Quan hệ hợp tác để phát triển là xu thế hiện nay của thế giới, cũng là nhu
cầu của các quốc gia. Các nền kinh tế, dù ở trình độ nào, đều phải tiến đến
nhau để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và hỗ trợ nhau.
Quan hệ giữa các nước lớn từ sau chiến tranh lạnh đến nay chứa đựng
những yếu tố phức tạp khó lường, cục diện thế giới vừa mâu thuẫn, vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh sẽ tồn tại trong thời gian dài. Có nhiều nhân tố chủ quan
và khách quan thúc đẩy sự hợp tác, liên kết giữa các nước lớn những năm đầu
thế kỷ XXI, nhưng trong sâu xa quan hệ giữa họ vẫn chứa đầy mâu thuẫn,
xung đột và có ảnh hưởng hết sức to lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, an
ninh quốc phòng của thế giới.
Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ đường lối đối ngoại
của nước ta là: “Chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”
[56, tr.38]
127 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1885 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh (1973 – 2004), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Huỳnh Hồng Hạnh
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGÔ MINH OANH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA (Asean Free Trade Area) : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
DFID (Department for International Development) : Bộ Hợp tác phát triển quốc tế.
EU (European Union) : Liên minh Châu Âu.
FDI (Foreign Direct Investment) : Đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
GSP (Generalized System of Preferences) : Hệ thống ưu đãi thuế quan chung.
NGO (Non-Government Organization) : Tổ chức phi chính phủ.
ODA (Official Development Aid) : Viện trợ phát triển chính thức.
UK (United Kingdom) : Vương quốc Anh.
WB (World Bank) : Ngân hàng thế giới.
WTO (World Trade Organization) : Tổ chức thương mại thế giới.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ hợp tác để phát triển là xu thế hiện nay của thế giới, cũng là nhu
cầu của các quốc gia. Các nền kinh tế, dù ở trình độ nào, đều phải tiến đến
nhau để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và hỗ trợ nhau.
Quan hệ giữa các nước lớn từ sau chiến tranh lạnh đến nay chứa đựng
những yếu tố phức tạp khó lường, cục diện thế giới vừa mâu thuẫn, vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh sẽ tồn tại trong thời gian dài. Có nhiều nhân tố chủ quan
và khách quan thúc đẩy sự hợp tác, liên kết giữa các nước lớn những năm đầu
thế kỷ XXI, nhưng trong sâu xa quan hệ giữa họ vẫn chứa đầy mâu thuẫn,
xung đột và có ảnh hưởng hết sức to lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, an
ninh quốc phòng của thế giới.
Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ đường lối đối ngoại
của nước ta là: “Chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”
[56, tr.38].
Việc cải thiện và thiết lập quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn,
các trung tâm chính trị - kinh tế hàng đầu của thế giới trở thành một đòi hỏi
tất yếu và cấp bách của hoạt động đối ngoại Việt Nam. Nó cho phép đồng thời
phát triển quan hệ với các đối tác có thực lực và tiềm năng lớn trên nhiều lĩnh
vực, từ đây có thể tranh thủ thu hút vốn đầu tư, công nghệ, thị trường, kinh
nghiệm quản lý tiên tiến, đáp ứng yêu cầu nhanh chóng vượt ra khỏi tình
trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài đã nhiều năm của Việt Nam, phá thế bị bao
vây cấm vận, chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đường lối ngoại giao nhất quán đó không chỉ được Đảng và Nhà nước
Việt Nam vận dụng trong quan hệ với các nước trong khu vực mà còn vận
dụng trong quan hệ với các nước phát triển thuộc Liên hiệp Châu Âu (EU),
trong đó có Vương quốc Anh. Vương quốc Anh có một vai trò đặc biệt trong
EU. Từ cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Vương quốc Anh đã có những thay
đổi đối với Châu Âu. Sự thay đổi mang tính bước ngoặt của Vương quốc Anh
thể hiện ở Hội nghị thương đỉnh Anh – Pháp ở Saint Malo (12/1998), hai
nước đã đưa ra sáng kiến thành lập lực lượng quân sự riêng của Châu Âu.
Sáng kiến này đã trở thành tiền đề cho việc hình thành chính sách an ninh và
phòng thủ chung của EU.
Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, trước xu thế phát triển của thế giới lấy kinh
tế làm trung tâm và xu thế toàn cầu hoá, EU nói chung và Vương quốc Anh
nói riêng bắt đầu nhận thấy khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có
một tiềm năng hợp tác to lớn trong nhiều lĩnh vực. Trong tầm nhìn của mình,
Vương quốc Anh xem Việt Nam là một thị trường mới mẻ đầy hấp dẫn với
dân số đông, lực lượng lao động dồi dào, có học thức, đất nước lại đang
chuyển mình trong quá trình cải cách mở cửa, hội nhập. Rõ ràng đối với
Vương quốc Anh, đây là một thị trường đầu tư, một địa chỉ hợp tác đầy hứa
hẹn. Với sự hiểu biết đó, Vương quốc Anh đã cùng với Việt Nam có những
bước đi chắc chắn trong quá trình hợp tác.
Về phía Việt Nam, đối với Vương quốc Anh, Việt Nam luôn coi trọng
quan hệ toàn diện với Vương quốc Anh, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
lẫn văn hoá, xã hội, giáo dục đào tạo và khoa học kỹ thuật, để có nhiều điều
kiện trong việc tranh thủ nguồn vốn, tiếp thu công nghệ tiên tiến và kinh
nghiệm quản lý của Vương quốc Anh. Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn
nhằm khắc phục khó khăn, từng bước gạt bỏ mọi trở ngại để cho mối quan hệ
giữa hai bên ngày càng có hiệu quả cao.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam với
Vương quốc Anh không chỉ mang ý nghĩa khoa học, mà còn đáp ứng yêu cầu
thực tiễn công tác đối ngoại của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho phép
chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm, thấy được những khó khăn vướng
mắc trong quá khứ, để có những chủ trương chính sách đúng và có giải pháp
phù hợp nhằm phát huy thành tựu, thúc đẩy quan hệ hợp tác có hiệu quả lớn
trong hiện tại và tương lai.
Từ trước tới nay, việc nghiên cứu mối quan hệ này của các nhà nghiên
cứu Lịch sử Việt Nam hầu như chưa có. Nhu cầu phát triển đất nước đặt ra
nhiệm vụ cần phải tiếp cận các vấn đề liên quan đến quá trình hội nhập quốc
tế và khu vực mang tính lợi ích của Việt Nam một cách khách quan, tổng quát
trên những cơ sở khoa học thực sự, góp phần làm cơ sở cho việc hoạch định
chủ trương, chính sách, tiếp tục đưa quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh
ngày càng phát triển.
Từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn nói trên, cùng với việc hơn 30 năm
thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, chúng tôi quyết định chọn vấn đề:
“Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh (1973 – 2004)” với mong muốn
đóng góp một phần nhỏ vào lĩnh vực nghiên cứu này. Trong bước chuyển
giao thế kỷ, tình hình quốc tế và khu vực có những chuyển biến mới, đòi hỏi
hai nước cần tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác giao lưu hữu nghị, vì
lợi ích của nhân dân mỗi nước, vì hoà bình và phát triển trong khu vực và trên
thế giới.
2. Lịch sử vấn đề
Theo hiểu biết của chúng tôi, đến nay hầu như chưa có công trình nào
của các nhà khoa học nghiên cứu về quan hệ của Việt Nam với Vương quốc
Anh, nhưng đã có một số sách xuất bản đề cập đến vấn đề quan hệ Việt Nam
– Vương quốc Anh trên lĩnh vực kinh tế được lồng ghép trong mối quan hệ
chung của khu vực EU và thế giới.
