy không thể bỗng chốc xoá bỏ ngay được. Trong xu
thể quốc tế hoá đời sống kinh tế cần phải thu hút các nguồn lực từ bên ngoài Nhà nước
xã hội chủ nghĩa có thể liên doanh hợp tác với tư bản tư nhân trong nước và nước
ngoài làm hình thành kinh tế tư bản Nhà nước.
Mặt khác sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ
quan, khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đồng đều về lực lượng sản xuất
giữa các ngành, các doanh nghiệp chính sự phát triển không đều đó quyết định quan hệ
sản xuất, trước hết hình thức, qui mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó nghĩa là
tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các cơ sở
kinh tế khác nhau. Sự tồn tại các thành phần kinh tế ở nước ta có ý nghĩa lý luận và
thực tế to lớn.
Trên đây là nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại và phát triển nhiều thành phần kinh
tế ở Việt Nam còn có cơ sở khách quan của sự tồn taị và phát triển kinh tế hàng hoá là
do: phần công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá chẳng
những không mất đi trái lại ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. ở nước ta
ngày càng có nhiều ngành nghề cổ truyền có tiềm năng lớn trứơc đây bị cơ chế kinh tế
cũ làm mai mọt nay được khôi phục và phát triển. Sản phẩm đưa ra trên thị trường
phong phú, đa dạng chất lượng cao, mẫu mã đẹp hơn. Sự chuyên môn hoá và hợp tác
hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia, trở thành phân công lao động trên phạm
vi thế giới. Nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế nhưng trình độ xã
hội hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong cùng một thành phần
kinh tế vẫn chưa đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh trong cùng một thành
phần kinh tế, phân phối và trao đổi sản phẩm tất yếu phải thông qua hình thái hàng hoá
- tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế đảm bảo lợi ích giữa các tổ chức trong
các thành phần với người lao động và giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần
với nhau. Như vậy, nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan hay cản trở quá trình tiền tệ hoá
các mối quan hệ kinh tế trong giai đoạn lịch sử hiện nay bằng những hình thức khác
nhau sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta.
Qua đó ta thấy sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà là một tất yếu khách quan rất cần
thiết cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Để thấy được tính quan trọng bức
thiết của vấn đề đó ta đi sâu nghiên cứu từng thành phần kinh tế.
2.2. Vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế.
Các thành phần kinh tế nước ta có sự khác nhau rõ nét về hình thức sở hữu, về
cách thức thu nhập. Tuy nhiên chúng đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan
của nền kinh tế và xã hội ta vì vậy mỗi thành phần kinh tế đều là mộ bộ phận của nền
kinh tế quốc dân. Chúng có vị trí, vai trò nhất định trong một hệ thống kinh tế thống
nhất có sự quản lý của Nhà nước.
2.2.1. Kinh tế Nhà nước.
Thành phần kinh tế Nhà nước là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh
doanh hoặc phục vụ sản xuất mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc
phần của toàn Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế.
Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở
hữu của Nhà nước như đất đai, tài nguyên, kết cấu hạ tầng, các nguồn dự trữ, ngân
hàng kể cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đại hội toàn quốc lần
thứ VIII đã khẳng định rằng: Kinh tế Nhà nước cần tập trung vào những ngành, những
lĩnh vực chủ yếu như: Kết cấu hạ tầng kinh tế - x, hệ thống tài chính ngân hàng bảo
hiểm, những cơ sở sản xuất thương mại. Như vậy, vị trú của kinh tế Nhà nước là rất
quan trọng và to lớn.
Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ gắn bó giữa hữu cơ
với các thành phần kinh tế khác, thể hiện trên các mặt sau: Kinh tế Nhà nước tạo lực
lượng về kinh tế để Nhà nước có thể thực hiện hữu hiệu chức năng định hướng, đòn
bẩy hỗ trọ các thành phần kinh tế khác phát triển có hiệu quả, thúc đẩy sự tăng trưởng
nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, nó còn cung ứng những hàng hoá,
dịch vụ cần thiết trong một số lĩnh vực quan trọng như: Giao thông, thông tin liên lạc,
quốc phòng, an ninh... Đồng thời kinh tế Nhà nước đảm bảo vai trò can thiệp vào điều
tiết vĩ mô của Nhà nước, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện
một số chính sách xã hội.
Sở dĩ kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo so với các thành phần kinh tế khác là
do: Kinh tế Nhà nước là thành phần dựa trên trình độ xã hội hoá cao nhất, nó không chỉ
có ưu thế về học vấn, trình độ, kỹ thuật mà còn có vai trò quyết định sự tồn tại, phát
triển của nền kinh tế nước ta.
Qua đó ta thấy coi nhẹ kinh tế Nhà nước cho rằng chuyển sang cơ chế thị
trường phải tư hữu hoá tất cả tư liệu sản xuất là sai lầm, nhưng nến duy trì và phát triển
kinh tế Nhà nước thiếu cân nhắc kỹ hiệu quả kinh tế xã hội của nó thì cũng không
đúng.
Mấy nam qua khu vực kinh tế Nhà nước có chuyển biến tích cực biểu hiện ở: tỷ
trọng tổng sản phẩm trong nước tăng lên từ 36% năm 1991 lên đến 43,6% năm 1994.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên, số doanh nghiệp thua lỗ giảm bớt. Tuy nhiên,
nó cũng chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt và sự chủ đạo đối với nền kinh tế quốc dân,
những tiến bộ đạt được chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tương xứng với năng lực sẵn có.