Ở trong nước, có một số công trình tiêu biểu như: “Quan hệ Việt Nam –
Liên minh Châu Âu” của tác giả Trần Thị Kim Dung, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2000; “Thúc đẩy quan hệ thương mại - đầu tư giữa Liên hiệp Châu
Âu và Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI” của Bùi
Huy Khoát (chủ biên), NXB Khoa học xã hội, 2001; Luận án “Quan hệ Việt
Nam – Liên hiệp Châu Âu (1990 – 2004)” của tác giả Hoàng Thị Như Ý, Đại
học Sư phạm, TP Hồ Chí Minh, 2006; “Việt Nam và các nước Tây Bắc Âu
trong tình hình mới, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc” của tác giả
Nguyễn Dy Niên, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; “Chiến lược đối
ngoại của các nước lớn và quan hệ Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ
XXI” của PGS.TS Nguyễn Xuân Sơn, TS Nguyễn Văn Du, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006; “Các quốc gia và vùng lãnh thổ có quan hệ quốc tế
với Việt Nam” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, NXB Thông tấn; “Quan hệ EU –
ASEAN trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI. ASEAN những vấn đề và xu hướng”
của Bùi Huy Khoát, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; “ASEM V – cơ hội
và thách thức trong tiến trình hội nhập Á – Âu” của Hoàng Lan Hoa, NXB Lý
luận chính trị; “Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút FDI ở Việt Nam”
của Mai Ngọc Cường (chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000;
“Hợp tác Á – Âu và vai trò của Việt Nam” của Nguyễn Duy Quý, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2004; “Hợp tác ASEAN – EU: Tình hình và triển vọng.
ASEAN những vấn đề và xu hướng” của Nguyễn Thu Mỹ, NXB Khoa học xã
hội, 1997; “Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – EU”, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995; “Thế giới sau chiến tranh lạnh và Châu Á – Thái
Bình Dương trong “Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc”” của Trần Quang
Cơ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; “Đổi mới kinh tế Việt Nam và
chính sách kinh tế đối ngoại”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.
Nhiều bài nghiên cứu viết về mối quan hệ Việt Nam – vương quốc Anh
cũng được đăng tải trên các tạp chí, các báo như: “Thúc đẩy quan hệ Việt
Nam – Anh” của Nguyên Thành, Thời báo Kinh tế Việt Nam, 24/5/2002;
“Quan hệ Việt – Anh phát triển” của Phong Hương, Tuần báo Quốc tế, số 44,
1996; “Mở rộng quan hệ Việt – Anh” của Hồng Phúc, Tuần báo Quốc tế, số
16, 1996; “Tương lai mở rộng hợp tác Việt – Anh”, Báo Nhân dân,
28/7/1993; “30 năm phát triển quan hệ Việt Nam – Anh quốc” của Bùi Việt
Hưng, Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Hợp tác đầu tư thương mại Việt – Anh
trong những năm gần đây” của Hoàng Xuân Hoà, Nghiên cứu quốc tế, số 34;
“Viện trợ phát triển chính thức của Anh cho Việt Nam” của Hoàng Xuân Hoà,
Nghiên cứu quốc tế, số 54; hoặc được lồng ghép trong mối quan hệ chung của
khu vực EU và thế giới như: “Quan hệ Việt Nam – EU”, Thông tấn xã Việt
Nam, 2003; “Thực trạng và triển vọng phát triển kinh tế giữa EU và Việt
Nam” của Trần Nguyễn Tuyên, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Quan
hệ kinh tế Việt Nam – Liên minh Châu Âu: Hiện trạng và triển vọng” của
Nguyễn Quang Thuấn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Tổng quan về
hợp tác Việt Nam – EU năm 2002” của Đỗ Thị Lan Phương, Tạp chí Nghiên
cứu Châu Âu, 2002; “Trước thềm ASEM V, nhìn lại thực trạng và triển vọng
quan hệ hợp tác EU – ASEAN” của Ngô Minh Oanh, Tạp chí Nghiên cứu
Châu Âu, 2004; “Vị thế của Việt Nam trong quan hệ hợp tác kinh tế EU –
ASEAN” của Mai Hồng Nhung, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Việt
Nam trong tiến trình hợp tác ASEM” của Nguyễn Văn Lịch, Tạp chí Nghiên
cứu Châu Âu, 2004; “Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU” của
Nguyễn Thị Như Hà, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 2001; “Quan hệ Việt
Nam – Châu Âu” của Hoàng Hải, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 1996, số 7;
“Thương mại Việt Nam – EU: phát triển bền chặt”, Báo Đầu tư, 2/4/1998;
“Hợp tác Việt Nam – EU ngày càng mở rộng”, Báo Nhân dân, 11/2/1995;
“Quan hệ thương mại Việt Nam – EU thời gian gần đây”, Báo Ngoại thương,
1997; “Quan hệ Việt Nam – EU”, Báo Ngoại thương, 1996; “ASEM: Những
thành tựu và vấn đề” của Bùi Huy Khoát, Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Chiến
lược Châu Á mới của EU và vai trò của ASEM” của Bùi Huy Khoát, Nghiên
cứu Châu Âu, 2003; “Đông Nam Á trong chiến lược Châu Á mới của Liên
hiệp Châu Âu” của Bùi Huy Khoát, Nghiên cứu Châu Âu, 2005, số 62; “EU –
ASEAN: Những quan hệ đang được thúc đẩy” của Bùi Huy Khoát, Nghiên
cứu Châu Âu, 1995, số 3; “Việt Nam – Châu Âu: Một số vấn đề về thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài” của Bùi Nhật Quang, Nghiên cứu Châu Âu,
1995, số 3; “Tiếp tục hỗ trợ Việt Nam: WB, Anh, Thụy Điển, Hà Lan”, Thời
báo Kinh tế Việt Nam, 2003; “ASEAN - Một đối tác chiến lược của Liên
minh Châu Âu” của Đặng Minh Đức, Nghiên cứu Châu Âu, 2003; “Đầu tư
của Liên minh Châu Âu tại Việt Nam”, Nghiên cứu Châu Âu, 1996, số 6;
“Tình hình chính trị - xã hội của EU hiện nay (2001 – 2005) và những tác
động đến Việt Nam” của Đinh Công Tuấn, Nghiên cứu Châu Âu, 2005, số 62;
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển từ 1980 đến nay: Xu
hướng vận động và các vấn đề cần giải quyết” của Đỗ Đức Bình, Những vấn
đề kinh tế thế giới, 1997, số 46; “Quan hệ thương mại và đầu tư EU – Châu
Á” của Đỗ Đức Mạnh, Nghiên cứu Châu Âu, 1995, số 4 & 5; “Mấy vấn đề về
vốn ODA vào Việt Nam của các nước Tây Bắc Âu” của Hoàng Hải, Nghiên
cứu Châu Âu, 1996, số 6; “EU và chiến lược đầu tư vào các nước trong khu
vực và Việt Nam” của Kim Ngọc, Nghiên cứu Châu Âu, 1995, số 1; “Việt
Nam – EU: Hợp tác kinh tế và thương mại” của Kim Ngọc, Những vấn đề
kinh tế thế giới, 1996, số 4; “Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, vị trí của
Châu Âu còn thấp nhưng đầy hứa hẹn” của Lê Mạnh Tuấn, Nghiên cứu Châu
Âu, 1995, số 1; “Toàn cầu hoá kinh tế - Một số tác động tới quá trình liên kết
kinh tế EU – ASEAN” của Nguyễn An Hà, Nghiên cứu Châu Âu, 2003;
“Quan hệ Việt Nam – EU năm 1997: Bước tiến vững chắc” của Nguyễn Đăng
Quế, Tuần báo quốc tế, 1997, số 42 và 52; “Tiến trình hợp tác Á – Âu và sự
tham gia của Việt Nam” của Nguyễn Quang Thuấn, Nghiên cứu quốc tế,
2004, số 59; “Vài nét về quan hệ EU - Việt Nam” của Nguyễn Thu Hà,
Nghiên cứu Châu Âu, 1996, số 3; “Tiếp xúc, giao lưu và phát triển văn hoá:
Quan hệ văn hoá giữa Việt Nam và thế giới” của Phạm Đức Dương, Nghiên
cứu Đông Nam Á, 1994, số 4; “Bối cảnh quốc tế mới và những vấn đề kinh tế
EU – ASEAN” của Trần Đình Thiên, Những vấn đề kinh tế thế giới, 2005, số
114; “Viện trợ phát triển chính thức của EU cho khu vực Đông Nam Á” của
Trần Hoàng Mai, Nghiên cứu Châu Âu, 1996, số 1; “Năm 1997 - Một bước
tiến mới vững chắc trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và EU”
của Trần Thị Kim Dung, Nghiên cứu Châu Âu, 1998; “Quan hệ thương mại
và đầu tư giữa Việt Nam và EU” của Từ Thanh Thủy, Những vấn đề kinh tế
thế giới, 1998, số 1; “Tăng cường hợp tác Á – Âu về đầu tư”, VN Express,
2003. Ngoài ra, đề tài còn được thực hiện trên cơ sở tham khảo các nguồn