Doanh nghiệp Nhà nước chiếm 85% tài sản cố định trong công nghiệp, 100% mỏ
khoáng sản lớn, hơn 90% lao động được đào tạo nhưng hiệu quả điều kiện còn thấp,
một bộ phận đáng kể còn thua lỗ hoặc không có lãi. Do đó vấn đề cấp thiết đặt ra cho
khu vực kinh tế Nhà nước là tạo ra động lực, lợi ích trực tiếp cho người lao động để họ
thực hiện quyền làm chủ, kiểm tra, kiểm soát quá trình sản xuất kinh doanh. Việc đổi
mới kinh tế Nhà nước phải hết sức coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng kết để rút ra
các bài học kinh nghiệm, bổ xung những tri thức "cập nhật" nhằm thực hiện tốt vai trò
chủ đạo và mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa của thành phần kinh tế này.
2.2.2. Thành phần kinh tế hợp tác.
Là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở liên kết tự nguyện của những người lao
động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết
có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh và đời sống.
Nòng cốt của kinh tế hợp tác xã.
Hiện nay một thực tế đặt ra là nếu không củng cố và phát triển kinh doanh hợp
tác xã để nó cùng với kinh tế Nhà nước tạo thành nền tảng của xã hội thì mục tiêu phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là rất khó khăn.
Vì vậy, Đại hội toàn quốc lần VIII đã nêu lên nhiệm vụ phải phát triển kinh tế hợp tác
xã với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao. Phong trào hợp táchoá ở nước ta xuất
hiện từ những năm 50. Nó có nhiều đóng góp quan trọng trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.
Vừa qua việc chuyển đổi từ hợp tác cũ sang hình thưc hợp tác xã kiểu mới.
Việc xác lập hộ tư chủ trong sản xuất kinh doanh và xuất hiện những hình thức hợp
tác đa dạng trong nông nghiệp như tiểu thủ công nghiệp là một biến tiến quan trọng
trong kinh tế hợp tác.
Thực tiễn cho thấy: Hợp tác xã phải được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần
và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, hưởng lợi quá theo cổ phần và kết quả
lao động. Mỗi xã viên có quyền định đoạt ngang nhau đối với công việc chung. Kinh tế
hợp tác có nhiều dạng, có những hợp tác xã trở thành lĩnh vực hoạt động chính của các
thành viên, có những hợp tác xã chỉ nhằm đáp ứng chung về một hay một số dịch vụ
trong quá trình sản xuất. Thành viên tham gia chỉ đóng một phàn vốn và lao động, hộ
gia đình vẫn là đơn vị kinh tế tự chủ. Hợp tác xã có thể là kết quả liên kết theo chiều
dọc, chiều ngang hoặc hỗn hợp không bị giới hạn bởi địa giới và lĩnh vực kinh doanh.
Mỗi người kinh doanh, mỗi hộ gia đình có thể tham gia đồng thời vào nhiều loại hình
kinh tế hợp tác. Hợp tác xã có thể huy động vốn cả trong lẫn ngoài.
Những hợp tác xã với mô hình cũ khi chuyển qua nền kinh tế thị trường đã bộc
lộ nhiều nhược điểm. Để đảm đương vai trò và nhiệm vụ mà nền kinh tế giao phó,
thành phần kinh tế tập thể phải được đổi mới căn bản và đồng bộ về quan hệ sỡ hữu,
quản lý và quan hệ phân phố, áp dụng tiến bộ và công nghệ khoa học mới vào sản xuất,
hoạt động phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tự chịu trách nhiệm với tư cách pháp
nhân lời ăn lỗ chịu.
Những hợp tác cổ phàn sẽ ra những thực thể cấu tạo thành phần kinh tế tập thể ở
tất cả các ngành của nền kinh tế. Đây là giải pháp xuất phát điểm để đổi mới các hợp
tác xã. Song đó không phải là giải pháp duy nhất có phép thần tiên màu nhiệm chữa
được mọi căn bệnh hiện nay của thành phần kinh tế tập thể. Sự tồn tại, phát triển của
kinh tế hợp tác là một tất yếu kinh tế phù hợp với con đường tiến hoá tự nhiên của nền
kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của thành phần kinh tế hợp tác xã nông nghiệp.
2.2.3. Kinh tế tư bản Nhà nước.
Kinh tế tư bản Nhà nước là phẩm của sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động
các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước.
Kinh tế tư bản Nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác liên doanh sản
xuất giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản trong và ngoài nước nhằm sử dụng khai
thác, phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia đặt dưới sự kiểm soát giúp đỡ của Nhà
nước. Kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta đa số là những doanh nghiệp nhỏ và vừa tập
trung trong ngành dịch vụ 64%. Tổng giá trị sản phẩm khu vực này tạo ra là 9% GDP.
Nó đã đóng vai trò không kém phần quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội góp phần
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Lênin đã chỉ rõ: "Trong một nước tiểu nông phải đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản
Nhà nước tiến lên xã hội chủ nghĩa". Vận dụng tư tưởng đó Đảng ta đã chỉ rõ là phải
áp dụng một cách rộng rãi các hình thức tư bản Nhà nước để phát triển kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy còn nhiều khó khăn, trở ngại trong việc phát triển
các liên doanh nhưng triển vọng của nó rõ ràng to lớn. Có xu hướng ngày càng gia tăng
cùng với sự gia tăng của đầu tư nước ngoài vào nước ta, ý nghĩa của sự phát triển
thành phần kinh tế này là việc thu hút vốn, công nghệ và kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý
của thế giới, khu vực nhằm từng bước góp phần cấu trúc lại nền kinh tế, tạo thêm
nhiều việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách. Không có sự đầu tư của nước ngoài nền
kinh tế Việt Nam không thể nhanh chóng cất cánh và rút ngắn được quá trình đạt tới
trình độ của nền kinh tế thị trường. Do đó để thu hút vốn đầu tư nước ngoài Việt Nam
cần tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn bằng cách đơn giản hoá
thủ tục đầu tư, xây dựng đội ngũ