tài liệu sau đây:
Các văn kiện của Đảng, Nhà nước XHCN Việt Nam, các Hiệp định, văn
bản ký kết giữa hai nước, số liệu của Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch đầu tư,
Cục Thống kê, các tài liệu liên quan đến quan hệ Việt Nam – vương quốc
Anh lưu trữ ở Trung tâm lưu trữ Quốc gia II – TP.HCM, các bài viết đăng tải
trên tạp chí như Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu Châu Âu, những vấn đề kinh
tế thế giới, và các bài đăng trên các báo như Thông tấn xã, Nhân dân, Tuần
tin tức, Tuần báo quốc tế, Đầu tư, Sài Gòn Giải phóng, các trang web của
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam như: website của Đảng Cộng sản Việt Nam
(www.cpv.org.vn), Quốc hội Việt Nam (www.na.gov.vn), Bộ Văn hoá –
Thông tin (www.cinet.vnn.vn), Bộ Khoa học công nghệ và môi trường
(www.moste.gov.vn), Bộ Ngoại giao Việt Nam (www.mofa.gov.vn), Tổng
Cục thống kê (www.gso.gov.vn), Bộ Thương mại (www.mot.gov.vn)....
Ở ngoài nước, tiêu biểu như: Brian B., Coping with Contagion: Europe
and the Asian Financial Crisis, Asian Survey, May/June; Dent C.M., The
European Union and East Asia: Geo – Economic Diplomacy and Crisis
Management, Global Change: The Impact of Asia in the 21st Century,
Macmillan, London; Dent C.M., The European Union and East Asia: An
Economic Relationship, Routledge, London; Foreign Investment in Southest
Asia.
Nhìn chung, tài liệu về đề tài này là tương đối nhưng không tập trung,
những số liệu trích dẫn từ các nguồn nhiều lúc có sự chênh lệch, gây không ít
khó khăn trong quá trình tập hợp và phân loại tài liệu với khả năng có hạn của
người thực hiện đề tài.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vận dụng những quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm cơ bản
của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế như là những cơ sở lý luận
cho nghiên cứu.
Chúng tôi sử dụng hai phương pháp chuyên ngành, đó là phương pháp
lịch sử và phương pháp logic. Đồng thời chúng tôi cũng sử dụng các phương
pháp liên ngành như phương pháp nghiên cứu kinh tế, phương pháp nghiên
cứu quan hệ quốc tế và các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp,
thống kê.
Dựa vào phương pháp lịch sử, luận văn dựng lại toàn bộ quá trình lịch sử
quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh qua những sự kiện, dấu mốc và các giai
đoạn phát triển đa dạng của mối quan hệ dưới tác động của tình hình thế giới,
khu vực và sự phát triển, đổi mới chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Trên cơ sở của bức tranh lịch sử toàn cảnh, phương pháp logic vạch ra
bản chất của mối quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh nhằm rút ra những
đặc điểm, chiều hướng phát triển của mối quan hệ này.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu:
+ Về phạm vi thời gian, giới hạn đề tài này chủ yếu từ năm 1973 đến
năm 2004. Tuy nhiên để làm rõ hơn mối quan hệ này, chúng tôi có đề cập đến
quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh giai đoạn trước năm 1973.
+ Về nội dung, đề tài đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ Việt Nam –
Vương quốc Anh giai đoạn 1973 – 2004 trên một số lĩnh vực: chính trị -
ngoại giao, kinh tế - thương mại, văn hoá – giáo dục, khoa học kỹ thuật
* Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam – Vương quốc Anh trong
bối cảnh của tình hình thế giới và khu vực, sự điều chỉnh chiến lược, sách
lược, biện pháp cụ thể trong chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Luận văn xem xét mối quan hệ này dưới góc độ Việt Nam với tư cách
là chủ thể của mối quan hệ và chủ thể của đối tượng nghiên cứu trong mối
quan hệ với Vương quốc Anh.
5. Đóng góp của luận văn
- Trên cơ sở phân tích và so sánh những tài liệu thu thập được, chúng tôi
cố gắng phục dựng lại bức tranh toàn cảnh quan hệ Việt Nam – Vương quốc
Anh từ năm 1973 đến năm 2004 trên các lĩnh vực hợp tác với những khó khăn
trở ngại, các vấn đề đã gặp phải trong phát triển quan hệ thời gian qua.
- Rút ra những nhận xét, bài học kinh nghiệm, dự báo những cơ hội và
thách thức, nêu lên triển vọng và xu thế phát triển của quan hệ hợp tác giữa
hai nước, từ đó đề xuất hướng giải quyết để thúc đẩy các quan hệ này trong
bối cảnh vượt qua tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực, đưa đất
nước vào quỹ đạo phát triển ổn định, bền vững trong những thập niên đầu thế
kỷ XXI.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Lịch sử, Quan
hệ quốc tế.
6. Bố cục luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục, phần nội dung chính được triển khai qua ba chương:
- Chương 1: Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh từ năm 1973 đến
năm 1990.
- Chương 2: Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh từ năm 1991 đến
năm 2004.
- Chương 3: Những cơ hội, thách thức và triển vọng của quan hệ Việt
Nam – Vương quốc Anh những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Chương 1: QUAN HỆ VIỆT NAM – VƯƠNG QUỐC ANH
TỪ NĂM 1973 ĐẾN 1990
1.1. Khái quát về quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh trước năm 1973
1.1.1. Đôi nét về Vương quốc Anh
Vương quốc Anh (UK) nằm ở Bắc Đại Tây Dương, phía Tây Châu Âu,
được thành lập năm 1801, chiếm phần lớn quần đảo Anh. Đảo lớn nhất là
Great Britain gồm England, Scotland và Wales. Kế theo là đảo Ailen mà phía
bắc thuộc UK và phía nam là nước Cộng hoà Ailen. Ngoài ra còn có trên
4000 hòn đảo lớn nhỏ khác. Vương quốc Anh có khí hậu biển thất thường,
nhưng nhìn chung khí hậu ôn hoà với nhiệt độ trung bình ít khi quá 320C và
âm dưới 100C.
Vương quốc Anh có diện tích 243.000 km2, với số dân 59,756 triệu
người, đa số theo đạo Tin Lành (Anh giáo), nói tiếng Anh, và có thủ đô Luân
Đôn. Quốc khánh của Vương quốc Anh là ngày 11/6, kỷ niệm chính thức
ngày sinh Nữ hoàng Elizabeth II.
Vương quốc Anh theo chế độ quân chủ lập hiến, nguyên thủ quốc gia
nay là Nữ hoàng Elizabeth II, đồng thời là nguyên thủ quốc gia của nhiều
nước trong khối thịnh vượng chung do Vương quốc Anh đứng đầu.
Quốc hội Anh có hai viện, Hạ viện gọi là House of Commons và Thượng
viện là House of Lords. Nền chính trị là dân chủ nghị viện đa đảng, luôn luôn
do hai đảng lớn là Đảng Bảo thủ và Công đảng thay nhau cầm quyền từ 150
năm nay.
Kinh tế Anh chủ yếu dựa vào khu vực kinh tế tư nhân (chiếm 80% sản
lượng và 75% lao động). Chính sách kinh tế là tự do hoá thị trường, khuyến
khích hoạt động kinh doanh thông qua các biện pháp như tư nhân hoá và cải
cách thuế, duy trì tăng trưởng trên cơ sở thúc đẩy xuất khẩu và đầu tư. Vương
quốc Anh đứng thứ tư thế giới về GDP (sau Mỹ, Nhật, Đức), đứng thứ năm
về thương mại quốc tế (5,4%) và thứ ba về dịch vụ (chiếm 6,8%). Một số kết
quả khả quan trong phát triển kinh tế, đó là duy trì được tốc độ tăng trưởng
kinh tế tương đối cao so với các nước EU, thất nghiệp giảm mạnh, lạm phát
thấp. Thương mại của Vương quốc Anh luôn đóng vai trò qua